Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Cư sĩ Hermann Karl Hesse Giải Nobel Văn học 1946 (1877-1962)

04/03/202008:14(Xem: 3954)
Tiểu sử Cư sĩ Hermann Karl Hesse Giải Nobel Văn học 1946 (1877-1962)

 Cư sĩ Hermann Karl Hesse 9

Tiểu sử

Cư sĩ Hermann Karl Hesse

Giải Nobel Văn học 1946

(1877-1962)

Cư sĩ Hermann Karl Hesse (ˈhɛɐ̯man ˈhɛsə) sinh ngày 02 tháng 07 năm 1877 tại Calw, Đức quốc và về với cõi Phật vào ngày 09 tháng 08 năm 1962 tại ngôi làng nhỏ Montagnola, bang Ticino, Thụy Sỹ, hưởng thọ 85 tuổi.

 

Hinh 01: Tại bàn viết của Cư sĩ Hermann Karl Hesse tại Montagnola, một ngôi làng nhỏ ở đô thị Collina d'Oro, bang Ticino, Ý.

 

Ông là một nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm, Tiểu thuyết gia, tác giả truyện ngắn, tiểu luận, nhà thơ, họa sĩ người Đức. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông bao gồm Demian, Steppenwolf, Siddharta, và The Glass Bead Game, mỗi tác phẩm đều khám phá tìm kiếm một cá nhân về tính xác thực, tự học và tâm linh. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học.

 

Hinh 02: Tác phẩm nổi tiếng “Siddharta” (Sĩ Đạt Ta”, cuốn sách tiểu thuyết thứ 9 của Cư sĩ Hermann Karl Hesse sáng tác bằng tiếng Đức, trong một ngôn ngữ đơn giản nhưng có vần điệu.EAN: 9783518188026; ISBN: 978-3-518-18802-6. Tập sách định dạng bìa mềm, Nhà xuất bản Suhrkamp, Đức quốc in năm 2013, phiên bản: .A.9, dày: 192 trang, trọng lượng: 132g, kích thước: H179mm x B116mm x T12mm

 

Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã làm rung động trái tim của thế hệ trẻ đương đại tại Đức quốc qua tác phẩm nổi tiếng “Siddharta” (Sĩ Đạt Ta”. Khi tiếp nhận ánh đạo vàng từ bi trí tuệ Phật giáo, ông đã từ bỏ đạo Tin Lành, và bắt đầu nghiên cứu Phật học và triết học Ấn Độ. Ông nghiên cứu Phật giáo và văn hóa Á Đông qua 3 lần viếng thăm đảo quốc Phật giáo Sri Lanka và quốc gia vạn đảo Indonesia.

 

Hinh 2: Tại tư gia, Montagnolam, nước Ý, đang trong nghiên cứu, Cư sĩ Hermann Karl Hesse ngẫu hứng viết: “Mọi người đều giống nhau ở khác mọi nơi: ngay khi họ cảm thấy rằng họ không bằng nhau, họ trở nên nghi ngờ và không thể tiếp cận”.

 

Thời thơ ấu và thiếu niên:

 

Cư sĩ Hermann Karl Hesse sinh tại thị trấn Rừng Đen Calw, Württemberg, Đế quốc Đức (Deutsches-Kaiserreich), xuất thân từ một gia đình truyền giáo Kitô giáo Tin Lành. Nội tổ của ông là cụ Hermann Gundert nhà biên soạn ngữ pháp bằng tiếng Malayalam, biên soạn cuốn từ điển Malayalam-English, và cũng góp phần vào việc dịch Kinh Thánh sang tiếng Malayalam.

 

Song thân của ông đều nhận nhiệm vụ của Hội truyền giáo Basel hoạt động tại Ấn Độ, nơi bà mẹ của ông, cụ bà Marie Gundert sinh năm 1842, gốc Thụy Sỹ. Cha của ông là cụ Johannes Hesse, một người Đức gốc Baltic, đến từ Estinia. Ông bà điều hành một nhà xuất bản sách truyền giáo từ năm 1873 dưới sự lãnh đạo của ông nội của ông là cụ Hermann Gundert.

 

Thời thơ ấu của Cư sĩ Hermann Karl Hesse ở Calw đã bị gián đoạn bởi nhiều năm sống ở thành phố Basle, Thụy Sỹ (1880-1886). Gia đình ông gồm nhiều quốc gia khác nhau; và thắm thoát thời gian đã được thêm vào kinh nghiệm lớn lên giữa hai dân tộc khác nhau, ở hai quốc gia với các phương ngữ khác nhau của họ.

 

Ông dành phần lớn thời gian để học ở các trường nội trú ở Wuerttemberg, một lãnh thổ lịch sử Đức quốc. Sau khi học xong trường tiếng Latin ở huyện Göppingen, bang Baden-Württemberg, Đức quốc, năm 1891, ông vào trường Thần học Tin Lành ở thành phố Maulbronn, Đức. Ông là một người học giỏi, giỏi tiếng Latin mặc dù chỉ công bằng ở Hy Lạp, nhưng ông không phải là một cậu bé dễ quản lý, và nó chỉ là khó khăn mà tôi gắn vào khuôn khổ của một Phong trào Sùng tín (Pietist) tại Đức, nhằm chinh phục và phá vỡ tính cá nhân. Ở đây cá tính chống đối của ông đã thể hiện: vào tháng 03 năm 1892, ông trốn khỏi trường và chỉ được tìm được một ngày sau đó trên một cánh đồng trống.

 

Từ năm 12 tuổi, ông đã muốn trở thành nhà thơ, và vì không có con đường bình thường hay chính thức, ông đã có một thời gian khó khăn quyết định phải làm gì sau khi rời trường. Ông rời trường lớp và ngữ pháp, trở thành một người học việc cho thợ máy, và ở tuổi 18, ông làm việc trong nhà sách và cửa hành đồ cổ ở Göppingen, thị trấn miền nam Đức quốc và Basle, Đức.

 

Từ đấy, kèm theo nhiều xung đột dữ dội với cha mẹ là một cuộc phiêu lưu qua nhiều học viện  và trường học. Cư sĩ Hermann Karl Hesse trở nên trầm cảm, biểu lộ trong một lá thư vào ngày 20 tháng 03 năm 1892 với những ý định tự tử “Tôi muốn ra đi như ánh hồng của hoàng hôn”. Tháng 05 năm 1892 trong học viện Bad Boll dưới sự chăm nom của nhà Thần học và Mục  sư Christoph Friedrich Blumhardt ông đã toan tự tử.  Ngay sau đó Cư sĩ Hermann Karl Hesse được chuyển về học viện ở Stetten im Remstal rồi về học viện thiếu niên ở Basel.

 

Bắt đầu từ cuối năm 1892, ông đi học ở trường trung học tại Cannstatt thuộc thành phố Stuttgart, Đức. Mặc dù đỗ kỳ thi của năm đầu ông đã bỏ học.

 

Bỏ học nghề bán sách chỉ sau ba ngày theo học, đầu mùa hè năm 1894, Cư sĩ Hermann Karl Hesse bắt đầu theo học khóa thợ cơ khí trong một nhà máy sản xuất đồng hồ ở Calw với thời gian 14 tháng. Công việc hàn giũa đơn điệu chẳng bao lâu lại cổ vũ cho mong muốn quay trở lại với công việc trí óc của ông. Tháng 10 năm 1895, ông chấp nhận bắt đầu học lại nghiêm nghề bán sách ở Göppingen. Sau này, ông đã chuyển các từng trải thời trẻ này của mình vào trong quyển tiểu thuyết Unterm Rad (Dưới bánh xe).

 

Hinh 3: Tại tư gia, Montagnolam, nước Ý, đang trong nghiên cứu, Cư sĩ Hermann Karl Hesse ngẫu hứng viết: “Khi bạn ghét một người, bạn ghét một cái gì đó về họ mà là một phần của chính mình. Những gì không phải là một phần của chúng tôi, không làm phiền chúng tôi”.

                            

Con đường trở thành nhà văn:

 

Bắt đầu từ ngày 17 tháng 10 năm 1895, Cư sĩ Hermann Karl Hesse làm việc tại tiệm bán sách Heckenhauer ở Göppingen, chủ yếu bán các sách về Thần học, Triết học và Luật. Là người học nghề, nhiệm vụ của Cư sĩ Hermann Karl Hesse bao gồm đối chiếu, đóng gói, phân loại và lưu trữ sách. Sau mỗi ngày làm việc 12 tiếng Cư sĩ Hermann Karl Hesse tiếp tự học lấy và sách cũng đã đền bù lại các khiếm khuyết trong giao thiệp xã hội vào những ngày Chủ nhật dài được nghỉ ngơi. Sau những sách về Thần học, Cư sĩ Hermann Karl Hesse đặc biệt là đọc các tác phẩm của Goethe, sau đó là của Lessing, Schiller và các bài về thần thoại Hy Lạp. Năm 1896 bài thơ đầu tiên của Cư sĩ Hermann Karl Hesse, Madonna, được in trong một tạp chí xuất bản ở Wien, các bài thơ khác lần lượt được đăng trong các số phát hành sau đó của Organ für Dichtkunst und Kritik (Cơ quan về nghệ thuật thơ và phê bình).

 

Năm 1898, Cư sĩ Hermann Karl Hesse trở thành người phụ việc bán sách và  có một thu nhập khá, giúp ông không phụ thuộc tài chính vào cha mẹ. Thời gian này ông đọc chủ yếu các tác phẩm của thời kỳ lãng mạn Đức, trước tiên tiên là của Tiểu thuyết gia, một nhân vật quan trọng của chủ nghĩa lãng mạn, Đức, Clemens Brentano (1778-1842), Tiểu thuyết gia, nhà phê bình chính của chủ nghĩa lãng mạn, Đức Joseph Freiherr von Eichendorff (1788-1857), nhà triết học của chủ nghĩa lãnh mạn ban đầu tại Đức, Novalis (1772-1801).

 

Trong các bức thư gửi nhị vị đấng sinh thành (cha  mẹ), ông đã bày tỏ quan điểm của mình là “Đạo đức của người nghệ sĩ đã được thay thế bởi thẩm mỹ”. Ngay từ khi vẫn còn là một người bán sách, vào mùa thu năm 1898, Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã xuất bản tập thơ nhỏ đầu tiên của mình, Romantische Lieder (Các bài thơ lãng mạn), và trong mùa hè năm 1899 tập văn xuôi Eine Stunde hinter Mitternacht (Một giờ đằng sau nửa đêm). Cả hai tác phẩm đều thất bại về mặt kinh doanh. Trong vòng hai năm chỉ bán được 54 bản trong tổng số 600 quyển Romantische Lieder được phát hành, Eine Stunde hinter Mitternacht cũng được phát hành 600 quyển và được bán rất chậm. Mặc dù nhà xuất bản Eugen Diederichs ở thành phố Leipzig, bang Sachssen, Đức vẫn tin tưởng vào chất lượng văn học của các tác phẩm này, và ngay từ đầu đã xem việc xuất bản như là một hình thức khuyến khích cho tác giả trẻ này hơn là một việc kinh doanh cần mang lại lợi nhuận.

 

Bắt đầu từ mùa thu năm 1899, Cư sĩ Hermann Karl Hesse làm việc cho một tiệm bán sách cũ có uy tín ở Basel. Vì cha mẹ ông có giao thiệp mật thiết với nhiều gia đình học giả ở Basel, tại đây cả một thế giới trí thức nghệ thuật với nhiều cổ vũ phong phú đã mở cửa đón chào ông. Thành phố Basel đồng thời cũng mang lại cho một con người sống cô độc như Cư sĩ Hermann Karl Hesse nhiều khả năng để lui về ẩn náu, sống một cuộc sống rất cá nhân qua những cuộc du ngoạn, và rảo bước đó đây trong thiên hạ để tự tìm tòi nghệ thuật vào luôn giúp ông thử nghiệm lại khả năng miêu tả những cảm xúc của mình qua bút mực.

 

Cuối năm 1899, một lượng nhỏ những bài thơ của ông xuất hiện trong bản in, nhà xuất bản Peter Camenzind, viết tại Basle và đặt ở Thụy Sỹ, đã thành công nhanh chóng. Ông đã từ bỏ việc bán sách, kết hôn với một người phụ nữ từ Basle, và chuyển về quê. Vào thời điểm đó một cuộc sống nông thôn, xa cách thành phố và nền văn minh, là mục tiêu của ông.

 

Năm 1900, Cư sĩ Hermann Karl Hesse được miễn phục vụ quân sự vì thiếu thị lực. Bệnh tật này tồn tại mãi suốt cuộc đời cũng như bệnh đau của ông.

 

Năm 1901, Cư sĩ Hermann Karl Hesse thực hiện được niềm mơ ước lớn lao của mình là đi du lịch nước Ý. Cùng năm đó, ông chuyển về làm tại tiệm bán sách cũ Wattenwyl ở Basel. Thời gian này ông ngày càng thêm nhiều cơ hội để đăng các bài thơ và văn ngắn trên các tạp chí và tiền nhuận bút đã góp thêm vào thu nhập của ông. Chẳng bao lâu nhà xuất bản Samuel Fischer đã chú ý đến ông, và tiểu thuyết Peter Camenzib, được in thử năm 1903, chính thức được nhà xuất bản Samuel Fischer phát hành năm 1904, trở thành bước đột phá: Từ đây Cư sĩ Hermann Karl Hesse có thể sống như một nhà văn tự do.

 

Giữa Bodensee và Ấn Độ:

 

Vinh quang về văn chương tạo điều kiện cho Cư sĩ Hermann Karl Hesse cùng với người vợ đầu tiên, Maria Bernoulli, định cư thành lập gia đình tại Gaienhofen, huyện Konstanz ở ven hồ Bodensee, Hồ nằm ở Đức, Áo và Thụy Sĩ gần dãy núi Anpơ. Nơi đây ông viết quyển tiểu thuyết thứ hai của mình, Unterm Rad, được xuất bản vào năm 1906. Thời gian sau đó, ông chủ yếu viết các chuyện kể và thơ. Quyển tiểu thuyết kế tiếp của ông, Gertrud, vào năm 1910, đã biểu lộ Cư sĩ Hermann Karl Hesse trong một cơn khủng hoảng sáng tạo; ông đã vất vã với tác phẩm này và nhiều năm sau ông xem xét nó là một thất bại. Trong hôn nhân cũng ngày càng nhiều bất hòa. Để tạo khoảng cách, năm 1911, Cư sĩ Hermann Karl Hesse bắt đầu một cuộc hành trình dài đi đến Sri LankaIndonesia.

 

Hinh 5: Bức tượng đồng được điêu khắc bởi Kurt Tassotti và được công bố vào năm 2002 trong lễ kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Cư sĩ Hermann Karl Hesse

 

Thế nhưng ở đó, Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã không tìm thấy được sự tỏa nội tâm như đã hy vọng. Kể từ đó, ông đã trở về, gia đình ông, luôn sống ở đất nước đầu tiên cho đến năm 1912, ở Gaienhofen trên Hồ Constance, sau này gần Bern, và cuối cùng ở Montagnola gần Lugano, nhưng việc thay đổi chỗ ở này cũng không thể giải quyết được các vấn đề trong hôn nhân như Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã bộc lộ trong quyển tiểu thuyết Roßhalde vào năm 1914.

 

Chiến tranh thế giới thứ nhất:

 

Thời gian chiến tranh này, Cư sĩ Hermann Karl Hesse đăng ký tình nguyện đi lính tại Đại sứ quán Đức tại Thụy Sỹ. Khi chẩn bệnh không có khả năng nhập quân ngũ trong quân đội, nên ông được cử làm nhiệm vụ chăm sóc tù binh cho Đại sứ quán. Trong khuôn khổ này, từ đó Cư sĩ Hermann Karl Hesse đi quyên góp và gửi sách cho các tù binh người Đức. Ngày 03 tháng 10 năm 1914, ông đăng trên tờ Neue Zürcher Zeitung (Báo Zürich mới) bài luận văn O freunde, nicht diese Töne (các bạn ơi đừng nói  như vậy) kêu gọi trí thức Đức công vào  cuộc bút chiến giữa các quốc gia. Những gì xảy ra sau đó được Cư sĩ Hermann Karl Hesse miêu tả sau này như là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của ông. Lần đầu tiên ông đứng bên trong một cuộc xung đột chính trị dữ dội: giới báo chí Đức tấn công ông, nhiều thư hâm dọa được gửi tới và bạn bè cũng chống đối ông.

 

Hinh 6: Tem in hình của Cư sĩ Hermann Karl Hesse, Thụy Sỹ phát hành vào năm 1978

 

Trong năm 1914, ông thích đi du lịch; Ông thường đến Ý và một lần ở Ấn Độ vài tháng. Kể từ đó gần như hoàn toàn không còn đó đây trong du lịch, và ông đã không ở bên ngoài Thụy Sỹ trong hơn 10 năm.

 

Mặc dù đang đối đầu với thử thách gay gắt, nhưng ông vẫn tiếp tục nhận được sự đồng tình của nhà báo,  khoa học chính trị gia, người đức Theodor Heuss (1884-1963), người từng là Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức-từ năm 1949-1959, và của cả nhà văn, nhà viết kịch người người Pháp Romain Rolland (1866-1944), người đã đến thăm viếng ông vào tháng 08 năm 1915. Các  mâu thuẫn với giới báo chí Đức chưa lắng dịu thì Cư sĩ Hermann Karl Hesse lại bị đẩy vào một cuộc khủng hoảng khác trầm trọng hơn bởi cụ phụ thân của ông đã từ trần vào ngày 08 tháng 03 năm 1916. Ông phải ngưng việc phục vụ cho cơ quan chăm sóc tù binh và đi chữa trị bằng tâm lý liệu pháp. Việc chữa trị này chẳng những mang lại mối quen biết trực tiếp với Carl Gustav Jung, một bác sĩ tâm thần, một nhà tâm lý học Thụy Sỹ mà còn dẫn ông đi đến một đỉnh cao sáng tạo mới: Tháng 09 năm 1917, trong một cơn say mê làm việc, ông đã viết quyển tiểu thuyết Demian của mình chỉ trong vòng 3 tuần. Quyển sách được xuất bản sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1919 dưới bút danh Emil Sinclair.

 
Cư sĩ Hermann Karl Hesse 01Cư sĩ Hermann Karl Hesse 1Cư sĩ Hermann Karl Hesse 002Cư sĩ Hermann Karl Hesse 02Cư sĩ Hermann Karl Hesse 2Cư sĩ Hermann Karl Hesse 003Cư sĩ Hermann Karl Hesse 3Cư sĩ Hermann Karl Hesse 4Cư sĩ Hermann Karl Hesse 5Cư sĩ Hermann Karl Hesse 6Cư sĩ Hermann Karl Hesse 7Cư sĩ Hermann Karl Hesse 10Cư sĩ Hermann Karl Hesse 11Cư sĩ Hermann Karl Hesse 12Cư sĩ Hermann Karl Hesse 13Cư sĩ Hermann Karl Hesse 14


Ở tại Casa Camuzzi:

 

Vào năm 1919, khi Cư sĩ Hermann Karl Hesse có thể trở về với cuộc sống dân sự thì hôn nhân của ông đã tân vỡ. Phu nhân của ông trong lúc bấy giờ tâm thần bị rối loạn trầm trọng, nhưng ngay cả sau khi bà lành bệnh, Cư sĩ Hermann Karl Hesse nhận thấy không còn có thể chia sẻ tương lai chung với người vợ Maria Bernoulli nữa. Ngôi hộ gia đình ở Bern tan rã, Cư sĩ Hermann Karl Hesse chuyển về Tessin một mình vào giữa tháng 04/1919. Đầu tiên ông sống trong một căn nhà nhỏ ở đầu làng Minusio gần Locarno và sau đó từ ngày 25/04 đến 11/05/1919 tại Sorengo. Ngày 11/05 ông thuê 4 phòng nhỏ trong một căn nhà xây giống như một lâu đài kỳ lạ ở làng Montagnola gọi là “Casa Canuzzi”. Nơi đây, Cư sĩ Hermann Karl Hesse không những tiếp tục viết văn mà còn bắt đầu vẽ, việc có thể nhận thấy rõ trong truyện kể tiếp của ông  Klingsors letzter Sommer (Mùa hè cuối cùng của Klingsor) vào năm 1920.

 

Năm 1922, quyển tiểu thuyết về Ấn Độ của ông, Siddharta (Sĩ Đạt Ta), được xuất bản. Tình yêu nằm trong nền văn hóa Ấn Độ và các học thuyết Á châu, những cái mà ông đã biết đến ngay từ khi còn ở với cha mẹ, đã được biểu lộ trong quyển tiểu thuyết này.

 

Năm 1923, Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã chính thức thôi quốc tịch Đức và nhập quốc tịch Thụy Sỹ. Sau khi hủy cuộc hôn nhân đầu tiên, ông sống độc thân đơn điệu trong nhiều năm, sau đó ông đã một lần nữa kết hôn với nàng Ruth Wenger, con gái của nữ văn hào người Thụy Sỹ Lisa Wenger và là cô của Meret Oppenheim (trong cuộc hôn nhân này bà trở thành mẹ của nghệ sĩ Ezard Haussmann). Những người bạn trung thành đã đặt một ngôi nhà ở Montanola theo ý của ông.

 

Các tác phẩm lớn kế tiếp của Cư sĩ Hermann Karl Hesse, Kurgast (Khách dưỡng bệnh) năm 1925 và Die Nürnberger Reise (Chuyến đi Nürnberg) năm 1927, là các tự truyện mang giọng mỉa mai, báo hiệu trước cuốn tiểu thuyết thành công nhất của ông, Der Steppenwolf (Sói thảo nguyên) năm 1927.

 

Cũng vào năm này, nhân dịp  kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 của ông, Hugo Ball (1886-1927), tác giả người Đức, nhà thơ, và về cơ bản là người sáng lập phong trào Dada trong nghệ thuật châu Âu ở Zürich năm 1916, bạn của ông đã xuất bản cuốn tiểu sử đầu tiên về Cư sĩ Hermann Karl Hesse. Ngay sau quyển tiểu thuyết thành công này con sói cô độc Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã trải qua một bước ngoặt lớn nhờ vào quan hệ với nàng Ninon Dilbin, người sau này trở thành người vợ thứ ba của ông. Kết quả của việc biến chuyển trở về cùng sống đôi lứa này là quyển tiểu thuyết Narziß und Goldmund năm 1930.

 

Vào năm 1931, Cư sĩ Hermann Karl Hesse rời căn hộ thuê ở Cassa Camuzzi cùng với nàng Ninon Dilbin dời về một căn nhà lớn hơn (Casa Hesse), phía trên Montagnola. Căn nhà này được xây theo ý muốn của ông và được người bạn của ông là H. C. Bodmer để ông sử dụng dài hạn. Ngôi nhà này ngày nay thuộc về sở hữu tư nhân và trong thời gian này không thể đến thăm viếng được.

 

Người chơi trò ngọc thủy tinh:

 

Năm 1931, Cư sĩ Hermann Karl Hesse kết hôn lần thứ ba và cùng nàng Ninon Dilbin dời về căn nhà riêng bên ngoài Montagnola. Ông bắt đầu phát thảo tác phẩm lớn cuối cùng của mình, Das Glasperlenspiel (Trò chơi hạt ngọc thủy tinh).

 

Năm 1932, Cư sĩ Hermann Karl Hesse xuất bản quyển truyện kể  Die Morgenlandfahrt (Hành trình về phương Đông) như là bản phác thảo trước cho tác phẩm này. Ông theo dõi việc những người thuộc đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức với một nỗi lo âu lớn. Trên đường rời khỏi nước vào năm 1933, Bertolt Brecht (1898-1956), một nhà thơ, nhà soạn kịch, và đạo diễn sân khấu người Đức và Thomas Mannn (1875-1955), nhà văn lớn nhất nước Đức thế kỷ 20 đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949 đều lần lượt tạm dừng ở nhà ông. Cư sĩ Hermann Karl Hesse cố gắng chống lại sự phát triển trong nước Đức bằng cách của ông: ông đã viết nhiều bài bình luận về sách trên các báo Đức kêu gọi ủng hộ các tác giả người Do Thái và các tác giả khác đang bị người của Đảng quốc xã theo dõi.

 

Bắt đầu từ giữa thập niên 1930, không một báo Đức nào dám đăng bài của ông nữa. Cư sĩ Hermann Karl Hesse trốn tránh các xung đột chính trị, và sau đó trước những tin tức khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ hai bằng cách viết quyển tiểu thuyết Das Glasperlenspiel của mình, được in ở Thụy Sỹ vào năm 1943.

 

Cư sĩ Hermann Karl Hesse nhận giải thưởng văn chương năm 1946 không chỉ vì tác phẩm lớn lao này.

 

Tiếp theo sau đó là Giải thưởng Goethe của thành phố Frankfurt trong cùng năm, Giải thưởng Wihelm Raabe năm 1950 và Giải thưởng Hòa bình của hội bán Sách Đức năm 1955.

 

Hinh 7: Thế giới văn học kỷ niệm 50 năm ngày về với cõi Phật của Cư sĩ Hermann Karl Hesse, giải Nobel 1946, tác giả của công trình hội nghị thượng đỉnh của văn học Đức thế kỷ 20, như “Steppenwolf” và “Siddharta” (Sĩ Đạt Ta”. Thành công văn học của ông đã hậu hĩnh, kể từ khi tác phẩm của ông trở thành hiện tượng toàn cầu trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam.

 

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sức sáng tạo của ông giảm sút, ông chỉ viết truyện kể và thơ nhưng không còn viết tiểu thuyết nữa.

 

Sinh trên cõi trần thế, sắc thân trôi nổi, đó đây khắp nơi, dạo chơi nơi cõi nhân gian, thân tứ đại đến hồi suy yếu, Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã mãn báo thân, an nhiên trút hơi thở cuối cùng, về với cõi Phật vào ngày 09 tháng 08 năm 1962, hưởng thọ 85 tuổi, và được an táng tại nghĩa trang của San Abbondio gần Montagnola, cũng là nơi chôn cất Hugo Ball.

 

Ý nghĩa văn học:

 

Các tác phẩm đầu tiên của Cư sĩ Hermann Karl Hesse vẫn còn mang tính truyền thống của thế kỷ 19: các bài thơ của ông đều thuộc về trường phái lãng mạn, lời văn và phong cách của quyển Peter Cammenzind cũng vậy, quyển sách được tác giả hiểu như là một tiểu thuyết giáo dục tiếp nối quyển Grüne Heindrich của Gottfried Keller. Về nội dung Cư sĩ Hermann Karl Hesse phản đối công nghiệp hóa và đô thị hóa, đi theo xu hướng của phong trào thanh niên thời kỳ này. Sau này, Cư sĩ Hermann Karl Hesse từ bỏ quan điểm lãng mạn mới này. Thế nhưng cấu trúc đối chọi của quyển Peter Cammenzind thông qua sự đối chiếu giữa thành thị và nông thôn và tương phản nam nữ vẫn còn có thể tìm thấy trong các tác phẩm sau đó của Cư sĩ Hermann Karl Hesse (thí dụ như trong Demina hay Steppenwolf).

 

Sự quen biết với học thuyết về nguyên mẫu (archetyphe) của bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học Thụy Sỹ nổi tiếng Carl Gustav Jung (1875-1961) đã có ảnh hưởng quyết định đến các tác phẩm của Cư sĩ Hermann Karl Hesse, được biểu lộ đầu tiên trong quyển tiểu thuyết Demian: Con đường của một người trẻ tuổi đi tìm chính mình trở thành một trong những đề tài chính của ông. Chính vì thế mà không biết bao nhiêu thanh niên đã và vẫn chọn Cư sĩ Hermann Karl Hesse là tác giả mà họ thích nhất. Truyền thống tiểu thuyết giáo dục cũng được tìm thấy trong Demian, nhưng trong  tác phẩm này (cũng như trong Steppenwolf) các hành động không diễn ra trong hiện thực mà trong một cảnh quan nội tâm.

 

Một khía cạnh quan trọng khác trong các tác phẩm của Cư sĩ Hermann Karl Hesse là sự duy linh (spirituality), không những chỉ có trong quyển tiểu thuyết “Siddharta” (Sĩ Đạt Ta) . Các đạo giáo Ấn Độ, đạo Lão và thuyết thần bí của Thiên Chúa giáo là nền tảng của việc này. Một số nhà phê bình chỉ trích Cư sĩ Hermann Karl Hesse là ông đã sử dụng văn chương để diễn đạt thế giới quan của mình. Người ta có thể đảo ngược phê bình này để nói là các nhà phê bình chỉ phản đối thế giới quan của Cư sĩ Hermann Karl Hesse chứ không chỉ trích văn chương của ông.

 

Tất cả tác phẩm của Cư sĩ Hermann Karl Hesse đều chứa đựng một phần tính tự truyện, đặc biệt có thể thấy rõ trong Steppenwolf, quyển tiểu thuyết có thể được lấy làm thí dụ cho một “tiểu thuyết về một cơn khủng hoảng trong cuộc sống”. Chỉ trong các tác phẩm sau đó phần tự truyện này giảm đi. Trong hai quyển tiểu thuyết liên kết với nhau, Die Morgenlandfahrt và Das Glasperlenspiel, Cư sĩ Hermann Karl Hesse trở về đề tài của ông đã viết trong Peter Camenzind: sự đối lập giữa Vita Activa (sống để làm việc từ thiện cho người khác) và  vita contemplativa (sống để tìm sự giải thoát cho bản thân).

 

Tiếp nhận:

 

Chất lượng văn chương và ý nghĩa của các tác phẩm của Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã được tranh cãi ngay từ khi ông còn sinh tiền, và nay vẫn còn tiếp tục. Các nhà văn đồng nghiệp như Thomas Mann (1875-1955) hay Hugo Ball (1886-1927) đánh giá ông rất cao trong khi Giải Kurt Tucholsky (một giải thưởng văn học của Đức dành cho các nhà văn, nhà báo hoặc người xuất bản văn học có đóng góp xuất sắc trong lãnh vực báo chí văn học) lại nói: “Tôi cho rằng Cư sĩ Hermann Karl Hesse là một nhà văn chất lượng văn tiểu luận của ông cao hơn các tính chất rất nhiều”. Tiểu thuyết gia người Đức, Bruno Alfred Döblin (1878-1957) lại cho đó là “nước ngọt tẻ nhạt”. Mặc dầu vậy các tác phẩm đầu của sĩ Hermann Karl Hesse được đa số giới phê bình văn học cùng thời đánh giá cao.

 

Việc tiếp nhận Cư sĩ Hermann Karl Hesse ở Đức quốc trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới mang dấu ấn của cuộc công kích báo chí chống lại tác giả vì các phát biểu chống chiến tranh và chống chủ nghĩa Quốc xã của ông.

 

Từ năm 1937, các tác phẩm của sĩ Hermann Karl Hesse thuộc vào dạng sách cấm và chỉ còn được bán lén lút. Các thế hệ trẻ “khám phá” ra Cư sĩ Hermann Karl Hesse phần lớn là sau năm 1945.

 

Cư sĩ Hermann Karl Hesse được trao giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức quốc năm 1955. Hơn 10 năm sau khi Cư sĩ Hermann Karl Hesse được tặng giải thưởng Nobel về văn học, năm 1957 Karlheinz Deschner (1924-2014), một nhà nghiên cứu và nhà văn người Đức viết trong bài văn tranh luận Kisch, Công ước và nghệ thuật (Konvention und Kunst-Hội nghị và nghệ thuật được đánh thức xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1957 bởi các thảo luận bạo lực trên báo chí và cảm giác bất thường của đài phát thanh và đạt được lưu hành hơn 100 nghìn bản): “Việc Cư sĩ Hermann Karl Hesse xuất bản quá nhiều các vần thơ hoàn toàn không có trình độ như vậy là một điều vô kỷ luật đáng tiếc, một sự man rợ về văn học” và về phần văn xuôi ông cũng đi đến một đánh giá không có gì thuận lợi hơn. Trong các thập kỷ sau đó một phần giới phê bình văn chương Đức quốc nối tiếp sự đánh giá này, Cư sĩ Hermann Karl Hesse được một vài người xuât bản xếp vào loại văn chương giả mạo. Việc chấp nhận Cư sĩ Hermann Karl Hesse giống như chuyển động con lắc: vừa khi việc chấp nhận Cư sĩ Hermann Karl Hesse xuống điểm thấp nhất ở Đức quốc vào thập niên 1960 thì trong giới thanh niên Hoa Kỳ phát ra một sự “bùng nổ Cư sĩ Hermann Karl Hesse” chưa từng có lan tràn về lại đến Đức quốc; đặc biệt quyển  Der Steppenwolf trở thành quyển sách bán chạy nhất (bestseller) và Cư sĩ Hermann Karl Hesse trở thành tác giả người Đức quốc được đọc và dịch nhiều nhất. Hơn 120 triệu quyển sách của ông đã được dịch gần 60 ngôn ngữ và đã được bán trên khắp thế giới.

 

Kể từ năm 1977, tại các khoảng thời gian không đều, Quốc tế Hermann-Hesse-Kolloquium đã được tổ chức tại quê hương của Cư sĩ Hermann Karl Hesse ở Calw, một ngôi làng ở trung bộ bang Baden-Württemberg phía nam Đức quốc với nhiều chủ đề khác nhau. Trong các buổi Hội thảo, tọa đàm, các học giả và những người đam mê Cư sĩ Hermann Karl Hesse nổi tiếng trong và ngoài nước đều hiện diện. Chương trình được kèm theo với âm nhạc, khiêu vũ hoặc biểu diễn sân khấu và phim tài liệu liên quan đến tác phẩm của Cư sĩ Hermann Karl Hesse.

 

Kể từ khi Sils Hesse (Silser Hesse-Tage) tổ chức từ năm 2000 tại Sils-Maria, Engadin, Thụy Sỹ. Cuộc hội thảo khoa học kéo dài thời gian 3 ngày, 4 lần phân tích tác động và tác động của Cư sĩ Hermann Karl Hesse đối với một chủ đề cụ thể, dưới hình thức thuyết trình và phản biện: Chủ đề của những ngày của Cư sĩ Hermann Karl Hesse trong năm 2009 (25-28/06/2009) là “Chính sách lương tâm”.

 

Để tưởng niệm Cư sĩ Hermann Karl Hesse hai giải thưởng văn chương được đặt theo tên ông: Giải thưởng Calvi Hermann Hesse và giải Karlsruhe Hermann Hesse.

 

Từ tháng 05 năm 1990, tại làng Calw, quê huơng của Cư sĩ Hermann Karl Hesse, triển lãm các nhà văn lớn nhất thế giới. Bảo tàng giới thiệu cuộc sống, công trình của người đoạt giải Nobel trong 9 phòng.

 

 

Lúc sinh tiền Cư sĩ Hermann Karl Hesse đã bày tỏ nỗi niềm tâm sự:

 

“Tôi sống sót qua nhiều năm dưới một chế  độ độc tài chịu sử kiểm soát của Adolf Hiter và Đảng Quốc xã (NSDAP). Dưới sự thống trị của Hitler, Đức đã biến đổi thành một nhà nước phát xít toàn trị cai quản gần như mọi mặt của đời sống, và chiến tranh thế giới thứ hai thông qua 11 năm công việc mà tôi đã dành cho Glasperlenspie l (1943) [Magister Ludi], một cuốn tiểu thuyết 2 tập. Kể từ khi hoàn thành cuốn sách dài đó, lại bị chướng duyên bởi chứng bệnh đau mắt, lại gia tăng bệnh tật của tuổi già đã làm chướng ngại tôi tham gia vào các dự án lớn.

 

Trong số các nhà triết học phương Tây, tôi đã bị ảnh hưởng nhiều nhất là các vị Plato, Spinoza, Schopenhauer, và Nietzsche, cũng như nhà sử học Jacob Burckhardt. Nhưng chúng không ảnh hưởng đến tôi nhiều như Ấn Độ, và sau đó là triết học Trung Hoa. Tôi đã luôn luôn quen thuộc và thân thiện với nghệ thuật, nhưng mối quan hệ của tôi với âm nhạc đã được thân mật và hiệu quả hơn. Trong nó hầu như được tìm thấy. Những cuốn sách đặc trưng nhất của tôi là những bài thơ (thu thập ấn bản, Zürich, 1942), những câu chuyện Knulp (1915), Demian (1919), Siddharta  (1922), Der Steppenwolf (1927) [Steppenwolf], Narziss und Goldmund. (1930), Die Morgenlandfahrt (1932) [Hành trình về phía Đông], và Das Glasperlenspiel (1943) [ Magister Ludi]. Khối lượng Gedenkblätter (1937, mở rộng năm 1962) [Reminiscences] chứa nhiều điều tự truyện tốt. Tiểu luận của tôi về các chủ đề chính trị đương đại đã được xuất bản ở Zürich dưới tiêu đề Krieg und Frieden (1946) [Chiến tranh và Hòa bình].

 

Tôi hỏi bạn, các quý ông, để được hài lòng với phác thảo rất sơ sài này; tình trạng sức khỏe của tôi không cho phép tôi toàn diện hơn”.

 

Các tác phẩm:

 Thể loại văn học:

 

Peter Camenzind (Tuổi trẻ và cô đơn), 1904

Unterm Rad (Dưới bánh xe), 1906. Bản tiếng Anh có khi được đặt tên thành "The Prodigy".

Freunde (Những người bạn), 1908

Gertrud, 1910

Rosshalde, 1912-1913

Knulp, 1915

Demian (Tuổi trẻ băn khoăn), 1919

Klein und Wagner, 1919

Klingsors letzter Sommer (Mùa hè cuối cùng của Klingsor), 1920

Siddartha (Câu chuyện dòng sông) 1922

Der Steppenwolf (Sói thảo nguyên), 1927

Narziss und Goldmund (Đôi bạn chân tình), 1930

Die Morgenlandfahrt (Hành trình về phương đông), 1932

Das Glasperlenspiel (Trò chơi hạt ngọc thủy tinh), 1943

Một số truyện cổ tích khác: Huệ tím, Chuyện chàng Augustus, Bích thảo hóa thân, Thi nhân, Chuyện lạ từ một hành tinh.

 

Thơ:

 

Elisabeth, 1900

Wie eine Welle, 1901

Soirée, 1902

Julikinder, 1904

Im Nebel, 1905

Bücher, 1918

Vergänglichkeit, 1919

Der Liebende, 1921

Für Ninon, 1927

Klage, 1934

Stufen, 1941

 

Ghi chú tiểu sử trên Hermann Hesse

 Hermann Hesse (1877-1962) nhận giải Goethe của Frankfurt năm 1946 và Giải Nobel Hòa bình của các nhà sách Đức năm 1955. Một ấn bản hoàn chỉnh các tác phẩm của ông trong sáu tập đã xuất hiện vào năm 1952; một tập thứ bảy (1957) chứa các bài tiểu luận và các bài viết linh tinh. Beschwörungen (1955) [Evocations], một khối lượng văn xuôi muộn, và sự tương ứng của ông với Romain Rolland (1954) đã được xuất bản riêng biệt.

 

Lip:

 

Siddhartha by Hermann Hesse

https://www.youtube.com/watch?v=aDnpjdh7DC4

 

SIDDHARTHA, by Hermann Hesse, FULL LENGTH AUDIOBOOK

https://www.youtube.com/watch?v=xvJ_9eOIOtw

 

Siddhartha - Câu chuyện dòng sông, tác giả Cư sĩ Hermann Hesse

https://www.youtube.com/watch?v=LUfJTYqMMdg

 

"Siddhartha", de Hermann Hesse

https://www.youtube.com/watch?v=yyHPz2_1-co

 

Vân Tuyền

(Nguồn: The Nobel Prize)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567