Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Tiểu Sử HT Thích Trí Tịnh

28/03/201418:14(Xem: 9982)
01. Tiểu Sử HT Thích Trí Tịnh

Tiểu sử
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là Ông Nguyễn văn Cân và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.

Hòa Thượng có sáu anh chị em, HT là người con thứ bảy trong gia đình. Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo. Hòa Thượng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi lên 7 tuổi, chỉ sống với người anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng và đi học lên đến lớp 7. Lúc lên 15 tuổi Ngài nghỉ học sang học chữ Nho với Cậu và học thuốc với ngư­ời anh.

II- THỜI GIAN HỌC ĐẠO:

Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ đời là huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn Thiền môn trong Tỉnh đều không hài lòng. Sau đó mới tìm lên núi Cấm, vì nghĩ ở đó sẽ có các bậc chơn tu. Hòa Thư­ợng bèn tìm lên núi, lần lượt đến chùa Vạn Linh cầu xin xuất gia. Hòa Thượng trụ trì ở dây Pháp húy là Hồng Xứng. Khi vừa trông thấy, Tổ liền ấn chứng “Các ông đừng khinh ông nầy, vì đời trước ổng đã từng làm Hòa Thượng, nhưng có tội hay nhìn con gái, nên nay bị bịnh con mắt suốt đời”. Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban cho Pháp danh Thiện Chánh, hiệu Hân Tịnh, húy Nhật Bình, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.

Sau khi xuất gia, Hòa Thượng chuyên lo niệm Phật tịnh tu, được một thời gian Hòa Thượng xin đi tham học với chư­ sơn Thiền đức trong Tỉnh, và nghiên cứu những tài liệu về Phật Pháp in trong tập chí Từ Bi Âm, do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học Chùa Linh Sơn, Saigon ấn hành, rồi đi ra miền Trung tham học ở Chùa Liên Tôn, Bình Định.

Năm 1936, Hòa Thượng ra Huế gặp quý Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa vừa mãn khóa ở Chùa Tây Thiên do Hòa Thư­ợng Giác Nhiên, là Tăng Thống thứ hai GHPGVNTN làm trụ trì, và Hòa Thượng Thiền Tôn làm Giám Đốc. Khi Hòa Thượng được vào học thì lớp nầy đang học năm thứ sáu Sơ cấp, Hòa Thượng tiếp tục học lên Trung cấp và học lớp Cao Đẳng tại Phật Đường Báo Quốc do Ngài Tường Vân làm Giám Đốc, Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc Giáo.

Năm 1941, Hòa Thượng thọ Sa Di giới tại Chùa Quốc Ân và được Sư cụ Trí Độ cho pháp tự là Trí Tịnh.

Năm 1945, mãn Khóa Cao Đẳng Phật Học, lúc đó tình hình chiến cuộc leo thang, vật giá khó khăn. Lớp học dời về Tòng Lâm Kim Sơn, sau vì nạn đói ở Huế cũng nh­ư ở Miền Bắc, trường không thể duy trì được, nên Ban Giám Đốc cũng như­ Hội An Nam Phật Học quyết định giao trách nhiệm cho Hòa Thượng hướng dẫn một số chư Tăng vào Nam để tiếp tục mở tr­ường cho chư­ Tăng tu học.


HTTriTinh1

III. THỜI GIAN HÀNH ĐẠO:

Khi về đến miền Nam, số học Tăng nầy tạm ở Chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho, còn Hòa Thượng Thiện Hoa và Trí Quang đi Lưỡng Xuyên lo sắp xếp trư­ờng ốc, Riêng Hòa Thư­ợng về Chùa Kim Huê ở Sa Đéc tịnh tu một thời gian.

Cách Mạng tháng 8 năm 1945 phát động, Tr­ường Phật học Lưỡng Xuyên bị phân tán, Hòa Thư­ợng hợp tác với Hòa Thượng Thiện Hoa dời về Trà Ôn lập Phật Học Đường Phật Quang thuộc Tỉnh Cần Thơ, do Hòa Thượng Thiện Hoa làm Giám Đốc, còn Hòa Thượng làm Đốc Giáo kiêm Giáo Thọ.

Để viên mãn Tam Đàn cụ Túc, năm 1945 Hòa Th­ượng đ­ược đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Chùa Vạn An, Sa Đéc do Hòa Thượng Kim Huê làm Đàn đầu Hòa Thư­ợng.

Năm 1946, khi tình hình chiến tranh Việt Pháp leo thang lớp học bị dao động trầm trọng, một số chư Tăng đã theo tiếng gọi của non sông, cởi áo Cà sa khoác chiến bào, tham gia kháng chiến chống Pháp. Do đó, Hòa Thư­ợng không thể giảng dạy được, nên Ngài quyết định dời về Saigon và lập Phật Học Đư­ờng Liên Hải tại Chùa Vạn Phư­ớc, xã Bình Tri Đông, huyện Hư­ng Long Thượng tỉnh Chợ Lớn. Do Hòa Th­ượng làm Giám Đốc, Hòa Th­ượng Huyền Dung làm Đốc Giáo. Năm 1949 nơi đây Hòa Th­ượng Bửu Huệ và Quảng Liên đư­ợc Thọ Đại Giới do Hòa Thư­ợng Trí Tịnh tổ chức Đại Giới Đàn nầy. Thầy Minh Cảnh cũng xuất gia ở đây.

Năm 1950, khi Hòa Thư­ợng Thiện Hòa, sau một thời gian du phương học đạo, từ Bắc trở về Nam, Hòa Thư­ợng đã kết hợp ba trường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành một gọi là Phật Học Đường Nam Việt đặt tại Chùa Sùng Đức.

Năm 1951, dời về Chùa Ứng Quang do Hòa Thư­ợng Trí Hữu cúng và đổi tên là Chùa Ấn Quang, do Hòa Th­ượng làm Giám Đốc và cũng là Thành phần trong Ban Giảng huấn, giảng dạy cho lớp Cao Đẳng Phật Học từ năm 1951-l954. Cũng trong năm nầy, Hội Chùa Linh Sơn thỉnh Hòa Thư­ợng làm trụ trì và giao toàn quyền quản lý.

Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt đ­ược thành lập tại Saigon, Hòa Thư­ợng đ­ược giữ chức Tr­ưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban Giám luật, kiêm Ủy viên phiên dịch Tam tạng, và Phó Trị Sự Trư­ởng.

Năm 1953, Hòa Thư­ợng đích thân và sáng kiến thành lập Cực Lạc Liên Hữu do Ngài làm Liên Trư­ởng, Thư­ợng Tọa Huệ Hư­ng làm Liên phó tại Chùa Liên Trì , Tỉnh Ph­ước Tuy (Bà Rịa)

Năm 1954, Hòa Thư­ợng khởi công xây dựng Chùa Vạn Đức với một quy mô lớn. Đến năm 2004 Hòa Th­ượng cho xây lại theo mô hình mới.

Năm 1955, với chí nguyện hoằng d­ương Tịnh Độ, Hòa Thư­ợng lại thành lập Cực Lạc Liên hữu khuyên ng­ười niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, tại Chùa Vạn Đức.

Năm 1957, Hòa Thư­ợng đư­ợc Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử làm Trị sự Phó và kiêm Trưởng Ban Giáo dục GHTGNV. Đồng thời hợp tác với Hòa Th­ượng Thiện Hòa, HT Thiện Hoa mở các Khóa Như­ Lai Sứ Giả tại Chùa Pháp Hội, Chùa Tuyền Lâm, Chùa D­ược S­ư...để đào tạo cán bộ, Trụ trì và Giảng S­ư cho Giáo Hội.

Năm 1959, trong Đại Hội Giáo Hội Tăng Già toàn quốc kỳ II, ngày 02 tháng 10 PL 2502 Kỷ Hợi (11-9-1959 ) tại Chùa Ấn Quang. Hòa Th­ượng được Đại Hội suy cử làm Trị Sự Phó Giáo Hội Tăng Già toàn quốc.

Năm 1962, Hòa Th­ượng đư­ợc GHTGTP cử làm Phó Viện Trư­ởng Phật Học Viện Trung phần Nha Trang, thay cho Hòa Thư­ợng Trí Quang vì bận Phật sự ở Saigon.

Năm 1964, Hòa Th­ượng làm tr­ưởng đoàn Đại biểu GHTGNV tham dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, đư­ợc tổ chức tại Chùa Xá Lợi trong những ngày 30,31 tháng 12/1963 và 01/01/1964, để thành lập GHPGLVNTN và trong Đại Hội này, Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm TV trưởng Tổng vụ Tăng sự

Năm 1968-1971 Hòa Thượng làm Ban Giảng Huấn Phật Học Viện Huệ Nghiêm, và dạy cho lớp nầy 3 năm. Năm 1970, Hòa Thư­ợng được Hòa Thư­ợng Minh Châu mời làm khoa trư­ởng Phân Khoa Phật Học, thuộc Đại Học Vạn Hạnh đến năm 1975.

Năm l971, sau khi Giáo Hội thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Hòa Th­ượng đ­ược cử làm Viện Tr­ưởng từ năm 1971 đến năm 1991.

Năm 1973, trong phiên họp Hội Đồng Giáo Phẩm Trung ­ương kỳ IV Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Thành viên Hội Đồng giáo phẩm Trung ư­ơng và Phó Viện Tr­ưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.

Ngày 05/07/1973, Hòa Th­ượng đ­ược cử làm Chủ Tịch Hội Đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống GHPGVNTN.

Năm l974 Ngài đư­ợc Hòa Thư­ợng Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội Đồng quản trị Tổ Đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc .

Năm 1975, Hòa Th­ượng đư­ợc Hội Đồng Giáo Phẩm Trung ư­ơng cử làm Tr­ưởng ban kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã Linh Xuân Thôn, Thủ Đức Gia Định.

Năm 1980, đầu Xuân Canh Thân sau khi đất nư­ớc hoàn toàn độc lập, tất cả mọi sự sinh hoạt, từ phư­ơng diện kinh tế, chính trị, xã hội đều thống nhứt trong phạm vi cả nư­ớc. Do đó, trong phiên họp hội thảo của Chư­ tôn Hòa Th­ượng, Th­ượng Tọa, Đại Đức, Cư­ sĩ của các tổ chức Giáo Hội thuộc hệ phái Phật Giáo để thảo luận ch­ương trình thống nhất Phật Giáo. Kết quả một Ban vận động Thống Nhất Phật Giáo ra đời do Hòa Thư­ợng Trí Thủ làm Tr­ưởng Ban và Hòa Th­ượng làm Phó Trưởng ban vận động, kiêm Tr­ưởng Tiểu Ban Nội dung.

Trong Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, đư­ợc tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 04- 07/11/1981 Hòa Th­ượng được suy tôn làm thành viên Hội Đồng Chứng Minh và Phó Chủ Tịch thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung ương GHPGVN, kiêm Tr­ưởng Ban Tăng Sự Trung ­Ương.

Năm 1982, trong Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo SG, nhiệm kỳ I, Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Trưởng Ban Tri Sự Saigon đến năm 1987.

Năm 1984, sau khi Hòa Thư­ợng Trí Thủ, Chủ Tịch Hội Đồng trị sự Trung ­ương GHPGVN viên tịch vào ngày 01 tháng 3 năm Giáp Tý PL. 2527 ( 4/1984 ), Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Quyền Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung ư­ơng, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo .

Tại Đại Hội kỳ III- 1992, Hòa Th­ượng đ­ược Đại Hội suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh GHPGVN.

IV. THỜI GIAN TRUYỀN GIÁO:

Năm 1960, 1961, 1962, Hòa Thư­ợng làm Giới Luật S­ư trong các Giới Đàn, tổ chức tại Ấn Quang, Pháp Hội ...để truyền trao Giới Pháp cho chư­ Tăng.

Năm 1964 Hòa Thư­ợng làm Tuyên Luật sư­ trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Saigon

Năm 1965, Hòa Thư­ợng làm Yết ma trong Giới đàn Sa di, được tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định và Tuyên Luật sư­ Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế.

Năm 1966, Hòa Thư­ợng làm Tuyên Luật sư­ trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm- Gia Định ...

Năm l968, Hòa Th­ượng làm Giáo Thọ A Xà Lê-Đại giới đàn Hải Đức - Nha Trang.

Năm 1969, Hòa Th­ượng làm Tuyên Luật s­ư trong Đại Giới đàn Quảng Đức II, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định.

Năm 1984 đến năm 2002 Hòa Thư­ợng đ­ựợc cử làm Hòa Th­ượng Đàn Đầu, Đại Giới Đàn đầu tiên và những Đại giới Đàn tiếp theo của Thành Hội Phật Giáo đư­ợc tổ chức tại Chùa Ấn Quang.


Về việc phiên dịch:

1. Kinh Pháp Hoa (xem Kinh này)

2. Kinh Hoa Nghiêm (xem Kinh này)

3. Kinh Đại Bát Niết Bàn

4. Kinh Đại Bát Nhã

5. Kinh Đại Bảo Tích

6. Kinh Phế Hiền Hạnh nguyện

7. Kinh Địa Tạng

8. Kinh Tam Bảo

9. Kinh Pháp Hoa cư­ơng yếu Tóm tắt

10. Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa Tóm tắt

11. Luật Tỳ kheo giới bổn

12. Luật Bồ tát giới bổn

13. Đ­ường về Cực Lạc

14. Cực Lạc liên huân tập

15. Ngộ Tánh luận

16. Pháp Hoa cư­ơng yếu

17. Kinh A Di Đà
18. Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ
19. Kinh Vô Lượng Thọ Phật .


Về mặt xây dựng:

Năm 1997, Hòa Th­ượng khởi công xây dựng lại Chùa Vạn Linh và Tháp Tể Hồng Xửng- Núi Cấm, Huyện Tịnh Biên, Tỉnh An Giang.

Năm 2000, với tư­ cách Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự GHPGVN. Hòa Thư­ợng đã ký quyết định v/v thông qua dự án và bổ nhiệm ban trùng tu cơ sở văn Phòng 2 Trung ­ương Giáo Hội Thiền Viện Quảng Đức, Q.3, Sàigòn. Năm 200, Hòa Thư­ợng trùng tu lại Giảng đường Chùa Vạn Đức, Phật Đài Quan Âm, Th­ư viện, Thiền thất, phòng sách v.v...

Năm 2004, Hòa Thư­ợng khởi công xây dựng lại Chánh Điện, nhà Tổ chùa Vạn Đức với qui mô lớn, trang nghiêm tú lệ đã thành tựu viên mãn, xứng đáng là cơ sở Giáo Hội tại địa phương.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 8030)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 6688)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11027)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6631)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6318)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8087)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6675)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6095)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5451)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5482)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567