Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. New Delhi, 17 tháng hai 1960

16/07/201100:30(Xem: 3807)
04. New Delhi, 17 tháng hai 1960

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ HỌC HÀNH VÀ HIỂU BIẾT
ON LEARNING AND KNOWLEDGE
Lời dịch: Ông Không - 2009

New Delhi, 17 tháng hai 1960

Hầu hết chúng ta phải nhận biết rằng một thay đổi cơ bản là cần thiết. Chúng ta bị đối diện với quá nhiều vấn đề, và phải có một phương cách khác hẳn – có lẽ một phương cách hoàn toàn khác hẳn – để tiếp cận tất cả những vấn đề này. Dường như đối với tôi nếu chúng ta không hiểu rõ bản chất bên trong của sự thay đổi này, chỉ đổi mới, một cách mạng trên bề mặt, sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Chắc chắn, điều gì cần thiết không là một thay đổi hời hợt, không là một điều chỉnh tạm thời hay tuân phục đến một khuôn mẫu mới, nhưng trái lại một thay đổi cơ bản của cái trí, một thay đổi mà sẽ là tổng thể, không chỉ từng phần.

Muốn hiểu rõ vấn đề của thay đổi này, trước hết rất cần thiết phải hiểu rõ qui trình của suy nghĩ và bản chất của hiểu biết. Nếu chúng ta không tìm hiểu điều này thấu đáo, bất kỳ thay đổi nào sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, bởi vì chỉ thay đổi trên bề mặt lại là tiếp tục ngay những sự việc chúng ta đang cố gắng thay đổi. Tất cả những cách mạng được sắp đặt để thay đổi sự liên hệ của con người với con người, để mang lại một xã hội tốt đẹp hơn, một cách sống khác; nhưng qua qui trình từ từ của thời gian chính những sai lầm mà cuộc cách mạng bắt buộc phải xóa sạch, lại xảy ra trong một cách khác với một nhóm người khác, và thế là toàn qui trình cũ kỹ lại tiếp tục. Chúng ta khởi hành để thay đổi, để tạo ra một xã hội không giai cấp, nhưng chỉ phát giác rằng, qua thời gian, qua áp lực của những hoàn cảnh, một nhóm người khác lại trở thành một giai cấp trưởng giả mới. Cách mạng không bao giờ triệt để, cơ bản.

Dường như đối với tôi sự điều chỉnh hay đổi mới trên bề mặt đó đều vô nghĩa khi chúng ta đối diện với quá nhiều vấn đề, và muốn tạo ra một thay đổi có ý nghĩa lẫn bền vững, chúng ta phải thấy sự thay đổi có nghĩa gì. Chúng ta có thay đổi trên bề mặt dưới áp lực của những hoàn cảnh, qua sự tuyên truyền, qua nhu cầu, hay qua sự ham muốn để tuân phục đến một khuôn mẫu đặc biệt. Tôi nghĩ người ta phải nhận biết được điều này. Một sáng chế mới, một đổi mới thuộc chính trị, một chiến tranh, một cách mạng xã hội, một hệ thống kỷ luật – những thứ này có thay đổi cái trí của con người, nhưng chỉ trên bề mặt. Và con người mà khẩn thiết muốn tìm ra điều gì được bao hàm trong một thay đổi cơ bản chắc chắn phải tìm hiểu toàn qui trình của suy nghĩ, đó là, tìm hiểu bản chất của cái trí và hiểu biết.

Tôi muốn nói chuyện với bạn cái trí là gì, bản chất của hiểu biết là gì, và biết có nghĩa gì, bởi vì nếu chúng ta không hiểu tất cả điều đó, tôi không nghĩ chúng ta có thể có một tiếp cận mới mẻ đến nhiều vấn đề của chúng ta, một cách mới mẻ khi quan sát sống.

Sống của hầu hết chúng ta đều khá xấu xa, hèn hạ, đau khổ, nhỏ nhen. Sự tồn tại của chúng ta là một chuỗi của những xung đột, những mâu thuẫn, một tiến hành của đấu tranh, phiền muộn, niềm vui qua mau, thỏa mãn chóng vánh. Chúng ta bị trói buộc bởi quá nhiều những điều chỉnh, những tuân phục, những khuôn mẫu, và không bao giờ có một khoảnh khắc của tự do, không bao giờ có một ý thức của toàn thân tâm trọn vẹn. Luôn luôn có tuyệt vọng bởi vì luôn luôn có sự tìm kiếm thành tựu. Chúng ta không có sự yên bình của cái trí nhưng luôn luôn bị hành hạ bởi vô số những đòi hỏi. Vì vậy muốn hiểu rõ tất cả những vấn đề này và vượt khỏi chúng, chắc chắn và nhất thiết rằng chúng ta phải khởi sự bằng hiểu rõ bản chất của hiểu biết và sự tiến hành của cái trí.

Hiểu biết hàm ý một ý thức của tích lũy, phải không? Hiểu biết có thể được thâu lượm, và bởi vì bản chất của nó, hiểu biết luôn luôn là từng phần; nó không bao giờ nguyên vẹn. Vì vậy tất cả hành động bắt nguồn từ hiểu biết cũng là từng phần, không nguyên vẹn. Tôi nghĩ chúng ta phải thấy điều đó rất rõ ràng.

Nếu cái trí của bạn và cái trí của người nói đang chuyển động cùng nhau trong sự hiểu rõ, bằng nhạy cảm, vậy thì có thể có sự hiệp thông thực sự cùng nhau. Nhưng nếu bạn chỉ đang lắng nghe để tìm ra tại khúc cuối của nói chuyện tôi có ý giải thích điều gì qua từ ngữ hiểu biết, vậy thì chúng ta không hiệp thông. Bạn chỉ đang chờ đợi một định nghĩa, và chắc chắn những định nghĩa không là phương cách của hiểu rõ.

Vì vậy câu hỏi nảy sinh, hiểu rõ là gì? Trạng thái của cái trí mà hiểu rõ là gì? Khi bạn nói, ‘Tôi hiểu rõ’, bạn có ý gì qua câu phát biểu đó? Hiểu rõ không là qui trình hiểu biết thuộc trí năng; nó không là kết quả của sự tranh luận; nó không liên quan gì đến chấp nhận, phủ nhận, hay tin tưởng. Trái lại, chấp nhận, phủ nhận, và tin tưởng ngăn cản hiểu rõ. Chắc chắn, muốn hiểu rõ phải có một trạng thái chú ý mà trong đó không có ý thức của so sánh hay chỉ trích, không chờ đợi một khai triển sâu sắc hơn về vấn đề chúng ta đang nói với mục đích để đồng ý hay không-đồng ý. Có một đình chỉ hay ngưng lại của tất cả ý kiến, của tất cả ý thức chỉ trích hay so sánh; bạn chỉ đang lắng nghe để tìm ra. Tiếp cận của bạn là sự tiếp cận của tìm hiểu, mà có nghĩa bạn không bắt đầu từ một kết luận; bạn ở trong một trạng thái của chú ý, mà thật ra là đang thực sự lắng nghe.

Tôi muốn tìm hiểu vấn đề của hiểu biết này, dù khó khăn đến chừng nào, bởi vì, nếu chúng ta có thể hiểu rõ vấn đề của hiểu biết, vậy thì tôi nghĩ chúng ta có thể vượt khỏi cái trí, và trong vượt khỏi hay thăng hoa chính nó, cái trí có lẽ không bị giới hạn, đó là, không còn nỗ lực, mà đặt ra một giới hạn trên ý thức. Nếu chúng ta không vượt khỏi qui trình máy móc của cái trí, chắc chắn trạng thái sáng tạo thực sự không thể xảy ra được, và rõ ràng, điều gì cần thiết là một cái trí sáng tạo để cho nó có thể giải quyết tất cả vô vàn vấn đề này. Muốn hiểu rõ hiểu biết là gì và vượt khỏi cái từng phần, cái giới hạn để trải nghiệm cái sáng tạo, đòi hỏi không chỉ một khoảnh khắc của trực nhận nhưng còn cả một tỉnh thức liên tục, một trạng thái thâm nhập liên tục mà trong đó không có kết luận. Và rốt cuộc ra, đây là thông minh.

Vì vậy nếu bạn đang lắng nghe, không chỉ bằng đôi tai của bạn nhưng còn bằng một cái trí mà thực sự khao khát muốn hiểu rõ, một cái trí mà không có uy quyền, mà không bắt đầu bằng một kết luận hay bằng một trích dẫn, mà không có sự ham muốn được công nhận là đúng thực nhưng một cái trí mà nhận biết được vô số những vấn đề này và thấy sự cần thiết phải giải quyết trực tiếp nó – nếu đó là trạng thái của cái trí bạn – vậy thì tôi nghĩ chúng ta có thể hiệp thông cùng nhau. Ngược lại bạn sẽ được để lại chỉ nhiều từ ngữ mà thôi.

Như tôi đang nói, tất cả hiểu biết là từng phần, và bất kỳ hành động nào được sinh ra từ hiểu biết cũng là từng phần và thế là mâu thuẫn. Nếu bạn hoàn toàn tỉnh thức được về chính bạn, về những hoạt động của bạn, về những động cơ của bạn, về những suy nghĩ và những ham muốn của bạn. Bạn sẽ thấy rằng bạn sống trong một trạng thái của tự-mâu thuẫn: ‘Tôi muốn’ và cùng lúc ‘Tôi không muốn’, ‘Tôi phải làm việc này’ và ‘Tôi không được làm việc kia’, và vân vân, và vân vân. Luôn luôn cái trí ở trong một trạng thái của mâu thuẫn, và sự mâu thuẫn càng kịch liệt bao nhiêu, hành động của bạn càng tạo ra nhiều hỗn loạn bấy nhiêu. Đó là, khi có một thách thức mà phải được trả lời, mà không thể lẩn tránh được, hay bạn không thể tẩu thoát khỏi nó, vậy là cái trí của bạn, vì ở trong một trạng thái mâu thuẫn, sự căng thẳng của phải đối diện thách thức đó bắt buộc một hành động, và hành động như thế sinh ra mâu thuẫn thêm nữa, đau khổ thêm nữa.

Tôi không hiểu liệu đã rõ ràng rằng chúng ta sống trong một trạng thái mâu thuẫn. Chúng ta nói về hòa bình và chuẩn bị cho chiến tranh. Chúng ta nói về không-bạo lực và tại căn bản lại bạo lực. Chúng ta nói về tốt lành, và chúng ta lại không. Chúng ta nói về tình yêu – và chúng ta lại đầy tham vọng, ganh đua, đạt được sự hiệu quả bằng những hình thức tàn nhẫn. Vậy là có mâu thuẫn. Hành động phát sinh từ mâu thuẫn đó chỉ tạo ra thất vọng và mâu thuẫn thêm nữa. Hiểu biết là không-trọn vẹn, bất kỳ hành động nào được sinh ra từ hiểu biết đó chắc chắn phải bị mâu thuẫn.Vậy thì vấn đề của chúng ta là phải tìm ra một nguồn của hành động mà không từng phần, ngay lúc này khám phá nó để sáng tạo một hành động tức khắc mà là tổng thể và không nói, ‘Tôi sẽ tìm ra nó qua hệ thống nào đó, tại thời gian tương lai nào đó’.

Bạn thấy, tất cả tư tưởng là từng phần; nó không bao giờ có thể tổng thể. Tư tưởng là sự đáp lại của ký ức, và ký ức luôn luôn là từng phần, bởi vì ký ức là kết quả của trải nghiệm; vì vậy tư tưởng là phản ứng của một cái trí bị quy định bởi trải nghiệm. Chắc chắn tất cả suy nghĩ, tất cả trải nghiệm, tất cả hiểu biết là từng phần; vì vậy tư tưởng không thể giải quyết nhiều vấn đề mà chúng ta có. Bạn có lẽ cố gắng lý luận hợp lý, khôn khéo về nhiều vấn đề này; nhưng nếu bạn quan sát cái trí riêng của bạn, bạn sẽ thấy rằng suy nghĩ của bạn bị quy định bởi những hoàn cảnh của bạn, bởi văn hóa trong đó bạn được sinh ra, bởi thực phẩm bạn ăn, bởi khí hậu bạn sống trong nó, bởi báo chí bạn đọc, bởi những áp lực và những ảnh hưởng thuộc sống hàng ngày của bạn. Bạn bị quy định như một người cộng sản, như một người khoa học, như một người Ấn dộ giáo, như một người Thiên chúa giáo, hay bất kỳ người nào bạn muốn. Bạn bị quy định để tin tưởng hay không-tin tưởng, và bởi vì cái trí của bạn bị quy định bởi tin tưởng hay không-tin tưởng của nó, bởi hiểu biết của nó, bởi trải nghiệm của nó, tất cả suy nghĩ là từng phần. Không có suy nghĩ mà được tự do.

Vì vậy chúng ta phải hiểu rất rõ ràng rằng suy nghĩ của chúng ta là sự đáp lại của ký ức, và ký ức là máy móc. Hiểu biết không bao giờ trọn vẹn, và tất cả suy nghĩ được sinh ra từ hiểu biết đều bị giới hạn, từng phần, không bao giờ được tự do. Vì vậy không có sự tự do của tư tưởng. Nhưng chúng ta có thể bắt đầu khám phá một sự tự do mà không là qui trình của tư tưởng và trong tự do đó cái trí rất đơn giản nhận biết được tất cả những xung đột của nó và tất cả những ảnh hưởng đang áp đặt vào nó.

Rốt cuộc, mục đích của sự giáo dục như hiện nay chúng ta có là gì? Nó có nghĩa là đúc khuôn cái trí tùy theo nhu cầu, phải không? Hiện nay xã hội cần nhiều kỹ sư, những người khoa học, những người vật lý học, vì vậy qua nhiều hình thức khác nhau của phần thưởng và cưỡng bách cái trí bị áp đặt để tuân phục nhu cầu đó. Và đây là điều gì chúng ta gọi là giáo dục. Mặc dù hiểu biết có cần thiết, và chúng ta không thể làm gì nếu không được giáo dục, liệu có thể có hiểu biết và không là nô lệ cho nó? Bởi vì nhận biết được bản chất từng phần của hiểu biết, liệu chúng ta có thể không cho phép cái trí bị trói buộc trong hiểu biết, để cho nó có thể hành động tổng thể, mà là hành động không bị đặt nền tảng trên một tư tưởng, một ý tưởng?

Cho phép tôi giải thích nó theo cách này. Liệu không có một khác biệt giữa hiểu biết và đang biết? Chắc chắn, hiểu biết luôn luôn thuộc thời gian, trái lại đang biết không thuộc thời gian. Hiểu biết là từ một nguồn, từ một tích lũy, từ một kết luận, trong khi đang biết là một chuyển động. Một cái trí mà liên tục ở trong chuyển động của đang biết, đang học hành, không có khởi nguồn từ cái mà nó biết.

Chúng ta hãy thử trình bày nó theo một cách khác. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ học hành? Liệu có học hành khi bạn chỉ đang tích lũy hiểu biết, đang thâu lượm thông tin? Đó là một loại học hành, phải không? Là một sinh viên ngành kỹ sư, bạn học toán, và vân vân; bạn đang học hành, đang thông tin cho chính bạn về chủ đề. Bạn đang tích lũy hiểu biết với mục đích sử dụng hiểu biết đó trong những cách thực tế. Học hành của bạn là tích lũy, thêm vào. Bây giờ, khi cái trí chỉ thâu nhận, đang thêm vào, đang thâu lượm, nó là học hành hay sao? Hay học hành là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn? Tôi nói qui trình thêm vào mà lúc này chúng ta gọi là học hành không là học hành gì cả. Nó chỉ là sự vun quén của ký ức, mà trở thành máy móc; và một cái trí mà vận hành một cách máy móc, giống như một cái máy, không thể học hành. Một cái máy không bao giờ có thể học hành ngoại trừ trong ý nghĩa thêm vào. Học hành là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn, như tôi sẽ cố gắng giải thích cho bạn.

Một cái trí đang học hành không bao giờ nói, ‘Tôi biết’, bởi vì hiểu biết luôn luôn là từng phần, trái lại học hành luôn luôn là tổng thể. Học hành không có nghĩa bắt đầu bằng một lượng hiểu biết nào đó và thêm vào hiểu biết cho nó. Đó không là học hành gì cả; đó là một qui trình hoàn toàn máy móc. Đối với tôi, học hành là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn. Tôi đang tự-học hành về chính tôi từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, và ‘chính tôi’ sinh động lạ thường. Nó đang sống, đang chuyển động; nó không có khởi đầu và kết thúc. Khi tôi nói, ‘Tôi biết về chính tôi’. Học hành đã kết thúc trong hiểu biết được tích lũy. Học hành không bao giờ là tích lũy; nó là một chuyển động của biết mà không khởi đầu và không kết thúc.

Liệu cái trí có thể làm tự do chính nó khỏi sự tích lũy một cách máy móc được gọi là hiểu biết? Và liệu người ta có thể tìm ra điều đó qua sự tiến hành của suy nghĩ? Bạn và tôi nhận ra rằng chúng ta bị quy định. Nếu bạn nói, như người nào đó nói, rằng tình trạng bị quy định là không tránh khỏi, vậy thì không có vấn đề; bạn là một nô lệ, và đó là sự kết thúc của nó. Nhưng nếu bạn bắt đầu tự-hỏi chính mình liệu có thể phá vỡ sự giới hạn này, tình trạng bị quy định này, vậy thì có một nghi vấn. Vậy thì bạn sẽ phải tìm hiểu toàn sự tiến hành của suy nghĩ. Nếu bạn chỉ nói, ‘Tôi phải nhận biết được tình trạng bị quy định của tôi, tôi phải suy nghĩ về nó, phân tích nó với mục đích hiểu rõ nó và triệt tiêu nó’, vậy thì bạn đang vận dụng sức mạnh. Suy nghĩ của bạn, phân tích của bạn vẫn còn là kết quả thuộc hậu cảnh của bạn. Vì vậy qua tư tưởng của bạn, chắc chắn bạn không thể phá vỡ tình trạng bị quy định mà nó là một bộ phận.

Trước hết chỉ cần thấy vấn đề; đừng đòi hỏi giải pháp. Sự kiện là rằng chúng ta bị quy định và rằng tất cả suy nghĩ để hiểu rõ tình trạng bị quy định này sẽ luôn luôn là từng phần. Vì vậy không bao giờ có sự hiểu rõ tổng thể và chỉ trong sự hiểu rõ tổng thể của toàn sự tiến hành của suy nghĩ mới có tự do. Sự khó khăn là chúng ta luôn luôn đang vận hành trong lãnh vực của cái trí, mà là công cụ của tư tưởng, hợp lý hay vô lý, và, như chúng ta đã thấy, tư tưởng luôn luôn là từng phần.

Đối với tôi, cái trí là một vật tổng thể. Nó là trí năng; nó là những cảm xúc, khả năng để quan sát, phân biệt; nó là trung tâm của tư tưởng mà nói, ‘Tôi sẽ’ và ‘Tôi sẽ không’; nó là ham muốn; nó là thành tựu. Nó là sự việc tổng thể, không phải cái gì đó thuộc trí năng tách rời khỏi cảm xúc. Chúng ta vận dụng tư tưởng như một phương tiện để giải quyết những vấn đề của chúng ta. Nhưng tư tưởng không là phương tiện để giải quyết bất kỳ vấn đề nào của chúng ta, bởi vì tư tưởng là sự đáp trả của ký ức, và ký ức là kết quả của hiểu biết được tích lũy như trải nghiệm. Nhận ra việc này, cái trí sẽ làm gì?

Tôi chứa đầy tham vọng, ham muốn có quyền lực, vị trí, thanh danh, và tôi cũng cảm thấy rằng tôi phải biết tình yêu là gì, thế là tôi ở trong trạng thái của xung đột. Một con người theo đuổi uy quyền, vị trí, thanh danh, không có tình yêu gì cả, mặc dù anh ấy có thể nói về nó, và bất kỳ sự hòa hợp nào của hai đều không thể được, dù anh ấy khao khát đến chừng nào chăng nữa. Tình yêu và uy quyền không thể hòa hợp. Vì vậy cái trí sẽ làm gì? Chúng ta thấy, tư tưởng sẽ chỉ tạo ra những mâu thuẫn thêm nữa, đau khổ thêm nữa. Vì vậy liệu cái trí có thể nhận biết được vấn đề này mà không giới thiệu tư tưởng vào nó?

Hãy cho phép tôi giải thích theo một cách khác. Liệu nó có khi nào xảy đến cho bạn – tôi chắc chắn có – rằng bạn bỗng nhiên trực nhận cái gì đó, và trong khoảnh khắc của trực nhận đó bạn không có vấn đề gì cả? Ngay khoảnh khắc bạn đã trực nhận vấn đề, vấn đề đã hoàn toàn kết thúc. Bạn có một vấn đề, và bạn suy nghĩ về nó, tranh luận về nó, lo lắng về nó; bạn vận dụng mọi phương tiện bên trong những giới hạn của tư tưởng bạn để hiểu rõ nó. Cuối cùng bạn nói, ‘Tôi không thể làm gì nữa’. Không có ai giúp đỡ bạn hiểu rõ, không đạo sư nào, không quyển sách nào, và không có lối thoát. Bởi vì đã khoét sâu vào nghi vấn bằng hết khả năng của bạn, bạn bỏ nó lại một mình. Cái trí của bạn không còn lo âu, không còn xé nát vấn đề, không còn nói, ‘Tôi phải tìm ra đáp án’, thế là nó trở nên yên lặng, phải không? Và trong yên lặng đó bạn tìm được đáp án. Điều đó thỉnh thoảng không xảy đến cho bạn à? Nó không phải việc gì to tát lắm. Nó xảy đến cho những người khoa học, những người toán học vĩ đại, và thỉnh thoảng mọi người trải nghiệm nó trong sống hàng ngày. Mà có nghĩa gì? Cái trí đã vận dụng toàn bộ khả năng của nó để suy nghĩ và đã đến bờ vực của tất cả tư tưởng mà đã không tìm được đáp án; thế là nó trở nên bặt tăm – không phải do bi quan, không phải do kiệt sức, không phải bằng cách nói, ‘Tôi sẽ yên lặng và nhờ đó tìm được đáp án’. Bởi vì đã thực hiện xong mọi việc có thể làm được để tìm ra đáp án, cái trí trở nên yên lặng một cách tự phát. Có một tỉnh táo không chọn lựa, không mọi đòi hỏi, một tỉnh táo trong đó không có lo âu, và trong trạng thái của cái trí đó có sự nhận biết. Chính một mình sự nhận biết này sẽ giải quyết tất cả những vấn đề của chúng ta.

Lại nữa, hãy cho phép tôi giải thích nó theo một cách khác. Khi chúng ta quan tâm đến cái trí, chúng ta phải tìm hiểu ý thức, bởi vì cái trí là ý thức. Cái trí không chỉ là trí năng, cảm giác, ham muốn, chán nản, thành tựu, tuyệt vọng, nhưng còn cả tổng thể của ý thức, mà bao gồm tầng ý thức bên trong. Hầu hết chúng ta đều vận hành trên bề mặt tại tầng ý thức bên ngoài. Khi chúng ta đi làm việc từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều, hay bất kỳ giờ giấc nào, năm này qua năm khác, cùng một ý thức nhàm chán cực độ, bạn đang vận hành một cách tự động, giống như một cái máy, trong những tầng bên ngoài của ý thức. Bạn đã học hành một công việc kinh doanh hay một nghề nghiệp, và cái trí bên ngoài của bạn đang vận hành tại mức độ đó, trái lại tại sâu thẳm lại có tầng ý thức bên trong. Ý thức giống như một con sông đang chảy xiết, rộng và sâu. Trên bề mặt nhiều sự việc đang xảy ra, và có nhiều phản ảnh, nhưng chắc chắn đó không là toàn con sông. Con sông là một tổng thể, nó bao gồm cái gì ở phía dưới cũng như cái gì ở bên trên. Nó cũng như vậy với ý thức, nhưng chẳng mấy người trong chúng ta biết được cái gì đang xảy ra ở sâu thẳm bên trong. Hầu hết chúng ta đều thỏa mãn nếu chúng ta có thể sống khá sung sướng, kèm theo sự an toàn nào đó và chút ít hạnh phúc trên bề mặt. Chừng nào chúng ta còn có một chút ít lương thực và chỗ ở, một chút ít nghi thức tôn giáo, những thần thánh nhỏ tí và những vui vẻ thoáng chốc, sự nô đùa trên bề mặt đã quá tốt đẹp cho chúng ta rồi. Bởi vì chúng ta thỏa mãn quá dễ dàng, chúng ta không bao giờ thâm nhập vào những chiều sâu, và có lẽ những chiều sâu lại mạnh mẽ, đầy uy quyền, khẩn thiết trong những đòi hỏi của chúng hơn là trên bề mặt. Vậy là có một mâu thuẫn giữa cái gì đang lộ ra trên bề mặt và cái gì đang xảy ra phía bên trong. Hầu hết chúng ta nhận biết được sự mâu thuẫn này chỉ khi nào có một khủng hoảng, bởi vì cái trí bề mặt đã điều chỉnh hoàn toàn đến môi trường sống. Cái trí bề mặt đã thâu lượm văn hóa phương Tây mới, với chế độ đại nghị của nó, và tất cả mọi chuyện còn lại, nhưng sâu thẳm bên trong vẫn còn có những tàn tích cổ xưa, những bản năng chủng tộc, những động cơ lặng lẽ mà đang liên tục đòi hỏi, thôi thúc. Những sự việc này nằm sâu thẳm bên trong đến độ thông thường chúng ta không cảm thấy chúng, và chúng ta không tìm hiểu chúng bởi vì chúng ta không có thời gian. Những hàm ý của chúng thường được chiếu rọi vào cái trí tầng ý thức bên ngoài như những giấc mộng.

Vì vậy cái trí là toàn sự việc đó, nhưng hầu hết chúng ta chỉ mãn nguyện vận hành trên bề mặt. Chỉ trong những lúc có những cơn khủng hoảng cấp bách, chúng ta mới nhận biết được sự mâu thuẫn sâu thẳm bên trong này trong chính chúng ta, và sau đó chúng ta muốn tẩu thoát khỏi nó, vì vậy chúng ta đi đến một ngôi đền, đến một đạo sư, hay chúng ta bật máy thâu thanh, hay làm điều gì khác. Tất cả những tẩu thoát, dù qua Thượng đế hay qua máy thâu thanh, từ căn bản đều giống nhau.

Vậy là có một mâu thuẫn trong ý thức, và bất kỳ nỗ lực nào để giải quyết mâu thuẫn đó hay để tẩu thoát khỏi nó sắp đặt một giới hạn thêm nữa trên ý thức. Luôn luôn tôi đang nói về cùng sự việc trong những cách khác nhau. Chúng ta quan tâm đến cái trí và làm thế nào cái trí, vì được giáo dục trong hiểu biết, trong từng phần, sẽ nhận biết được trong tổng thể. Chỉ khi nào cái trí nhận biết được tổng thể mới có một hiểu rõ trong đó vấn đề được kết thúc.

Tất cả suy nghĩ bị giới hạn, bởi vì suy nghĩ là sự đáp lại của ký ức – ký ức như trải nghiệm, ký ức như sự tích lũy hiểu biết – và nó là máy móc. Vì là máy móc, suy nghĩ sẽ không giải quyết những vấn đề của chúng ta. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta phải ngừng suy nghĩ. Nhưng một nhân tố mới mẻ hoàn toàn là cần thiết. Chúng ta đã thử những phương pháp và những hệ thống khác nhau, những cách khác nhau – cách chính trị, cách tôn giáo – và tất cả chúng đều thất bại. Con người vẫn còn trong đau khổ, anh ấy vẫn còn đang lục lọi, đang tìm kiếm trong sự hành hạ của tuyệt vọng, và dường như không có kết thúc cho sự đau khổ của anh ấy. Vì vậy phải có một nhân tố hoàn toàn mới mẻ mà không thể được công nhận bởi cái trí.

Chắc chắn cái trí là công cụ của sự công nhận, và bất kỳ điều gì mà cái trí công nhận đã được biết rồi; vì vậy nó không là cái mới mẻ. Nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng, của ký ức, và vì vậy là máy móc. Vậy là cái trí phải ở trong trạng thái nơi nó nhận biết mà không có sự tiến hành của công nhận.

Bây giờ, trạng thái đó là gì? Nó không liên quan gì đến tư tưởng; nó không liên quan gì đến sự công nhận. Công nhận và tư tưởng là máy móc. Nếu tôi được phép giải thích nó theo cách này, nó là một trạng thái của nhận biết và không còn gì thêm nữa, đó là: một trạng thái của đang là.

Hầu hết chúng ta là những con người tầm thường, cùng những cái trí rất nông cạn, và sự suy nghĩ của một cái trí nông cạn, chật hẹp chỉ có thể dẫn đến sự đau khổ thêm nữa. Một cái trí nông cạn không thể làm cho nó sâu thẳm; nó sẽ luôn luôn nông cạn, nhỏ nhen, đố kỵ. Điều gì nó có thể làm là nhận ra sự kiện rằng nó nông cạn và không tạo ra một nỗ lực để thay đổi nó. Cái trí thấy rằng nó bị quy định và không có sự thôi thúc để thay đổi trạng thái bị quy định đó, bởi vì nó hiểu rõ rằng bất kỳ cưỡng bách để thay đổi nào đều là kết quả của hiểu biết, mà là từng phần. Vì vậy nó ở trong một trạng thái của nhận biết. Nó đang trực nhận cái gì là. Nhưng thông thường điều gì xảy ra? Bởi vì đố kỵ, cái trí vận dụng tư tưởng để loại bỏ đố kỵ, thế là tạo tác sự đối nghịch như không-đố kỵ, nhưng nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng. Bây giờ nếu cái trí trực nhận trạng thái của đố kỵ mà không chỉ trích hay chấp nhận nó và không giới thiệu sự ham muốn để thay đổi, vậy thì nó là một trạng thái của trực nhận, và chính trạng thái của trực nhận đó mang lại một chuyển động mới mẻ, một yếu tố mới mẻ, một chất lượng hoàn toàn mới mẻ của đang là.

Bạn thấy, những từ ngữ, những giải thích, và những biểu tượng là một việc, và đang là là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn. Ở đây chúng ta không quan tâm đến những từ ngữ; chúng ta quan tâm đến đang là – đang là cái gì chúng ta thực sự là, không phải đang mơ mộng về chính chúng ta như những thực thể thuộc tinh thần, cái siêu ngã, và mọi chuyện vô lý đó, mà vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng, và vì vậy từng phần. Điều gì quan trọng là đang là cái gì chúng ta là – đố kỵ – và đang trực nhận nó một cách tổng thể. Và bạn có thể trực nhận nó một cách tổng thể chỉ khi nào không có chuyển động của tư tưởng. Cái trí là chuyển động của tư tưởng, và nó cũng là trạng thái trong đó có sự nhận biết tổng thể mà không có chuyển động của tư tưởng. Chỉ trạng thái nhận biết đó mới có thể mang lại một thay đổi cơ bản trong những phương cách thuộc suy nghĩ của chúng ta, và vì vậy suy nghĩ sẽ không là máy móc.

Chắc chắn, điều gì chúng ta quan tâm đến là nhận biết được toàn qui trình này của cái trí cùng những giới hạn của nó và không tạo tác một nỗ lực để xóa sạch những giới hạn đó, để thấy trọn vẹn, tổng thể cái gì là. Bạn không thể thấy tổng thể cái gì là nếu tất cả những suy nghĩ không kết thúc. Trong trạng thái của nhận biết đó không có chọn lựa, và chỉ trạng thái đó mới có thể giải quyết những vấn đề của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2010(Xem: 3088)
Tín ngưỡng, triết lý, và thực hành của Á châu đang ảnh hưởng mọi thứ từ cung cách mà chúng ta đối phó với bệnh tật đến việc chúng ta chế tạo xe hơi như thế nào. Bây giờ, một giáo sư Thương Mãi Đại Học Harvard đang hướng về phương Đông như một phương thức cho việc phát triển những lãnh đạo thương nghiệp mạnh mẽ. Bill George, một chuyên gia về bồi dưỡng phát triển lĩnh đạo, mới đây phối hợp với một vị thầy thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche để tổ chức một hội nghị về “lĩnh đạo tỉnh thức,” một tiến trình thế tục để khám phá những vai trò của sự tự tỉnh giác và tự từ bi trong sự phát triển những lĩnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả.
27/09/2010(Xem: 4770)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
22/09/2010(Xem: 10142)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
21/09/2010(Xem: 4703)
Xã hội hôm nay đã được cải thiện rất nhiều về phương diện vật chất, nhưng những giá trị hạnh phúc của con người thì không theo đó mà thăng tiến. Đời sống xã hội hiện tại đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn về đạo đức, môi trường sinh thái… và đang rất cần một giải pháp. Trong truyền thống dân tộc, với lịch sử gắn bó lâu đời, đạo Phật sẽ giới thiệu hướng đi nào trong việc thiết định các giá trị sống phù hợp với hôm nay?... Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
21/09/2010(Xem: 3077)
Ở phía trên chúng tôi trong những làn mây của Hy Mã Lạp Sơn là những ngọn núi tuyết phủ lởm chởm - Annapurna, Damodar, Gangapurna, Dhalguri. Bên dưới chúng tôi là băng hà Thulagi, một dòng sông băng cỗ xưa ngoằn ngoèo cheo leo trãi dài xuống thung lũng Mashyangdi từ gần đỉnh núi Manasulu. Bước trên những cây tiêu huyền nhỏ ngăn bờ và lướt qua một lối mòn cô độc và chúng tôi thấy điều mà chúng tôi đã từng tìm kiếm: tại mõm của Thulagi là một hồ nước màu sửa xanh dương đánh dấu trên một ít bản đồ.
18/09/2010(Xem: 3565)
Với Phật Giáo, hôn nhân được coi là một vấn đề riêng tư, cá nhân và không phải là một bổn phận tôn giáo. Hôn nhân là một tập quán xã hội, một sự xây dựng tạo nên bởi con người cho sự sung sướng và hạnh phúc của mình, để phân biệt xã hội loài người với đời sống loài vật, và để duy trì trật tự và hòa hợp trong tiến trình sinh sôi nẩy nở. Tuy kinh sách Phật Giáo không đề cập đến vấn đề một vợ một chồng hay đa thê, người cư sĩ Phật Giáo vẫn được khuyên dạy là nên giới hạn một vợ mà thôi.
18/09/2010(Xem: 4994)
Hôn nhân theo tự điển nghĩa là sự liên hệ hỗ tương giữa một người nam và một người nữ. Họ kết hợp với nhau theo một kiểu cách đặc biệt về sự lệ thuộc vào nhau trên pháp lý xã hội với mục đích là cùng nhau tạo dựng và duy trì gia đình. Trong hôn nhân thật sự, người chồng và người vợ nghĩ nhiều đến những người trong gia đình hơn là nghĩ đến chính họ. Họ hy sinh vì lợi ích của gia đình hơn vì lợi ích của chính cá nhân họ. Trong đạo Phật, nếu chưa có đại duyên xuất gia thì không có gì sai trái với việc kết hôn; tuy nhiên, việc lập gia đình phải được xem như là một tiến trình của đời sống và Phật tử tại gia phải coi đây như là cơ hội tốt cho họ thực hành những điều tu tập.
11/09/2010(Xem: 3308)
Trong cuộc tấn công khủng khiếp, hồi 9 giờ sáng thứ ba 11 tháng 9 năm 2001 một nhóm không tặc gần như cùng một lúc cướp bốn máy bay hành khách hiệu Boing đang trên đường bay hướng về thành phố New York và thủ đô Washington. Nhóm không tặc lái hai phi cơ lao thẳng vào Trung Tâm Thương mại Thế giới ở New York – mỗi chiếc đâm vào một trong hai tòa tháp cao nhất, cách nhau khoảng 18 phút.
10/09/2010(Xem: 49566)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
04/09/2010(Xem: 4399)
Chúng tôi rất vui mường cảm thấy đặc biệt vinh dự được nói chuyện với một nhóm những người thật sự cống hiến cho những vấn đề môi trường nói chung và đặc biệt cho những vấn đề môi trường của Tây Tạng nói riêng. Chúng tôi xin bày tỏ lòng cảm kích sâu xa đến Nghị sĩ Bob Brown.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567