Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Phước Huệ (1875-1963)

15/12/201307:36(Xem: 7605)
Hòa Thượng Phước Huệ (1875-1963)
HT Phuoc Hue_1


Tổ thường hay nói trong những ngày trước khi viên tịch: “Ta ra đời nhằm ngày Đản Sinh của đức Từ Phụ thì sau ta cũng chọn ngày ấy mà viên tịch”. Ngày mồng 8 năm Quý Mão (1963), Ngài không thấy trang hoàng cờ phướn để đón mừng Phật Đản như mọi khi và khi biết Giáo Hội chủ trương dời ngày lễ Phật Đản vào đúng ngày rằm, Tổ nói: “Rứa thì ta cũng đợi đến ngày rằm...”.

Thượng thừa Phật Tổ chấn tôn phong
Phó kệ truyền đăng pháp pháp đồng
Thiện quả viên thành tăng Phước Huệ
Tương kỳ đạo đức vĩnh Hưng Long.

Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, nhiều đời kính tín Tam bảo.

Thân phụ Ngài là cụ ông Nguyễn Văn Khanh, từng được triều đình bổ làm quan Bố Chánh tỉnh Bình Thuận. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Từ, người làng Diên Khánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Ngài mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Năm 16 tuổi Ngài theo thân phụ (quan Chánh Bát phẩm) vào Bình Thuận nhậm chức Bố chánh tỉnh Bình Thuận. Khi đi ngang qua Khánh Hòa, thân phụ lâm trọng bệnh qua đời.

Ngài được Tổ Đạt Khương Viên Giác (trụ trì chùa Hải Đức, Nha Trang) mở rộng cửa thiền thâu làm đệ tử, được Tổ ban pháp danh là Ngộ Tánh.

Vốn có căn bản Nho học từ thuở nhỏ và được gia đình hướng dẫn cách tiếp cận những tinh hoa Phật Đà, trong thời gian hành Điệu, chấp tác Ngài đã vượt trội các bạn đồng sư nên sớm được Bổn sư ban cho pháp tự là Hưng Long.

Năm 20 tuổi được bổn sư gửi ra Huế học đạo và thọ đại giới tại Đại giới đàn chùa Báo Quốc, do Tổ Hải Thuận, Tăng Cang chùa Diệu Đế làm Đường đầu Hòa thượng.

Năm 25 tuổi, Ngài lập thảo am để tu trì đồng thời có nơi phụng thờ song thân, tại làng Bình An cách chùa Từ Đàm về phía Đông gần một cây số. Lấy hiệu là Hải Đức Am, đó chính là tiền thân của tổ đình Hải Đức - Huế.

Năm 30 tuổi (1904), Ngài đắc pháp với Hòa thượng Thanh Minh Tâm Truyền (trụ trì Tổ đình Báo Quốc - Huế), được ban đạo hiệu Phước Huệ với bài phú kệ:

Thượng thừa Phật Tổ chấn tôn phong
Phó kệ truyền đăng pháp pháp đồng
Thiện quả viên thành tăng Phước Huệ
Tương kỳ đạo đức vĩnh Hưng Long.

Và trong năm này, Ngài được cung thỉnh trụ trì chùa Kim Quang do bà Từ Minh, Hoàng Thái Hậu sáng lập.

Năm 1909, sau khi bổn sư viên tịch, Ngài trở lại Nha Trang kế thế trụ trì và đại trùng tu tổ đình Hải Đức. Năm Giáp Tý (1924) được Chư sơn tỉnh Khánh Hòa cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn Nha Trang (Khánh Hòa).

Năm 1934 Hòa thượng trở về Quảng Trị trùng tu Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Năm 1940 được triều đình Bảo Đại sắc cử làm Tăng Cang Tổ đình Báo Quốc.

Thời gian từ năm 1941 đến 1945, Ngài giữ chức Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già tỉnh Thừa Thiên.

Từ năm 1943 đến năm 1945, cùng với đệ tử là Thượng tọa Thích Bích Không, Hòa thượng đã cho di dời chùa Hải Đức Nha Trang từ trung tâm thị xã lên tọa lạc trên đồi Trại Thủy như hiện nay.

Năm 1951, cùng Hòa thượng Thích Phổ Nhãn, đang trụ trì Tổ đình Thiên Bửu. Ngài đã đứng ra vận động trùng tu Tổ đình Thiên Bửu ở Ninh Hòa, và vận động tông môn cúng chùa Thiên Bửu cho giáo hội Phật giáo Ninh Hòa làm trụ sở hoằng pháp.

Năm 1954, Giáo hội Tăng già Ninh Hòa khai Đại giới đàn tại tổ đình Thiên Bửu, Ngài được cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng,.

Năm 1956, khi biết Giáo hội Phật giáo Trung phần chọn Nha Trang làm nơi mở Phật Học Viện Hòa thượng đã quyết định cúng chùa Hải Dức (Nha Trang) cho hai Tổng trị sự (Giáo hội Tăng Già và Hội Phật học Trung Việt) làm nơi đào tạo tăng tài.

Hòa thượng lui về chuyên tu pháp môn Tịnh độ tại Tổ đình Hải Đức – Huế.

Năm 1962, Hòa thượng đứng ra vận động xây dựng Quan Âm Các tại Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang, Quảng Trị.

Trong sự nghiệp nhiếp hóa đồ chúng, tiếp dẫn hậu lai, Ngài đã đào tạo được một tầng lớp đệ tử tiêu biểu sau:

-Hòa thượng Thích Bích Phong (1900-1968), trụ trì chùa Quy Thiện và kế thừa Tổ đình Báo Quốc.

-Hòa thượng Thích Bích Không (1894-1954), nguyên trụ trì chùa Hải Đức (1943).

-Hòa thượng Thích Bích Lâm (1924-1972), nguyên Phó Viện trưởng Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương (Nha Trang).

-Hòa thượng Thích Chánh Kế, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Lâm Đồng, viện chủ chùa Kỳ Viên (Lâm Đồng)

-Sư bà Thích Nữ Chánh Lượng, Tổ Khai sơn chùa Hải Ấn, (chùa Hang), Nha Trang, Khánh Hòa…

Ngoài ra, Ngài còn có các đệ tử hành đạo tại nước ngoài, các vị đệ tử của Ngài là người nước ngoài, đủ thành phần quốc tịch, đặc biệt trong đó, có một kỹ sư người Mỹ tên Frank M. Balk, ông thường nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo trắng đến bên giường bảo rằng: “người hãy mau mau đến một đất nước có tên là Việt Nam để gặp lại cha mình, người ấy giống ngươi như tạc, đó chính là người cha tiền kiếp…” Sau nhiều ngày kỹ sư Frank M. Balkđã tìm nhiều nơi và ngày 27-4-1958, kỹ sư Frank M. Balk đến chùa Hải Đức Nha Trang xin nhận Tổ làm cha và xin được quy y được Tổ ban cho pháp danh Chơn Trí.

Tổ thường hay nói trong những ngày trước khi viên tịch: “Ta ra đời nhằm ngày Đản Sinh của đức Từ Phụ thì sau ta cũng chọn ngày ấy mà viên tịch”. Ngày mồng 8 năm Quý Mão (1963), Ngài không thấy trang hoàng cờ phướn để đón mừng Phật Đản như mọi khi và khi biết Giáo Hội chủ trương dời ngày lễ Phật Đản vào đúng ngày rằm, Tổ nói: “Rứa thì ta cũng đợi đến ngày rằm...”.

Và quả đúng như lời của bậc thánh giả, lúc 11 giờ 30 ngày rằm tháng 4 năm Quý Mão 1963 ). Ngài thị tịch, thọ 89 tuổi, với 69 hạ lạp, Ngài là Tổ Khai sơn tổ đình Hải Đức – Huế. Bảo tháp của Ngài được tôn trí trong khuôn viên tổ đình Hải Đức - Huế.

Đệ tửTrí Bửu khể thủ lược soạn theo thư tịch Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức – Nha Trang

Tưởng niệm 50 năm Tổ Phước Huệ (Hải Đức) viên tịch (1963-2013)



Vài hình về HT Phước Huệ & Chùa Hải Đức Nha Trang

HT Phuoc Hue_2HT Phước Huê & đê tử người Mỹ, kỹ sư Frank M. Balk
chuahaiduc2Hải Đức xưa
HT Phuoc Hue_3Hải Đức nay

HT Phuoc Hue_4


chuahaiduc3Gác Chuông Hải Đức

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 4570)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4508)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4440)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10366)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5184)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6003)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6549)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7846)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9043)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14529)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567