Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật với Kinh tế học (Buddhism and Economics)

18/03/202310:55(Xem: 6221)
Đạo Phật với Kinh tế học (Buddhism and Economics)


kinh te pg

Đạo Phật với Kinh tế học

(Buddhism and Economics)

 

Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta.

 

Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.

 

Kinh tế học Phật giáo, được xem như một chủ đề học thuật, bắt nguồn từ Tiểu luận Kinh tế học Phật giáo của nhà kinh tế Anh gốc Đức, F. Schumacher, xuất bản lần đầu năm 1966, và sau đó là tác phẩm “Small Is Beautiful - Nhỏ Là Đẹp” (Small Is Beautiful; Schumacher 1973), trong đó tác giả đưa ra những lời cảnh báo liên quan đến các vấn đề “sự phụ thuộc quá mức vào phát triển của thu nhập, đặc biệt là làm việc quá sức và cạn kiệt tài nguyên.” (Brown và Zsolnai, 497)

 

Nhà kinh tế Anh gốc Đức, F. Schumacher nói rằng: “Yêu cầu của đạo Phật về Nghề nghiệp Chân chính (Chánh mạng, Sinh kế đúng đắn) cung cấp nền tảng cho Kinh tế học Phật giáo, với mục tiêu là phát triển sự thanh tịnh về đạo đức, không bị thiếu hụt, sống thiểu dục tri túc và không gây tổn hại. Mô hình tiêu dùng tối ưu sẽ là phúc lợi tối đa với sự phụ thuộc vào tài nguyên”. Chuyên gia Kinh tế F. Schumacher kết luận rằng: “Cách tiếp cận của đạo Phật đối với Kinh tế học, đại diện cho Con đường Trung đạo, nhịp cầu nối các hệ thống kinh tế đang phát triển không ngừng và các hệ thống kinh tế đang dần trì trệ”.

 

Những quan sát của chuyên gia kinh tế F. Schumacher đã được quan tâm ở các vùng Phật giáo và cả ở các nước phương Tây, nơi chúng có thể hữu ích trong việc giải quyết các vấn đề như lòng tham vô độ, tiêu dùng quá mức, thờ ơ với phúc lợi xã hội và sự tàn phá thiên nhiên.

 

Ở châu Á, một đóng góp đáng kể cho Kinh tế học Phật giáo, đã được thực hiện bởi sử gia, học giả người Thái Lan, Trưởng lão Hòa thượng P.A. Payutto tác giả cuốn “Buddhist Economics: A Middle Way for the Market Place” (Kinh tế học Phật giáo: Con đường Trung gian cho Kinh tế Thị trường; xuất bản 1994), trong đó Ngài mô tả các hướng dẫn mà Đức Phật vạch ra các phương tiện cho các Phật tử, chủ hộ và doanh nhân về cách kiếm tiền chân chính, và tích lũy của cải một cách hợp pháp (Brown và Zsolnai, 498)

Ví dụ, liên quan đến việc thương mại, không nên làm giàu bất chính thông qua sự bóc lột hoặc trở thành nạn nhân, mà phải thông qua nỗ lực đạo đức và hành động trong sáng về mặt đạo đức.

 

Một số tài liệu tham khảo trong Tam tạng Thánh điển Phật giáo (Tipitaka, त्रिपिटक) nguyên văn giúp minh họa:

 

Thế nào là Sinh kế đúng đắn? Trường hợp đệ tử của các bậc Thánh giả, chuyển hóa nghề nghiệp bất thiện, kiếm sống theo nghề đức hạnh: Đây gọi là Chánh mệnh. (SN 45.8)

 

Liên quan đến các yếu tố khác trong Bát chánh đạo:

 

Thế nào là Chính kiến bước đầu tiên? Người ta phân biệt tà mệnh là tà mệnh, và chánh mệnh là chánh mệnh. Vậy tà mệnh là gì?

 

Lập kế hoạch, thuyết phục, ám chỉ, coi thường và theo đuổi vì lợi ích cá nhân tổn hại người khác. Đây là Sinh kế sai lầm. . .

 

Nếu người cố gắng chuyển hóa từ sinh kế bất thiện và vững tiến bước vào sinh kế đúng đắn: Đây là sự nỗ lực đúng đắn của họ. Nếu người sống trong chánh niệm từ bỏ nếp sống tà mệnh và vững tiến bước vào an trú trong chánh mệnh: Đây là chánh niệm của họ. Như thế, ba phẩm chất này – Chánh kiến, Chánh tinh tấn và Chánh niệm – xoay quanh Chánh mệnh. (MN 117)

 

Tà mệnh của hàng Bạch y cư sĩ:

 

Đức Phật đã chế định cho hàng Phật tử có năm nghề tà mạng: “Buôn bán vũ khí sát thương, buôn bán người, thương mại mãi dâm, buôn bán thuốc phiện, các chất gây nghiện tổn hại thân tâm con người và buôn bán hóa chất độc hại giết người” là những nghề mưu sinh bất chính, không nên làm. Trong xã hội hiện đại ngày nay, những lời dạy của Đức Phật vẫn còn nguyên giá trị lợi ích lâu dài. (AN 5.177)

 

Tà mệnh của người xuất gia:

 

Từ kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật tuyên thuyết trong kinh Di giáo rằng, những phương cách mưu sinh đối với nhân sinh mà các chúng đệ tử của Ngài bất đắc dĩ phải tiếp cận. Đức Phật khuyên các chúng đệ tử xuất gia không nên làm các việc như những thương buôn thế tục,  xâm hại thiên nhiên, bào chế linh đơn, luyện pháp thuật bùa chú, làm bốc sư, địa lý. . . tham gia chính trị, các cơ quan quyền lực, . . . Bởi vì Ngài đã thấu rõ nếu người xả tục xuất gia làm những công việc nêu trên sẽ phát sinh những chướng duyên, lung lay đạo nghiệp tu hành.

 

Liên quan đến việc giữ an toàn, của cải nên được tiết kiệm và bảo vệ như một khoản đầu tư cho sinh kế sau này và như một sự bảo hiểm cho các nhu cầu trong tương lai.

 

Cân bằng Sinh kế:

 

. . . một gia chủ, biết thu nhập và chi tiêu của mình, với đời sống cân bằng, không xa hoa quá mức cũng không keo kiệt, biết rằng như thế thu nhập của mình sẽ vượt quá chi phí của mình, nhưng chi phí không vượt quá thu nhập của mình.

 

Giống như người thợ kim hoàn, hoặc người học nghề kim hoàn, khi cầm một cái cân lên, biết rằng nó đã hạ xuống bao nhiêu, nó nghiêng lên bấy nhiêu; cũng vậy, cũng vậy, một gia chủ, biết thu nhập và chi tiêu của mình, với một cuộc sống quân bình, không lãng phí cũng không keo kiệt, biết biết rằng như thế thu nhập của mình sẽ vượt quá chi phí của mình, nhưng chi phí không vượt quá thu nhập của mình. (AN 8.54)

 

Khi của cải vật chất tích lũy vượt quá hai nhu cầu nêu trên, nó có thể được sử dụng để hỗ trợ bản thân, gia đình và tình bằng hữu, và sự hòa hợp xã hội, chẳng hạn như tiếp khách, các hoạt động của bạn bè và người thân, hoặc để hỗ trợ các mục đích tốt như phúc lợi xã hội cộng đồng.

 

Với thái độ tinh thần, không nên biến của cải thành nguyên nhân cho sự tham lam ám ảnh làm lu mờ tâm trí. Cả lợi ích và giới hạn cần được hiểu rõ, sự giàu có  nên được xử lý theo cách nuôi dưỡng sự phát triển tinh thần. (Brown và Zsolnai, 499)

 

Trưởng lão Hòa thượng P.A. Payutto phân tích giữa hai loại ham muốn khác nhau: Taṅhā, một khái niệm quan trọng để chỉ cho "sự khao khát, sự thèm muốn, sự thèm khát mãnh liệt, sự tham lam", hoặc về vật chất hoặc về tinh thần. Chanda là “muốn, là muốn làm, muốn thực hiện cái gì đó... như khi đói muốn ăn, khi khát muốn uống, muốn cắm hoa, muốn đọc sách...” Tất cả cái muốn này là tự nhiên, là bình thường; chúng chỉ là ước muốn thuần tuý, chưa có dục, tham, ái gì cả. Taṅhā dựa trên vô minh, trong khi chanda dựa trên trí tuệ. Ví dụ, những người bị tham ái sai khiến sẽ tìm cách thỏa mãn thèm muốn mù quáng đối với những thú vui trần tục, vui nhục dục, nhưng đối với những người được dẫn dắt bởi chanda, chuyển hóa ham muốn đến việc kiến tạo sự an lạc hạnh phúc.

 

Trưởng lão Hòa thượng P.A. Payutto nhấn mạnh rằng, việc tăng gia sản xuất, tiêu dùng, các hoạt động kinh tế khác đều trở thành phương tiện để vững tiến bước đến sự an lạc thịnh đạt hạnh phúc cho cá nhân, xã hội và môi trường. Do đó, nên được hiểu rằng, việc tiêu dùng hợp lý, việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ để đạt được hạnh phúc cân bằng cho tất cả mọi người. 

 

Nên được hiểu rằng, dựa trên sự tích lũy của cải đối với việc tiêu dùng sai bởi vì sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn dục vọng về cảm giác và sự thỏa mãn bản thân. Sản xuất hầu như đi kèm với suy thoái tài nguyên thiên nhiên và gây tổn hại cho trái đất. Chẳng hạn như một số trường hợp khai thác cây gỗ trong rừng núi để làm chất đốt, để lấy năng lượng nhiệt quy mô ở địa phương còn nhiều hạn chế, điều này sẽ dẫn đến làm đảo lộn sự cân bằng sinh thái môi trường, những trường hợp khác, chẳng hạn như dùng than đốt trong các nhà máy sản xuất thép xuất cho thị trường toàn cầu, điều này cũng sẽ làm đảo lộn sự cân bằng tự nhiên và hủy hoại môi trường.

 

Sản xuất chỉ có thể được biện minh khi lợi ích của hàng hóa được sản xuất       lớn hơn lợi ích của bất cứ thứ gì bị phá hủy. Trong khi các ngành công nghiệp mà sản xuất đòi hỏi phải phá hủy tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường, phi sản xuất đôi khi là sự lựa chọn tốt hơn. Trong một số trường hợp, ví dụ như sản xuất dầu mỏ, tốt hơn hết là không sản xuất và để dầu dưới lòng đất. Theo nghĩa này, phi sản xuất có thể được coi là một hoạt động lành mạnh và hữu ích.

 

Một người sản xuất ít hàng hóa hơn sẽ tiêu thụ tài nguyên ít hơn và để lại lượng khí thải carbon nhỏ hơn, do đó dẫn đến một sự sinh tồn có lợi hơn, gây hại ít hơn hoặc không gây tổn hại cho cuộc sống và môi trường. Một người Sinh kế đúng đắn như thế có giá trị hơn một ông trùm tham lam tiêu thụ một lượng lớn tài nguyên, thông qua sản xuất hàng hóa có hại cho xã hội và hủy hoại môi trường.

 

Còn nhiều điều để chia sẻ về chủ đề này, những những điều đã nói ở trên ít nhất cung cấp một bước đệm trên lộ trình thực hiện những gì có lợi nhất về mặt kinh tế cho nhân loại và hành tinh.

 

Tác giả Giáo sư David Dale Holmes

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn Buddhistdoor Global

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/05/2015(Xem: 18348)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 24794)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
05/01/2015(Xem: 18861)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16531)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 23157)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/10/2014(Xem: 27325)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 51432)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
24/06/2014(Xem: 4944)
Thứ Sáu ngày 20/6/2014 tại Trường Hạ Phật Học Viện Quốc Tế, (LA, California), vâng lời tăng sai, Tỳ kheo ni Giới Hương, TKN Nguyên Ý và TKN Đức Huy được lên diễn đàn trường hạ để trình bày về Lịch Sử Truyền Thừa của các bậc tôn túc ni đắc pháp từ thời Phật đến nay.
18/06/2014(Xem: 7518)
Cổ động cho việc ‘ Phát triển bình đẳng giới và trao quyền cho nữ giới ’ là mục tiêu thứ 3 trong 8 Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ do Liên Hiệp Quốc công bố, và được Hội Đồng Phật Giáo Úc Châu Liên Bang (Federation of Australian Buddhist Councils = FABC) mạnh mẽ ủng hộ. Một trong những vị cao tăng của Úc, ngài Ajahn Brahm, được Việt Nam mời đọc tham luận về “ Bình Đẳng Giới và Trao Quyền cho Nữ Giới ” tại đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam vào tháng 5 , 2014. Thật không may là Ajahn Brahm đã không được phép trình bày bài tham luận này do một lệnh cấm từ Ban Tổ Chức UN Vesak áp đặt chỉ một ngày trước khi hội nghị bắt đầu. Bài tham luận của Ajahn Brahm đã được Ban Tổ Chức Hội Nghị chấp thuận nhiều tháng trước khi hội nghị diễn ra.
25/03/2014(Xem: 5022)
Thời Phật tại thế, ở kinh thành Vương-xá (thủ đô vương quốc Ma-kiệt-đà, miền Trung Ấn-độ) có hai ông trưởng giả tên là Thiên Dữ và Lộc Tử. Cả hai ông đều rất mực giàu có, tài sản to lớn không ai sánh bằng, có thể nói, họ chỉ đứng dưới vị quốc vương mà thôi. Nhưng giữa hai ông ấy, ai giàu hơn ai?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567