Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

26/02/201410:01(Xem: 12781)
Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

To su minh dang quang

Bài tham luận Hội Thảo “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập”

TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

CHIẾC BÓNG BÊN TRỜI TRĂNG KHUYẾT



Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong giai đoạn đất nước nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, công cuộc chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo hộ lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẽ ấy. Bởi lẽ trước đó hai năm ( năm Canh Thân 1920) quan toàn quyền Maurice Long đã thành lập Hội Đồng Thuộc Địa Nam Kỳ, còn được gọi là Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial) mà cũng là nơi tranh nhau quyền lợi giữa các nhóm làm ăn người Hoa, người Pháp cũng như các ông tư sản của chính vùng đất Nam Kỳ. Thật ra, trên bình diện chung, thời điểm này được xem là giai đoạn chuẩn bị tuột dốc, để không lâu sau đó, cao trào tự chủ, độc lập dân tộc khắp nơi trên thế giới đã thổi làn gió tích cực đến nhiều giới sĩ phu, nông dân yêu nước Việt nam mạnh mẽ và rất quyết liệt, làm lung lay chế độ thực dân mà Pháp đã dày công củng cố nhiều mặt và nuôi giấc mộng chiếm ngự lâu dài.

Đọc lại những trang sử ố vàng theo thời gian trong giai đoạn này, chúng ta không khó khăn lắm bắt gặp hình ảnh Phật giáo nằm khép sâu trong mớ tro bụi ấy rất cũ kỹ, rất cổ xưa và nói chính xác hơn không có sự sống. Phải đợi gần mười năm sau đó nữa, chư Tôn Đức tài ba mới dấy động thành công phong trào chấn hưng Phật giáo khắp ba kỳ rực rỡ. Điều rất dễ nhận ra lý do tại sao là: khi đất nước nguy vong, đạo pháp cũng không an ổn, có những Tăng Ni Phật tử, phải “cởi áo cà sa khoát chiến bào” lên đường cùng đoàn quân chống ngoại xâm. Và tất nhiên chúng ta không thể quên còn có lý do to lớn nhất: thực dân Pháp đã thành công trong việc đẩy lùi Phật giáo vào chốn thâm sâu cô tịch, biến giới Tăng sĩ thành những ông Thầy chùa làng ít học và Phật tử có chăng chỉ là thành phần có việc ma chay phải tống táng, mới đến chùa cúng bái. Những dòng chữ lịch sử u buồn này được nhà viết sử Vân Thanh mô tả như sau “Phật giáo thời bấy giờ cùng chung số phận ấy, mất chủ quyền dân tộc, giáo quyền đạo Phật bị chà đạp trắng trợn hơn bao giờ hết (các Sư phải nộp thuế thân, phải đi lính cho thực dân Pháp, chẳng được tự do truyền đạo như bên Thiên Chúa v.v...)Tình trạng khốn đốn của Phật giáo trong buổi này chẳng khác nào đóng cửa để chờ chết vì chẳng còn hệ thống(đoàn thể) tổ chức như trước kia, nguyên do thực dân Pháp cố tình cắt đứt sự tổ hợp của Phật giáo buổi này, chúng sợ dân ta trá hình là Phật giáo để rồi chống đối chúng, nên mọi hình thức của Phật giáo bị làm tê liệt cả.Trong tăng giới thời này chẳng biết làm gì hơn trước sự dòm ngó theo dõi của thực dân, nên sự sống hết sức rời rạc vô tổ chức”(trích trang 189-190, LKPGS, giấy phép số 929/72/PTUVK SALP/TP 27.6.1974 ). Đó cũng được coi là hình ảnh tiêu biểu nhất thời mất nước của Phật giáo trong mọi thời kỳ.


Đời gặp thuở can qua chinh chiến
Sống những ngày nguy biến kinh tâm
Kéo dài thê thảm nhiều năm
Đầy trời sát khí cõi âm hiện hình!
Kẻ thác đi hồn linh tức tưởi
Người sống còn rũ rượi sầu thương
Kể đâu hết khúc đoạn trường
Bàn tay ác liệt vô thường gây nên?

(Trích Kinh Nguyện Hòa Bình VII)


Chiến tranh, loạn lạc, đói kém là một trong những động tố xô đẩy tinh thần con người ta ngả nghiêng lắm bận, nhưng cũng như tâm tư ông Tộc Đầu Sư (đạo Cao Đài) Nguyễn Văn Ngợi (1900-1988) ở miệt Tam Bình,Vĩnh Long, cùng quê hương chào đời của Tổ Sư Minh Đăng Quang; Tăng Ni Phật tử thời bấy giờ cũng cùng chung tâm nguyện thiết tha:

Chẳng bỏ lời thế nơi Phật cảnh
Không quên tiếng nguyện chốn non xanh.

Có thể nói, ở Lục Tỉnh Nam Kỳ thời bấy giờ, ngoại trừ các tín ngưỡng mang tính chất thuần túy tôn giáo, còn lại không ít các tổ chức chính trị của nhiều xu hướng, thành phần khác nhau, đua nhau ra đời nhưng trước tiên đều trang bị vỏ bọc hình thái một tín ngưỡng; đặc biệt càng huyền bí càng dễ thu phục quần chúng, vì rất phù hợp với đa số người bình dân và bộ phận sống trong sự u uất, bế tắc trước nạn đao binh do thực dân Pháp gây ra; từ đó, dần dà biến thành lực lượng hậu thuẩn cho quan điểm đấu tranh của mình.

Với Phật giáo, tinh thần nhập thế rất rõ ràng, nếu không thể chuyên tâm tu hành thì dũng cảm lên đường gia nhập hàng ngũ chống giặc, không hề phạm phải một giới luật chi. Vì thế trong chiều dài lịch sử hòa mình cùng dân tộc, Phật giáo vẫn đứng trụ vững ở một nơi cao nhất trong lòng dân tộc, chưa hề có một tỳ vết hoen ố trong tinh thần chống ngoại xâm.

Những Bửu Sơn Kỳ Hương ( Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807- 1856); Tứ Ân Hiếu Nghĩa ( Bổn sư Ngô Lợi (?-1880). Trong giới Cư sĩ thì có các tổ chức như Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội ( Cư sĩ Nguyễn Văn Bồng (1886-1958); Ngũ Minh Chi Đạo (Đạo Minh Sư do các Cư sĩ Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Tấn) v.v… Đó là những chứng minh tinh thần Phật giáo biết phân thân đi vào từng ngỏ vắng trần đời để trụ vững và tồn tại.

Còn có Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo chính đáng dựa vào nền tảng Phật Đà nhưng có một lối tư duy độc lập, rẽ hướng song hành cùng các tông phái, tổ chức Phật giáo thời bấy giờ trên con đường phát triển và hóa đạo. Và Phật giáo Hòa Hảo từ nền tảng khế lý, khế cơ của mình đã tỏ ra rất phù hợp với đa số cư dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, gặt hái được những thành tựu đáng kể.


Khi đức Huỳnh Phú Sổ khai sáng nền đạo Phật giáo Hòa Hảo, (năm Kỷ Mão 1939), thì Tổ Sư Minh Đăng Quang trong độ tuổi trăng tròn và đang nuôi chí xuất trần nơi xứ Cao Miên (Campuchia).

Thiếu niên ngày nọ lìa nhà
Vượt biên giới Việt-Miên xa dặm ngàn.
“Lên non tìm động hoa vàng…”
Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành…
(Trích Thi Hóa-nhà thơ Trụ Vũ)


Như vậy, những Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật Giáo Hòa Hảo phần nào cũng có ý nghĩa tác động ban đầu trong ý chí tầm đạo của Tổ Sư Minh Đăng Quang, để sau này, khi hình thành nên mối đạo, trở nên một tông phái Phật giáo bản xứ, Phật giáo Khất Sĩ đã vận dụng thành công tư tưởng Phật Đà trong các nguồn Kinh Luật Luận của cả Bắc và Nam Tông, tạo nên sắc thái riêng biệt mà không xa rời ngôi nhà chung Phật học với phương châm: NỐI TRUYỀN THÍCH CA CHÁNH PHÁP.

Từ Bi là gốc Như Lai
Cảm thương thân phận những ai đọa đày
(Trích Thi Hóa đã dẫn)

Nếu như chúng ta trân trọng, thán phục khai sáng của đức Huỳnh Phú Sổ, đã chắt lọc khôn khéo tư tưởng Phật học, hình thành nên lối hành đạo và hóa đạo độc lập, mang một luồng gió mới đến với mọi người bao nhiêu thì càng thêm kính phục bấy nhiêu quá trình tu học và thành lập hệ phái Khất Sĩ của Tổ Sư Minh Đăng Quang. Sự hình thành và tồn tại, luôn phát triển của hệ phái Phật giáo đặc biệt này, đã nói lên được giá trị đích thực cũng như kết quả đúng theo tâm nguyện khi xưa kia Tổ Sư Minh Đăng Quang đã mở đường khai lối.

Phật giáo Khất Sĩ được khai sinh trong bối cảnh đất nước đang hồi nghiêng ngửa như thế, cho nên Tổ Sư Minh Đăng Quang luôn thao thức về sự bình đẳng trong tha nhơn, sự bình an trong cuộc sống của dân tộc mình, từ đó mới có thể nghỉ đến bước phát triển tiếp theo. Vì vậy, trong bộ Chơn Lý, phần gần cuối chúng ta sẽ bắt gặp hệ tư tưởng Hòa Bình bằng sáu phần khúc giải rất thâm sâu. Như đọạn đầu trích dẫn bài kinh Nguyện Hòa Bình VII trên. Ở đó nói lên khái niệm Hòa Bình trong phạm trù nghịch chiến tranh, tác nhân của phần lớn khổ đau mang tính chất cộng nghiệp của một dân tộc, một địa phương hay một nhóm xã hội. Những phần kế tiếp là Hòa Bình trong từng công hạnh tu tập mỗi thành tố Khất Sĩ, trong giao tiếp với tha nhân. Trong đó đặc biệt còn nêu cao vai trò gắn kết giữa gia đình và xã hội chung quanh.

Cõi bình đẳng về sắc thân không ai hơn kém, chỉ dùng đức hạnh làm cây thước, để đo trình độ thấp cao. Trong đạo cả thảy sự sống như nhau, một tiếng Khất Sĩ như nhau. Cõi không hình phạt, không quyền, không trị, chỉ có một sự dạy, mà tất cả được yên.

Giữa cõi đời chết khổ, Khất Sĩ là chất nhựa sống, gắn liền các khối chia rẽ riêng tư. Khất sĩ là con đàng chơn lý võ trụ, đúng theo trung đạo ánh sáng, không thiên về một bên lề mé, Khất sĩ tượng trưng giáo lý đại đồng.

Cái sống là đang sống chung,
Cái chết là đang học chung
Cái linh là đang tu chung.
(Trích Hòa Bình-Đoàn Du Tăng-Bình Đẳng Vô Trị)

Dựa vào tiêu chí chư Tổ Sư từ ngàn xưa, trong tinh thần:

Nhất bán thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Dục cùng sanh tử lộ
Khất hóa độ xuân thu.

Phật giáo Khất Sĩ cũng tuân thủ bốn tiêu chí chặt chẽ, rất đáng kính trọng, nhưng cũng rất cởi mở:

- Người tu khất thực chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp giới bổn thì được ăn ở chùa.
- Người tu khất thực chỉ lượm những vải bỏ mà khâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
- Nguời tu khất thực chỉ nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở.
- Người tu khất thực chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có cúng thuốc đường dầu thì được dùng.

Với tư tưởng, chủ trương đứng đắn, Phật giáo Khất Sĩ đã nhanh chóng được nhiều tầng lớp tiếp nhận, chung tay vun bồi nền đạo, Sau ba năm khai sáng, Tổ Sư Minh Đăng Quang mới tiếp nhận người đệ tử đầu tiên là sư Từ Huệ, và một năm sau đó( năm Mậu Tý-1948), Phật giáo Khất Sĩ đã có mặt và phát triển tại Sài gòn.

Sài gòn hoa lệ từ xưa
Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàng
Một ngày kia, dưới nắng vàng
Bỗng trang nghiêm hiện một đoàn du Tăng
Dân thành thị những băn khoăn:
Họ là ai? Xin thưa rằng: Họ đây
Là môn đệ của Đức Thầy
Minh Đăng Quang- chiếu tự rày mười phương…

(Trích Thi Hóa của nhà thơ Trụ Vũ)

Từ đây Phật Giáo Khất Sĩ đã hòa mình vào vận mệnh chung của Đạo Pháp, làm sáng đẹp thêm ngôi nhà chung Phật Giáo Việt Nam.

THAY LỜI KẾT

Cho đến tận hôm nay. Tròn sáu mươi năm. Kể từ buổi chiều ngày 30 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954), tại Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc), dưới tán cây bã đậu, Tổ Sư Minh Đăng Quang nói lời từ tạ chúng đệ tử để vào “núi lửa” tĩnh tu; ngày Vị Tôn Sư khả kính của Phật giáo Khất Sĩ nói riêng và vị danh Tăng của Phật giáo Việt nam nói chung, đã hoàn toàn vắng bóng tôn nhan, để lại con lộ hóa đạo thênh thang cùng với sự phát triển hanh thông theo ước nguyện của người mà chúng đệ tử luôn hãnh diện và luôn đau đáu dõi trông hướng trời vô định, vẫn đinh ninh một ngày nào đó vị Tổ Sư sẽ về lại với mình. Để vầng trăng thanh được tròn vạnh giữa đêm rằm dân tộc, ấm cúng bao mối đạo tình mà ngày xưa lao nhọc xả thân tìm cầu mới có được; và cũng để những dòng sử liệu sau cùng về tiểu sử đời Ngài lẫn Đạo Phật Khất Sĩ không còn phải dùng đến cụm từ: NGÀY ĐỨC TÔN SƯ VẮNG BÓNG. Ngày đó, cùng với cụm từ này, tuy được cho là “Kỷ Niệm” nhưng thật sự đó chính là ngày giỗ kỵ tạm ước mà chúng đệ tử phải đành lòng ngậm ngùi tưởng nhớ.


Năm Giáp Ngọ
Đầu tháng hai,
Vĩnh Long hoa nở đón người vân du
Khi qua thuyền tới Cần Thơ
Bỗng đâu nhận được “lệnh” từ cấp trên
Một xe vào cõi “U huyền”,
Ai hay địa ngục giữa miền dương gian
Tuồng đời hợp hợp tan tan
Ngắm tranh vân cẩu đôi hàng lệ sa
Đêm xuân tủi bóng trăng tà
Đêm thu tủi ngọn đèn hoa vơi dầu.
Bây giờ Phượng ở nơi đâu?
Bóng chim tăm cá biển sâu sông dài
Đã đành thường trụ Như Lai
Đã đành pháp tánh ở ngoài sắc không
Đã đành gương chiếu hoa lồng
Đã đành đành vậy, mà lòng…vẫn đau….

(Trích Thi Hóa của nhà thơ trụ Vũ)



DƯƠNG KINH THÀNH
Trung Tâm Nghiên cứu Phật Giáo Việt nam
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam




Hoi_Thao_to_su_Minh_Dang_Quang


Hoi_Thao_to_su_Minh_Dang_Quang_DKTCư Sĩ Dương Kinh Thành



----------------------
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 14111)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 10740)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 8073)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 5942)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 2562)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 5525)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 16678)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 9129)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 4643)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 8829)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567