Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Phước Huệ (1875-1963)

25/03/201110:01(Xem: 5950)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ (1875-1963)
ht-phuoc-hue-1
Tổ thường hay nói trong những ngày trước khi viên tịch: “Ta ra đời nhằm ngày Đản Sinh của đức Từ Phụ thì sau ta cũng chọn ngày ấy mà viên tịch”. Ngày mồng 8 năm Quý Mão (1963), Ngài không thấy trang hoàng cờ phướn để đón mừng Phật Đản như mọi khi và khi biết Giáo Hội chủ trương dời ngày lễ Phật Đản vào đúng ngày rằm, Tổ nói: “Rứa thì ta cũng đợi đến ngày rằm...”. 

Thượng thừa Phật Tổ chấn tôn phong 
Phó kệ truyền đăng pháp pháp đồng
Thiện quả viên thành tăng Phước Huệ 
Tương kỳ đạo đức vĩnh Hưng Long.

Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, nhiều đời kính tín Tam bảo.

Thân phụ Ngài là cụ ông Nguyễn Văn Khanh, từng được triều đình bổ làm quan Bố Chánh tỉnh Bình Thuận. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Từ, người làng Diên Khánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Ngài mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Năm 16 tuổi Ngài theo thân phụ (quan Chánh Bát phẩm) vào Bình Thuận nhậm chức Bố chánh tỉnh Bình Thuận. Khi đi ngang qua Khánh Hòa, thân phụ lâm trọng bệnh qua đời.

Ngài được Tổ Đạt Khương Viên Giác (trụ trì chùa Hải Đức, Nha Trang) mở rộng cửa thiền thâu làm đệ tử, được Tổ ban pháp danh là Ngộ Tánh.

Vốn có căn bản Nho học từ thuở nhỏ và được gia đình hướng dẫn cách tiếp cận những tinh hoa Phật Đà, trong thời gian hành Điệu, chấp tác Ngài đã vượt trội các bạn đồng sư nên sớm được Bổn sư ban cho pháp tự là Hưng Long.

Năm 20 tuổi được bổn sư gửi ra Huế học đạo và thọ đại giới tại Đại giới đàn chùa Báo Quốc, do Tổ Hải Thuận, Tăng Cang chùa Diệu Đế làm Đường đầu Hòa thượng.

Năm 25 tuổi, Ngài lập thảo am để tu trì đồng thời có nơi phụng thờ song thân, tại làng Bình An cách chùa Từ Đàm về phía Đông gần một cây số. Lấy hiệu là Hải Đức Am, đó chính là tiền thân của tổ đình Hải Đức - Huế.

Năm 30 tuổi (1904), Ngài đắc pháp với Hòa thượng Thanh Minh Tâm Truyền (trụ trì Tổ đình Báo Quốc - Huế), được ban đạo hiệu Phước Huệ với bài phú kệ:

Thượng thừa Phật Tổ chấn tôn phong 
Phó kệ truyền đăng pháp pháp đồng
Thiện quả viên thành tăng Phước Huệ 
Tương kỳ đạo đức vĩnh Hưng Long.

Và trong năm này, Ngài được cung thỉnh trụ trì chùa Kim Quang do bà Từ Minh, Hoàng Thái Hậu sáng lập.

Năm 1909, sau khi bổn sư viên tịch, Ngài trở lại Nha Trang kế thế trụ trì và đại trùng tu tổ đình Hải Đức. Năm Giáp Tý (1924) được Chư sơn tỉnh Khánh Hòa cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn Nha Trang (Khánh Hòa).

Năm 1934 Hòa thượng trở về Quảng Trị trùng tu Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Năm 1940 được triều đình Bảo Đại sắc cử làm Tăng Cang Tổ đình Báo Quốc.

Thời gian từ năm 1941 đến 1945, Ngài giữ chức Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già tỉnh Thừa Thiên.

Từ năm 1943 đến năm 1945, cùng với đệ tử là Thượng tọa Thích Bích Không, Hòa thượng đã cho di dời chùa Hải Đức Nha Trang từ trung tâm thị xã lên tọa lạc trên đồi Trại Thủy như hiện nay.

Năm 1951, cùng Hòa thượng Thích Phổ Nhãn, đang trụ trì Tổ đình Thiên Bửu. Ngài đã đứng ra vận động trùng tu Tổ đình Thiên Bửu ở Ninh Hòa, và vận động tông môn cúng chùa Thiên Bửu cho giáo hội Phật giáo Ninh Hòa làm trụ sở hoằng pháp.

Năm 1954, Giáo hội Tăng già Ninh Hòa khai Đại giới đàn tại tổ đình Thiên Bửu, Ngài được cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng,.

Năm 1956, khi biết Giáo hội Phật giáo Trung phần chọn Nha Trang làm nơi mở Phật Học Viện Hòa thượng đã quyết định cúng chùa Hải Dức (Nha Trang) cho hai Tổng trị sự (Giáo hội Tăng Già và Hội Phật học Trung Việt) làm nơi đào tạo tăng tài.

Hòa thượng lui về chuyên tu pháp môn Tịnh độ tại Tổ đình Hải Đức – Huế.

Năm 1962, Hòa thượng đứng ra vận động xây dựng Quan Âm Các tại Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang, Quảng Trị.

Trong sự nghiệp nhiếp hóa đồ chúng, tiếp dẫn hậu lai, Ngài đã đào tạo được một tầng lớp đệ tử tiêu biểu sau:

-Hòa thượng Thích Bích Phong (1900-1968), trụ trì chùa Quy Thiện và kế thừa Tổ đình Báo Quốc.

-Hòa thượng Thích Bích Không (1894-1954), nguyên trụ trì chùa Hải Đức (1943).

-Hòa thượng Thích Bích Lâm (1924-1972), nguyên Phó Viện trưởng Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương (Nha Trang).

-Hòa thượng Thích Chánh Kế, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Lâm Đồng, viện chủ chùa Kỳ Viên (Lâm Đồng)

-Sư bà Thích Nữ Chánh Lượng, Tổ Khai sơn chùa Hải Ấn, (chùa Hang), Nha Trang, Khánh Hòa…

Ngoài ra, Ngài còn có các đệ tử hành đạo tại nước ngoài, các vị đệ tử của Ngài là người nước ngoài, đủ thành phần quốc tịch, đặc biệt trong đó, có một kỹ sư người Mỹ tên Frank M. Balk, ông thường nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo trắng đến bên giường bảo rằng: “người hãy mau mau đến một đất nước có tên là Việt Nam để gặp lại cha mình, người ấy giống ngươi như tạc, đó chính là người cha tiền kiếp…” Sau nhiều ngày kỹ sư Frank M. Balkđã tìm nhiều nơi và ngày 27-4-1958, kỹ sư Frank M. Balk đến chùa Hải Đức Nha Trang xin nhận Tổ làm cha và xin được quy y được Tổ ban cho pháp danh Chơn Trí. (xem thêm bài về câu chuyện này).

Tổ thường hay nói trong những ngày trước khi viên tịch: “Ta ra đời nhằm ngày Đản Sinh của đức Từ Phụ thì sau ta cũng chọn ngày ấy mà viên tịch”. Ngày mồng 8 năm Quý Mão (1963), Ngài không thấy trang hoàng cờ phướn để đón mừng Phật Đản như mọi khi và khi biết Giáo Hội chủ trương dời ngày lễ Phật Đản vào đúng ngày rằm, Tổ nói: “Rứa thì ta cũng đợi đến ngày rằm...”.

Và quả đúng như lời của bậc thánh giả, lúc 11 giờ 30 ngày rằm tháng 4 năm Quý Mão 1963 ). Ngài thị tịch, thọ 89 tuổi, với 69 hạ lạp, Ngài là Tổ Khai sơn tổ đình Hải Đức – Huế. Bảo tháp của Ngài được tôn trí trong khuôn viên tổ đình Hải Đức - Huế.


Đệ tử Trí Bửu khể thủ lược soạn theo thư tịch Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức – Nha Trang
Tưởng niệm 50 năm Tổ Phước Huệ (Hải Đức) viên tịch (1963-2013)





Vài hình về HT Phước Huệ & Chùa Hải Đức Nha Trang




chuyen-tien-kiep-cua-cha-viet-con-my-thoi-hien-dai-ky-1

HT Phước Huệ & đê tử người Mỹ, kỹ sư Frank M. Balk
(xem thêm bài về câu chuyện này).


chuahaiduc2
Hải Đức xưa
ht-phuoc-hue-3
Hải Đức nay

chuahaiduc3
Gác Chuông Hải Đức (nghe tiếng chuông)


***

facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5806)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10171)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8200)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13205)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5523)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13266)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6210)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
09/04/2013(Xem: 5538)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
09/04/2013(Xem: 5598)
Hòa Thượng thế danh Phan Công Thành, pháp danh Nguyên Trạch, tự Chí Công, Hiệu Giác Lâm, thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.
09/04/2013(Xem: 18527)
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM : Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Dù chùa ở Lào hay Việt Nam cũng vậy, tụng kinh học luật là điều chính yếu của người xuất gia tu Phật. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu. Có lần được nghe quí Ngài kể lại, thời gian sống nơi chùa Lào, suốt ngày Thầy ở dưới bàn tượng Phật Bổn Sư thờ nơi chánh điện, để học kinh luật, sưu tra luận nghĩa, mà quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, đã thấy được trí tánh thông minh của Thầy......
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567