Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử HT Thích Huyền Dung

26/03/201411:52(Xem: 10670)
Tiểu Sử HT Thích Huyền Dung
Tiểu sử Đại o Hòa thượng
Thích Huyền Dung
(1918-2014)

Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung. Ngài sinh năm 1918 tại thôn Thanh Mai, xã Nhơn Hạnh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân Phụ ngài là cụ ông Lê Cừu, pháp danh Như Trung, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Đĩnh, pháp danh Diệu Trực. Ngài là con út trong gia đình có tám người con, anh kế Ngài là Lê Siền, hiện còn đang sinh sống tại quê nhà với tuổi đại thọ 102.

Năm 1932, Ngài xuất gia, khi đó Ngài vừa tròn 14 tuổi tại chùa Bích Liên với Bổn sư là Hòa thượng Thích Chơn Giám. Ngài được trực tiếp học giáo pháp và tu tập với Hòa thượng Bổn sư cho đến năm 1939 và cũng trong năm này Hòa Thượng thọ đại giới.

Năm 1940, Ngài ra Huế, tu học tại Phật học viện Bảo Quốc, dưới sự hướng dẫn của sư huynh là Hòa thượng Thích Trí Độ. Năm 1945, Ngài được chỉ định vào Sài Gòn để cùng Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Phật sự, khai sáng Phật học đường Liên Hải và làm chủ bút báo Từ Bi Âm.

Năm 1949, Ngài là sáng lập hai viện Phật học và làm giám đốc: Phật học đường Mai Sơn và Phật học đường Sùng Đức tại Phú Lâm, Chợ Lớn. Năm 1951, do nhu cầu hoằng pháp trong phạm vi rộng lớn cần đến sự kết hợp các Phật học đường lại với nhau, Ngài đã hợp Phật học đường Liên Hải, Phật Học đường Mai Sơn và Sùng Đức thành Phật học đường Ấn Quang. Ngài vừa là một thành viên trong Ban Giám đốc, vừa là Giáo sư bậc Cao đẳng tại Phật học đường Ấn Quang. Và cũng cùng năm ấy, do nhu cầu thống nhất Phật giáo Bắc Nam Trung, Ngài cùng với chư Tăng sáng lập Giáo hội Tăng già Nam Việt và Ngài đảm nhiệm chức vụ Tổng Trị sự Trưởng Giáo hội.

Năm 1953, Hòa thượng xuất ngoại, hoằng pháp, nghiên cứu Phật pháp ngoại điển tại Anh Quốc cho tới năm 1999, và Ngài đã tốt nghiệp Cử nhân Xã hội Triết học và Thạc sĩ Kinh tế Triết học tại đại học Luân Đôn.

Năm 1995, Giáo sư Trần Quang Thuận, người từng du học tại Luân Đôn với Ngài, mời Ngài sang Hoa Kỳ thăm viếng các thiền viện, các chùa, chư Tăng Ni thuộc tiểu bang California; nhưng mãi tới năm 1999, theo lời thỉnh mời của cố Hòa thượng Thích Đức Niệm, viện chủ Phật Học Viện Quốc Tế, Ngài chính thức sang Hoa Kỳ và định cư để chung lo Phật sự với chư Tăng Ni Hoa Kỳ. Ngài được chư Tăng Ni suy cử vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Giám sát Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại, tại Hoa Kỳ.

Trong thời gian sống tại Nam California, Ngài tổ chức các lớp tu học Phật pháp cho Phật tử trong hai vùng Los Angeles và Orange. Ngài tổ chức các lớp tu học Thiền và Tịnh độ để giảng dạy cho cả Phật tử Mỹ và Việt. Chương trình học 5 năm, được hoàn tất năm 2008. Chương trình này có phát thanh hàng tuần vào ngày Chủ nhật trên đài Hương Sen của Tổng hội Cư sĩ Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Về tác phẩm Phật học, Ngài đã dịch kinh Dược Sư và Thủy Sám. Vì nhu cầu giảng dạy Phật pháp tại hải ngoại, Ngài đã biên soạn rất công phu những bài giảng kinh Pháp Hoa và kinh Duy Ma Cật cho Phật tử Việt và Mỹ.

Le Nhap Kim Quan HT Huyen Dung (1)

Những năm Hòa thượng Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ:

- Từ năm 1999-2003: Trụ xứ tại Phật học viện Quốc Tế, North Hills CA: Hướng dẫn các lớp tu học Thiền và Tịnh độ.

- Từ năm 2003-2004: Ngài thành lập Phật Quang thiền viện Reseda, CA: Hướng dẫn các lớp tu học Thiền và Tịnh độ.

- Từ năm 2004-2011: Ngài dời về Phật Quang thiền viện Chatsworth, CA: tiếp tục hướng dẫn lớp tu học Thiền và Tịnh độ.

- Từ năm 2008 đến nay: Ngài lập thêm Pháp Hoa thiền viện Garden Grove, CA: Hướng dẫn các lớp tu học thiền và Tịnh độ.

- Vào lúc 3 giờ 58 chiều ngày 15 tháng 3 năm 2014, (nhằm ngày 15 tháng 2 năm Giáp Ngọ) Ngài đã thuận thế vô thường thâu thần thị tịch tại Garden Grove Hospital, Garden Grove, California, Hoa Kỳ, thọ thế 96, hạ lạp 75.

Nhất Tâm Đảnh Lễ Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế Húy thượng Như hạ Lễ Hiệu Thích Huyền Dung Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh Chứng Giám.

Ý kiến bạn đọc
30/04/201500:42
Khách
Xin nói thêm dòng phái của ĐLHT Huyền Dung.Như trên dựa vào Tiểu Sư 3;HT đây cúng thế thứ với Ngài Trí Quang huý Nhựt Quang cùng làm môn đồ của ĐLHT Trí Độ hàng chử Hồng đời 41;Như vậy quý Ngài Trí tịnh;Trí Quang;huyền Dung;Thanh Từ;Từ Thông thuộc đời thứ 41 dòng LT Gia Phổ;tất cả thuộc thế hệ dưới cụ Thiện Hoa huý Hồng Nở đời thứ 40.Bởi vậy khoảng trên 40 năm về trước khi theo Ngài Huệ Thới -Hồng Đại diện kiến Ngài Trí Tịnh ;Người phán câu kẻ hèn nầy còn nhớ đời:tất cả đều là bà con pháp quyến nhưng bận phật sự ít khi hội ngộ ;nay thiệt là Tam sanh hửu hạnh[tiếng của người xưa đời nay ít ai xử dụng].mô Phật viết ít hảng để ôn cố tri tân hay còn gọi là Điếu cổ hạ Kim !!!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7128)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4187)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4821)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5571)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6181)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3800)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5232)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5311)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12924)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11481)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567