Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp sư Tuyên Hóa, một Thiền Sư Trung Hoa thời hiện đại

03/11/201408:46(Xem: 11374)
Pháp sư Tuyên Hóa, một Thiền Sư Trung Hoa thời hiện đại

 

Phật Giáo Khp Thế Giới


ht_tuyenhoa


Pháp sư Tuyên Hóa,
một Thiền Sư Trung Hoa thời hiện đại

Bài viết của TT Thích Nguyên Tạng



Pháp Sư Tuyên Hóa được xem là nhà truyền bá Phật giáo Trung Hoa thành công nhất trên đất Mỹ ở cuối thế kỷ XX này. Pháp Sư thế danh là Bạch Ngọc Thư, Pháp danh An Từ, tự Độ Luân, Pháp hiệu Tuyên Hóa. Ngài sinh ngày 26/04/1918 (nhằm ngày thứ Sáu, 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ) tại làng Kiết Lâm, Mãn Châu thuộc vùng Đông Bắc, Trung Hoa, trong một gia đình có tám người con. Thân phụ là Cụ ông Phú Hải và Mẹ là người họ Hồ. Ngài là người con út trong một gia đình có truyền thống kính tin Tam Bảo. Mẹ của Ngài ăn chay trường và tu theo pháp môn Niệm Phật. Trước khi Ngài chào đời, bà có một giấc mơ kỳ lạ. Một đêm nọ, bà thấy một luồng hào quang của Đức Phật A Di Đà chiếu sáng khắp mọi nơi và làm chấn động đất trời. Giật mình dậy bà ngửi thấy mùi thơm kỳ diệu lan tỏa khắp trong phòng. Không lâu sau đó bà đã hạ sanh Ngài.


Xuất gia và tu học: Vào năm 11 tuổi, trong một lần băng qua một cánh đồng gần ngôi làng, Ngài thấy một tử thi của một đứa trẻ nằm dưới đống rơm. Ngài chưa từng thấy người chết trước đó, nên hỏi Mẹ và mới biết đó là cái chết, là sự hủy hoại của một kiếp người. Trong tâm trí non nớt, bất giác Ngài suy nghĩ có cách nào để thoát khỏi sự chết chăng? Và Ngài được một người quen khuyên rằng: "Chỉ có một con đường duy nhất để thoát chết, là tu tập theo con đường Đạo để giác ngộ bản tâm và biết rõ được bản lai diện mục của mình" (The only way to escape death is to practice the Tao/Way so as to enlighten one's mind and understand one's inner self). Do đó Ngài muốn xuất gia đầu Phật để có thể thực hành được con đường đạo trọn vẹn.


Ngài đến bày tỏ ý nghĩ cao đẹp này với Mẹ và được Mẹ khuyên rằng: "Xuất gia là chuyện tốt, nhưng cũng không phải là chuyện dễ làm. Cần phải có thiện căn, phải có đại nguyện lực, phải phát đại Bồ đề tâm thì mới có thể thành tựu. Nay con phát tâm như vậy, Mẹ hết lòng ủng hộ và điều này cũng khế hợp với giấc mơ của Mẹ năm xưa. Tuy nhiên, nay Mẹ đã già, ngày tháng không còn bao lâu nữa, các anh chị của con đều đã tự lập, con nên ở lại để phụng dưỡng Cha Mẹ tuổi già, khi Cha Mẹ mãn phần rồi, con xuất gia cũng không muộn".


Ngài vâng lời Mẹ và ở lại phụng dưỡng Cha Mẹ. Ngày ngày Ngài theo Mẹ tu pháp môn Niệm Phật và lạy Phật sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng. Đến năm Ngài 19 tuổi, Mẹ qua đời, Ngài đến Chùa Tam Duyên đảnh lễ và chính thức xuất gia với Hòa Thượng Thường Trí. Sau đó Ngài trở lại quê nhà để tiếp tục nghiên cứu Kinh điển và tu tập trong một Thiền thất nhỏ bên cạnh ngôi mộ của Mẹ trong ba năm, để tỏ lòng hiếu đạo. Trong suốt thời gian này, Ngài tinh tấn tọa thiền, tụng kinh và lạy sám hối. Ngài chỉ ăn mỗi ngày một bữa và có lúc nhập định ba ngày liên tục, có khi đến một tuần lễ mới xả thiền. Rồi một đêm nọ, người dân trong làng hoảng hốt thấy Thiền thất của Ngài bỗng phát hỏa. Hàng trăm người xách nước chạy đến để chữa cháy. Tuy nhiên khi tới nơi họ thấy Thiền thất của Ngài vẫn tĩnh mịch lặng yên và Ngài vẫn an nhiên trong thiền định.


Năm 1947, sau đệ nhị thế chiến (1940-1945), Pháp Sư bắt đầu chuyến vân du hoằng hóa. Cuối cùng, trải qua hơn ba ngàn dặm, Ngài đến chùa Hoa Nam để bái kiến Thiền sư Hư Vân (Hsu Yun/Empty Clound), lúc ấy Thiền sư Hư Vân đã 109 tuổi. Thiền sư Hư Vân vừa nhìn thấy Ngài thì liền nhận ra hoa trái tu tập của Ngài trong thời gian qua. Thiền sư Hư Vân nói: "Như thị, như thị", và Ngài cũng đáp lại: "Như thị, như thị" (Thus it is). Thiền sư Hư Vân liền ấn chứng sở đắc của Ngài và Ngài chính thức trở thành Tổ thứ 9 của Thiền phái Quy Ngưỡng (Wei Yang Sect) và là vị Tổ thứ 49 của Thiền tông Ấn-Hoa.

 

Đạo nghiệp của Pháp Sư Tuyên Hóa:


- Tại Hồng Kông: Mùa Hè năm 1949 cuộc cách mạng trong nước bùng nổ, Ngài đến tị nạn tại Hồng Kông. Đến nơi không có một đồng xu dính túi, Ngài đi thẳng đến một sơn động và ngồi kiết già nhập định trong hai tuần lễ. Lúc bấy giờ đoàn người tị nạn từ Hoa Lục kéo sang Hồng Kông ngày càng đông. Ngài phải rời hang động và tạo ngân quỹ để cứu giúp người dân. Hồng Kông là mảnh đất của Gia Tô giáo từ năm 1842 khi đế quốc Anh xâm chiếm xứ này. Do đó mọi việc Phật pháp phải làm lại từ đầu. Trong 12 năm hoằng pháp tại Hồng Kông, Ngài đã xây dựng chùa Tây Lạc Viên, Chùa Từ Hưng Thiền và một giảng đường, Ngài đã tổ chức in ấn lại một số kinh sách và thuyết pháp giảng kinh cho quần chúng. Đặc biệt là Ngài cho xuất bản tờ báo Tâm Pháp (Mind Dharma) để phổ biến giáo lý. Các bộ Kinh được Ngài thuyết tại Hồng Kông gồm có Kinh Hoa Nghiêm (Shurangama Sutra), Kinh Địa Tạng (Earth Store Sutra), Kinh Kim Cang (Vajra Sutra) và Kinh A Di Đà (Amitabha Sutra) ...  Chính nhờ các pháp hội này mà PG đã nhanh chóng lan tỏa và phát triển mạnh ở Hồng Kông trong một thời gian ngắn.


Trong thời gian 10 năm lưu trú tại đây, Pháp Sư cũng tổ chức các chuyến đi hoằng pháp ở các nước Thái Lan và Miến Điện để thuyết giảng, tìm hiểu và nghiên cứu PG Nam Tông. Ngài mong muốn qua Ngài sẽ thiết lập thành một khối thống nhất mạnh mẽ giữa hai truyền thống Nam và Bắc truyền của Phật giáo.

- Tại Úc châu: Năm 1959, Ngài nhận được tin Thiền sư Hư Vân viên tịch ở Trung Hoa, thọ thế 120 tuổi, Ngài giã từ Hồng Kông và đến hoằng pháp tại Úc châu. Tại đây Ngài được mời dạy Hoa ngữ tại một đại học ở Sydney và tổ chức thuyết pháp giảng kinh cho Phật tử trong cộng đồng người Hoa ở New South Wales.


Năm 1961, Ngài được Hội Phật giáo tại tiểu bang Victoria cung thỉnh về chứng minh Đại Lễ Phật Đản và thuyết pháp trong dịp này. Thời gian còn lại Ngài hướng dẫn cho một số nhóm thiền sinh tu tập, tuy nhiên công việc Phật sự chưa đủ nhân duyên để khởi phát tại Úc, và đến cuối năm 1961, Ngài lên đường đến California, Hoa Kỳ để tiếp tục sứ mạng cứu khổ độ sinh của mình.

 

- Tại Mỹ châu: Tại San Francisco, Ngài sống và tu tập trong một căn hộ nhỏ ở khu có đông người Hoa. Tại đây Ngài ẩn nhẫn tu tập thiền định, chờ đợi cơ duyên thuận lợi để ra hoằng pháp. Lúc bấy giờ Ngài tự gọi mình là Nhà Sư trong phần mộ (Mộ Trung Tăng/The Monk in the Grave).Thời gian đầu Ngài chỉ được biết đến trong cộng đồng người Hoa, nhưng lần lần giảng đường của Ngài có nhiều người Mỹ khác đến nghe pháp, đặc biệt nhiều sinh viên người Hoa và Mỹ cũng đến nghe pháp. Trong dịp này Pháp sư Tuyên Hóa đã tuyên bố với tín đồ về mục đích chính của Ngài có mặt ở Mỹ là: "Đem giáo lý Phật đà qua phương Tây và thành lập ở đây một cộng đồng Tăng Già chánh truyền; tổ chức và hỗ trợ công tác phiên dịch toàn bộ Kinh điển Phật giáo sang tiếng Anh và nhiều thứ tiếng khác; quảng bá một nền giáo dục hướng thiện qua việc thành lập các trường tiểu, trung và đại học Phật giáo".


Năm 1968, Ngài mở một giảng đường để thuyết pháp tại lầu 4 của chung cư Waverly, nơi đây từng là một ngôi đền của đạo Lão và Ngài bắt đầu thuyết giảng Kinh Lăng Nghiêm (Suramgama Sutra/ Flower Adornment), pháp hội này kéo dài đến 96 ngày. Sau pháp hội này Ngài tuyên bố rằng: "Năm nay hoa Chánh pháp sẽ nở rộ trên đất Mỹ, một hoa năm cánh" (This year the Dharma flower will bloom in America - a five-petalled flower). Đặc biệt trong pháp hội Lăng Nghiêm này có 30 sinh viên đến từ Đại học Wasington ở bang Seattle để nghe pháp. Và sau khóa tu này có năm sinh viên người Mỹ phát tâm xuất gia đầu Phật.


Mùa Đông năm 1969, Ngài cho trùng tu lại ngôi giảng đường và đặt tên là Tu viện Kim Sơn (Gold Mountain Monaster). Kim Sơn là danh hiệu của một ngôi chùa ở Trung Hoa và sinh hoạt tại đây đều theo quy củ thiền môn truyền thống của PG Trung Hoa. Và cũng trong năm này, Ngài thành lập Viện Dịch Kinh (The Buddhist Text Translation Society), một tổ chức chuyên trách việc phiên dịch và in ấn Kinh điển và đã xuất bản trên 200 dịch phẩm, trong đó phần lớn được dịch sang tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Tây Ban Nha.


Vào ngày 7 tháng 7 năm 1972, Ngài mở Đại giới đàn để truyền giới cho hơn 200 Tăng Ni ở Mỹ và các nước lân cận về thọ giới trong dịp này, đặc biệt trong đó có năm vị Tăng sĩ người Mỹ, đây là lễ truyền trao giới pháp đầu tiên trên đất Mỹ, Giới đàn kéo dài 108 ngày. Theo Mahavamsa (bộ đại sử của Tích Lan), Vua Mahanama cho rằng "Phật giáo không thật sự cắm rễ trên một đất nước cho tới khi nào một người dân của xứ sở ấy được thọ giới ngay trên quê hương của mình" (Buddhism could not truly be said to have taken root in a country until a native-born son could be ordained in his native land). Điều kiện này hôm nay nước Mỹ đã hội đủ.


Năm 1974, Pháp Sư đã mua lại một bệnh viện ở California để thành lập Vạn Phật Thánh Thành (City of Ten Thousand Buddhas). Đây là một cơ sở hoằng pháp vĩ đại nhất từ trước tới nay tại Mỹ với diện tích rộng 488 mẫu (rộng gấp 25 lần tòa Bạch ốc). Pháp sư Tuyên Hóa đã nói về nhân duyên thành lập Vạn Phật Thánh Thành (VPTT): "Có thể nói rằng nhân duyên tạo lập Vạn Phật Thánh Thành này đã được định trước từ vô lượng kiếp. Làm sao mà chúng ta có thể xây cất được bảy, tám chục tòa nhà như thế này?”.


Kỳ thật nơi này là một bệnh viện do chính quyền tiểu bang California xây dựng từ năm 1930, tất cả vật liệu kiến trúc và các thiết bị bên trong đều thuộc loại thượng hảo hạng. Toàn khu bệnh viện có hơn 70 tòa nhà thuộc loại công trình kiến trúc lớn, trên 2000 phòng, 3 sân chơi bóng chày, 1 trạm cứu hỏa, 1 hồ bơi, 1 lò đốt rác, cùng nhiều thiết bị cung cấp nước chữa lửa nằm rải rác dọc vệ đường. Một con đường tráng nhựa ngoằn ngoèo ăn thông với các ngả, hai bên có trụ đèn đường và nhiều cây cổ thụ hơn cả trăm năm. Tất cả các ống dẫn nước, mạng nối các thiết bị điện, hệ thống dẫn điện dùng cho máy sưởi và máy lạnh đều được thiết kế dưới mặt đất. Các công trình đều được nghiên cứu một cách cẩn thận về cả mặt thiết kế lẫn vật liệu.


Toàn khu bệnh viện có đủ chỗ cho hơn 20.000 người cư trú (The entire complex could accomodate over 20,000 residents). Vào giữa năm 1970, tiểu bang California gặp phải một trận đại hạn hán vô tiền khoáng hậu, nạn thiên tai này đã ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến sinh hoạt của bệnh viện này. Chính phủ có mời công ty đào giếng nổi tiếng nhất ở Mỹ đến đào nhưng không có nước, Chính phủ lâm vào cảnh bế tắc, đành phải chuyển bệnh nhân đi nơi khác và bán bệnh viện này với giá rẻ.


Sau khi mua lại bệnh viện này, Pháp sư Tuyên Hóa đã tái tạo thành VPTT. Nhằm giải quyết nạn khan hiếm nước, Ngài đã dùng tuệ nhãn để xác định vị trí mạch nước ngầm, và công việc này đã thành công. Đây là một sự kiện bất khả tư nghì, và cho đến hôm nay, mỗi khi nhắc lại sự kiện này mọi người đều thấy vui, xúc động pha lẫn hào hứng.




Van Phat Thanh ThanhVan Phat Thanh Thanh3

Vạn Phật Thánh Thành (City of Ten Thousand Buddhas).

 


Vạn Phật Thánh Thành là nơi hội tụ của những người có đạo đức, trí tuệ chân chính. Tại đây tuyệt đối không có sự phân biệt, chia rẽ, Nam-Bắc tông đều thông giao, văn hóa Đông Tây đều hòa hợp, nhân sĩ trên thế giới xem đây là một cõi để quay về của tự tâm. Pháp sư Tuyên Hóa đã khẳng định rằng "VPTT không phải là một cơ sở của tư nhân, nó thuộc quyền sở hữu của tất cả Phật tử trên thế giới, kể cả tín đồ của mọi tôn giáo khác".


Tại Vạn Phật Thánh Thành, Pháp sư Tuyên Hóa chủ trương phục hồi giới luật như thời Phật còn tại thế như Tăng Ni phải đắp Giới Y để gìn giữ oai nghi tế hạnh và chư Tăng Ni thọ trai mỗi ngày một lần, không nên ăn sau giờ ngọ. Tự thân Pháp Sư thực hành trong suốt đời Ngài và khuyến giáo chúng đệ tử nghiêm trì các hạnh này. Pháp Sư khích lệ các đệ tử nên ngồi thiền mà không nằm vào ban đêm. Đời sống tu học tại VPTH được áp dụng cả năm Tông phái lớn của PG Trung Hoa, đó là Luật tông (Vinaya/Disciple), hành giả thọ trì 250 giới dành cho Tỳ kheo và 348 giới dành cho Tỳ kheo ni, 5 giới dành cho Phật tử tại gia; Thiên Thai tông (T'ien T'ai ), chuyên chú đến việc học kinh và tụng Kinh; Mật tông (Esoteric), thọ trì thần chú và các môn Đà ra ni; Tịnh độ tông (Pureland), tụng kinh và niệm danh hiệu Phật A Di Đà (Namo-om-i-t'o-fa) và Thiền tông (Ch'an/Zen) bao gồm tọa thiền và tham công án (Kung-an).

 

Đặc biệt, Pháp sư Tuyên Hóa khuyên dạy các đệ tử phải tinh tấn thọ trì sáu nguyên tắc sống (lục đại tông chỉ) mà chính nó đã giúp cho Ngài thành tựu được đạo nghiệp, đó là: Không tranh, Không tham, Không mong cầu, Không ích-kỷ, Không tự lợi và Không nói dối. (Six great principles: do not fight, do not be greedy, do not seek, do not be selfish, do not pursue personal advantage, and do not lie-bringing benefit to the multitudes). Và Ngài đã làm bài kệ nói lên quyết tâm tu tập của mình cũng như khuyến giáo tứ chúng tại VPTT: “Dù rét chết, không phan duyên; dù đói chết, không van nài; dù nghèo chết, không cầu cạnh. Tùy duyên, không đổi; không đổi, tùy duyên; ba Tông Chỉ ấy, ta phải giữ gìn. Xả thân vì Phật sự,

Tạo mạng vì bổn sự, Chánh mạng vì Tăng sự. Hiểu sự, rõ lý; rõ lý, hiểu sự”.

 

 Lời kết: Pháp sư Tuyên Hóa cũng nổi danh về đức khiêm cung vô ngã và lòng từ bi vô biên đối với chúng sanh. Ngài chuyên hành trì 2 pháp tu khắc kỷ là ngủ ngồi và ăn ngọ. Ngài hành đạo không biết mệt mỏi cho đến suốt đời. Ngài đã viên tịch vào ngày mùng 10 tháng 5 năm Ất Hợi (7/6/1995) tại VPTT, Los Angeles, California, Hoa Kỳ, thọ thế 78 tuổi. Lễ nhập Kim quan cử hành tại Long Beach Thánh Tự ngày 12/6/95 và Kim quan được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành vào ngày 16/6/95. Thừa hành di giáo của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng đều chuyên tâm thọ trì Kinh Hoa Nghiêm và Niệm Phật trong suốt 49 ngày. Sau Lễ Trà Tỳ, ngày 29 tháng 7, tro cốt của Ngài được rải trên khuôn viên của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di giáo của Ngài: "Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không”. Sự ra đi của Pháp sư giống như mặt trời khuất bóng, khiến ai cũng thương cảm thống thiết. Cuộc đời tu tập và hành đạo của Ngài là một tấm gương sáng ngời cho tất cả chúng sanh. Với tinh thần từ bi, trí tuệ và tận tụy với chúng sanh, Ngài đã cảm hóa được hàng vạn người trở về với Chánh Pháp, đi theo con đường thanh tịnh và giải thoát. Hy vọng rằng sự nghiệp giáo hóa của Ngài sẽ được duy trì và ngày càng phát triển hơn nữa trên đất Mỹ.


Tham khảo theo các tài liệu:


- John Snelling, The Buddhist Handbook, the complete guide to Buddhist Schools, Teachings, Practice, and History, Inner Traditions, Rochester, Vermont, 1998.
- Rick Fields, How the Swans came to the lake, A Narrative History of Buddhism in America, Shambhala, Massachusetts, USA, 1992.
- Paul Croucher, A History of Buddhism in Australia 1848-1988, NSWU Press, 1989.

 

 






Phap Su Tuyen Hoa-15Phap Su Tuyen Hoa-14Phap Su Tuyen Hoa-13Phap Su Tuyen Hoa-12Phap Su Tuyen Hoa-11Phap Su Tuyen Hoa-10Phap Su Tuyen Hoa-9Phap Su Tuyen Hoa-8Phap Su Tuyen Hoa-7Phap Su Tuyen Hoa-6Phap Su Tuyen Hoa-5Phap Su Tuyen Hoa-4Phap Su Tuyen Hoa-3Phap Su Tuyen Hoa-2Phap Su Tuyen Hoa






Trở về mục lục:

Kinh Hoa Nghiêm (trọn bộ 25 tập)
HT Thích Tuyên Hóa giảng
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định dịch


Kinh Hoa Nghiem 1




***

Trở về Mục Lục Sách Phật Giáo Khắp Thế Giới


12.Phat Giao Quoc Te

http://quangduc.com/p157a6211/phat-giao-khap-the-gioi-sach

---o0o---

Kỹ thuật vi tính:
Hải Hạnh, Đàm Thanh,

Diệu Nga, Tâm Chánh, Nguyên Tâm
Trình bày: Nhị Tường

****


 

***

vu tru2
Trở về Mục Lục "Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới"
do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ năm 1990
Ý kiến bạn đọc
29/03/201512:24
Khách
Chúng Sinh Vô Biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp Môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Nam Mô A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567