Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Brockwood Park, 12 tháng chín 1970

16/07/201100:30(Xem: 4028)
06. Brockwood Park, 12 tháng chín 1970

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ HỌC HÀNH VÀ HIỂU BIẾT
ON LEARNING AND KNOWLEDGE
Lời dịch: Ông Không - 2009

Brockwood Park,12 tháng chín 1970

Tôi thấy – cái trí quan sát – rằng một cái trí rất rõ ràng không có chọn lựa, không có nhu cầu của chọn lựa, và vì vậy toàn sự đáp trả của hành động lệ thuộc vào ý chí kết thúc. Ý chí hàm ý kháng cự. Chắc chắn. Và bất kỳ hình thức nào của kháng cự là tách rời. Một cái trí bị tách rời không là một cái trí tự do, và một cái trí bị trói buộc trong sự thâu lượm hiểu biết như một phương tiện dẫn đến tự do không bắt gặp tự do đó; nó không xảy đến cho cái trí đó. Vậy là người ta phải tìm hiểu vấn đề của hiểu biết.
Tại sao hiểu biết đã trở thành một sự việc quan trọng lạ lùng như thế trong sống. Hiểu biết là trải nghiệm được tích lũy, cả sự tích lũy bên ngoài mà hàng ngàn người đã khám phá – khoa học, tâm lý và vân vân – và cũng cả hiểu biết người ta đã thâu lượm qua quan sát, qua học hành, qua tìm kiếm. Hiểu biết có vị trí nào trong tự do? Điều này gây hứng thú cho bạn chứ?

Khán giả: Có.

Krishnamurti: Đừng, đừng, đừng quá vội vã khi trả lời có, bởi vì đây không là một trao đổi từ ngữ, một trò chơi trí năng. Hiểu biết luôn luôn ở trong quá khứ. Khi bạn nói, ‘Tôi biết’, nó hàm ý bạn đã biết. Hiểu biết thuộc mọi loại – khoa học, cá nhân, cộng đồng, hay bất kỳ thứ gì – luôn luôn ở trong quá khứ. Liệu một cái trí sống trong quá khứ, là kết quả của quá khứ, được tự do? Hiểu biết không chỉ về những sự kiện và thông tin và vân vân; hiểu biết gồm cả hình ảnh, biểu tượng, hình ảnh mà tôi đã dựng lên về bạn và bạn đã dựng lên về tôi.

Người hỏi: Hiểu rõ về chính mình là gì?

Krishnamurti: Đầu tiên hãy thấy cái trí tích lũy hiểu biết như thế nào, tại sao nó tích lũy, nơi nào nó cần thiết và nơi nào nó là cản trở cho tự do. Muốn làm bất kỳ điều gì người ta phải có hiểu biết: lái một chiếc xe hơi, nói một ngôn ngữ, làm một công việc về công nghệ, bạn phải có nhiều hiểu biết – càng hiệu quả nhiều bao nhiêu, càng khách quan nhiều bao nhiêu, càng không riêng tư nhiều bao nhiêu, càng tốt hơn bấy nhiêu. Hiểu biết là cần thiết. Nhưng liệu cái trí mà đầy thông tin như hiểu biết có khi nào được tự do, hay nó phải luôn luôn mang theo hiểu biết đó, mà luôn luôn là quá khứ? Do bởi mang theo quá khứ đó, hiểu biết đó, và gặp gỡ hiện tại bằng quá khứ đó nên xung đột hiện diện. Tôi đã gặp bạn ngày hôm qua, và bạn đã nịnh nọt tôi hay đã lăng nhục tôi thế là tôi có hình ảnh đó về bạn; đó là một phần của hiểu biết. Với hiểu biết đó, với hình ảnh đó mà tôi đã dựng lên về bạn, mà là quá khứ, tôi gặp bạn hôm nay. Và thế là có xung đột giữa bạn và tôi. Điều này quá đơn giản.

Vậy là người quan sát là kho lưu trữ của hiểu biết. Làm ơn hãy tự khám phá điều này cho chính bạn; nó vui lắm. Vì vậy người quan sát là quá khứ; anh ấy là người kiểm duyệt, thực thể mà có hiểu biết được tích lũy, và từ hiểu biết đó anh ấy nhận xét, anh ấy đánh giá. Và anh ấy đang làm chính xác cùng sự việc liên quan đến chính anh ấy. Anh ấy đã thâu lượm hiểu biết về chính anh ấy qua những người tâm lý; anh ấy đã học hỏi anh ấy là gì, hay anh ấy nghĩ anh ấy đã học hỏi về chính anh ấy, và với hiểu biết đó anh ấy nhìn vào chính anh ấy. Anh ấy không nhìn vào chính anh ấy bằng đôi mắt trong sáng. Anh ấy nói, ‘Tôi biết; tôi đã thấy chính tôi. Nó khá xấu xa; nhiều phần khá tốt, nhưng nhiều phần khác lại quá tồi tệ’. Anh ấy đã đánh giá rồi, và sự đánh giá của anh ấy được đặt nền tảng trên quá khứ, mà là hiểu biết của anh ấy về chính anh ấy. Vậy là anh ấy không bao giờ phát giác bất kỳ điều gì mới mẻ về chính anh ấy, bởi vì người quan sát khác hẳn vật được quan sát, mà anh ấy tự gọi chính anh ấy.

Và đó là điều gì chúng ta luôn luôn đang thực hiện trong tất cả những liên hệ, trong những liên hệ máy móc hay những liên hệ con người, sự liên hệ với cái máy hay sự liên hệ với một người khác. Tất cả liên hệ đó đều được đặt nền tảng trên sự ham muốn để tìm được một nơi mà bạn có thể hoàn toàn được an toàn, chắc chắn, và chúng ta đã tìm kiếm và đã tìm được an toàn trong sự hiểu biết. Người giữ hiểu biết này là người quan sát, người kiểm duyệt, người suy nghĩ, người trải nghiệm; và người quan sát luôn luôn đang quan sát như một vị trí khác biệt với vật được quan sát. Người quan sát tự-phân tích chính anh ấy, hay anh ấy được phân tích bởi người chuyên nghiệp – mà chính người ấy cũng cần phân tích – và trò chơi này tiếp tục.

Vì vậy người ta hỏi liệu người ta có thể quan sát toàn chuyển động của sống mà không có gánh nặng của quá khứ. Đó là điều gì chúng ta đang cố gắng làm, phải không? Chúng ta muốn tìm được những diễn tả mới. Nếu bạn là một họa sĩ, bạn muốn nhiều khách quan hơn nữa – bạn biết, bạn đùa giỡn với trò chơi này mãi mãi – bạn muốn viết những quyển sách mới, một cách nhìn mới mẻ vào sống, một cách sống mới mẻ. Bạn muốn phản kháng lại cái cũ kỹ và rơi vào cái bẫy của cái mới mẻ, mà là sự phản ứng đến cái cũ kỹ.

Người ta thấy rằng thông minh không nằm trong bàn tay của người quan sát; chỉ khi nào cái trí được tự do, tự do để học hành – và học hành không là sự tích lũy của hiểu biết. Trái lại, học hành là chuyển động, và sự tích lũy của hiểu biết là đứng yên. Bạn có lẽ thêm vào sự hiểu biết, nhưng tâm điểm của nó là đứng yên, và từ trạng thái đứng yên đó người ta vận hành, người ta sống, người ta vẽ, người ta viết, người ta làm tất cả những việc ma mãnh trong sống. Và bạn gọi đó là tự do. Vậy là liệu cái trí có thể được tự do khỏi cái đã được biết?

Bạn biết nó thực sự là một câu hỏi rất lạ thường nếu bạn đặt ra – không chỉ thuộc trí năng nhưng thực sự rất, rất sâu thẳm – để tìm ra liệu cái trí có khi nào được tự do khỏi cái đã được biết. Ngược lại không có sáng tạo; ngược lại không có gì mới mẻ. Vậy thì không có gì mới mẻ dưới ánh mặt trời; luôn luôn có sự đổi mới của cái đã được đổi mới.

Người ta phải tìm ra tại sao sự phân chia này giữa người quan sát và vật được quan sát lại tồn tại và liệu một cái trí có thể vượt khỏi sự phân chia này. Điều đó có nghĩa có thể được tự do khỏi cái đã được biết để vận hành tại một kích thước hoàn toàn khác hẳn, mà là thông minh và sẽ sử dụng hiểu biết chỉ khi nào cần thiết. Vậy là thông minh hàm ý tự do – nhưng không phải làm điều gì người ta muốn, mà thiếu chín chắn và trẻ con. Tự do hàm ý sự kết thúc tất cả xung đột, và xung đột được kết thúc chỉ khi nào người quan sát là vật được quan sát, bởi vì lúc đó không có sự phân chia.

Rốt cuộc, tự do hiện diện khi có tình yêu, phải không? Bạn biết, từ ngữ tình yêu đã bị giải thích quá nhiều, giống như từ ngữ Thượng đế. Người ta do dự khi sử dụng từ ngữ tình yêu bởi vì nó được liên tưởng đến vui thú, đến tình dục, đến ghen tuông, đến lệ thuộc, đến tham lợi, và mọi chuyện như thế. Một cái trí không được tự do không biết tình yêu có nghĩa gì. Nó có lẽ biết vui thú và thế là biết sợ hãi có nghĩa gì. Nhưng chắc chắn sợ hãi và ham muốn và vui thú không là tình yêu; tình yêu chỉ có thể hiện diện khi có tự do thực sự khỏi quá khứ. Liệu điều đó có thể được? Bạn biết con người đã tìm kiếm bằng nhiều cách khác nhau để được tự do khỏi sự ngắn ngủi của hiểu biết, và vì vậy anh ấy luôn luôn đã tìm kiếm cái gì đó vượt khỏi hiểu biết, vượt khỏi tư tưởng. Tư tưởng là sự phản ứng của hiểu biết. Vì vậy anh ấy đã sáng chế một hình ảnh được gọi là Thượng đế và tất cả những vô lý được nảy sinh quanh đó. Nhưng muốn tìm ra liệu có cái gì đó vượt khỏi hình ảnh của tư tưởng, phải có tự do khỏi tất cả sợ hãi.

Người hỏi: Tôi có thể hỏi liệu ông đang phân biệt giữa những tế bào của bộ não như trí năng và cái trí mà là một nhận biết vượt khỏi cái trí năng thực tế?

Krishnamurti: Không, tôi nghĩ chúng ta không đang phân chia nó. Chúng ta đang sử dụng cái trí như sự tiến hành tổng thể của tư tưởng, như ký ức, như hiểu biết; đang bao gồm những tế bào não. Chắc chắn. Người ta không thể tách rời những tế bào não khỏi phần còn lại của cái trí, đúng chứ?

Người hỏi: Bộ não dựng lên trí năng.

Krishnamurti: Chức năng của bộ não là gì? Bộ não là gì? Chúng ta không đang giải thích theo chuyên nghiệp – tôi không đọc những quyển sách về tất cả vấn đề này – nhưng bộ não là gì?

Người hỏi: Ồ, nó là một máy tính.

Krishnamurti: Một máy tính phi thường nhất, được thiết lập, được sắp xếp vào chung trong hàng ngàn năm. Nó là kết quả của thời gian. Thời gian là ký ức. Ký ức là trải nghiệm, sự tích lũy hàng ngàn năm của trải nghiệm để sống còn, để được bảo đảm, để được an toàn. Vì vậy người ta có hiểu biết này, đặc biệt về phía bên ngoài, hiểu biết về mọi thứ đang xảy ra trong thế giới bên ngoài, làm thế nào để đi tới mặt trăng – nhưng lại chẳng biết bao nhiêu về chính người ta.

Người hỏi: Sáng tạo có thể lệ thuộc vào ký ức và vì vậy lệ thuộc vào quá khứ?

Krishnamurti: Như thế à? Bây giờ, hãy chờ một tí, thưa bạn. Sáng tạo lệ thuộc vào ký ức?

Người hỏi: Thật ra, điều gì tôi đang muốn nói là điều gì ông đã nói lúc trước rằng không có gì mới mẻ dưới ánh mặt trời.

Krishnamurti: Đó là điều gì chúng ta nghĩ, thưa bạn, rằng không có gì mới mẻ dưới ánh mặt trời. Ít nhất kinh Bible nói như thế, sách thánh nói như thế. Lúc này chúng ta không đang lầm lẫn sáng tạo với sự diễn tả chứ? Một con người sáng tạo cần sự diễn tả? Tôi cần sự diễn tả để thành tựu cho chính tôi – tôi phải diễn tả; tôi có một cảm giác rằng tôi là một nghệ sĩ, tôi phải diễn tả nó trong một bức tranh hay trong một bài thơ. Sáng tạo cần sự diễn tả? Và sự diễn tả thể hiện một cái trí được tự do trong sáng tạo? Bởi vì người ta viết một bài thơ, hay vẽ một bức tranh, điều đó thể hiện một cái trí sáng tạo?

Người hỏi: Không nhất thiết.

Krishnamurti: Vậy thì trạng thái sáng tạo có nghĩa gì? Không phải sự lặp lại máy móc của quá khứ.

Người hỏi: Tôi nghĩ trạng thái sáng tạo không cần sự diễn tả.

Krishnamurti: Chờ đã, chúng ta sẽ tìm hiểu từ từ. Trạng thái sáng tạo cần sự diễn tả? Tôi chỉ đang hỏi. Bạn nói nó không cần sự diễn tả. Vậy thì chấm dứt; không cần tìm hiểu thêm nữa. Chúng ta chỉ đang học hành. Chúng ta đang cùng nhau học hành. Làm ơn, hãy luôn luôn nhớ rằng chúng ta đang cùng nhau học hành, chúng ta đang cùng nhau làm việc, đang cùng nhau chia sẻ, và vì vậy nếu bạn nói trạng thái sáng tạo cần sự diễn tả, vậy thì nó chấm dứt, cánh cửa được đóng lại trước mặt tôi.
Chúng ta hãy tìm hiểu nó từ từ. Trạng thái sáng tạo có nghĩa gì? Cảm giác của cái trí mà cảm thấy sáng tạo là gì? Bạn biết nó?

Người hỏi: Khi cái trí có cảm hứng, lúc đó nó sáng tạo cái gì đó mới mẻ.

Krishnamurti: Khi cái trí thấy cái gì đó tốt lành và đẹp đẽ, đó là một cái trí sáng tạo? Một cái trí tốt lành cần sự cảm hứng? Không, thưa bạn, bạn thấy bạn đã thực hiện những câu phát biểu. Làm ơn hãy tìm hiểu. Chúng ta hãy thâm nhập từ từ vào nó. Tôi không biết điều đó có nghĩa gì. Chúng ta sẽ tìm ra, không phải bằng từ ngữ nhưng, bạn biết, thực sự tìm ra một cái trí mà sáng tạo lạ thường có nghĩa gì.

Người hỏi: Nó có nghĩa sự thật.

Krishnamurti: Bạn nói nó là sự thật. Cái trí của bạn sáng tạo để biết rằng nó là sự thật? Làm ơn, hãy theo dõi, thưa bạn, cái trí phải được tự do để sáng tạo – tự do? Ngược lại nó là lặp lại. Trong trạng thái lặp lại đó, có lẽ có những diễn tả mới, nhưng nó vẫn còn là lặp lại, máy móc. Liệu một cái trí, một sống, mà máy móc, có thể sáng tạo? Liệu một cái trí, một con người ở trong xung đột, trong căng thẳng, loạn thần kinh, có thể sáng tạo? Anh ấy có lẽ sáng tác những bài thơ tuyệt vời, những vở kịch kiệt tác – anh ấy có lẽ viết một vở kịch tuyệt vời sau khi đã bị lơ lửng hay bị ‘cột chặt’ vào điều gì đó. Đó là tất cả những diễn tả mới.

Người hỏi: Bạn phải ở trong ‘ngay lúc này’.

Krishnamurti: Vậy là, thưa bạn, nó có nghĩa gì, ở trong ngay lúc này? Nó không thể là máy móc. Nó không thể bị chất nặng bởi tất cả trọng lượng của hiểu biết, như truyền thống. Nó có nghĩa một cái trí mà tuyệt đối được tự do khỏi sợ hãi. Đó là tự do, phải không?

Người hỏi: Chắc chắn nó vẫn phải tìm kiếm sự an toàn; đó là một chức năng của bộ não.

Krishnamurti: Hãy theo dõi, thưa bạn, bạn đang nói phải có an toàn.

Người nói: Đó là chức năng của bộ não.

Krishnamurti: Dĩ nhiên, đó là chức năng của bộ não để an toàn. Nó có thể vận hành đúng cách, hợp lý, rõ ràng, khi nó được an toàn. Nhưng liệu nó được an toàn khi nó tự-phân chia chính nó thành những quốc tịch, thành những tôn giáo, thành nói, ‘Nó là của tôi, nó là của bạn’? Nơi nào có bất kỳ hình thức nào của phân chia, có sự hủy diệt – người Do thái, người Hồi giáo, người Ả rập.

Người hỏi: Dường như đối với tôi nếu không có đối nghịch không có tăng trưởng.

Krishnamurti: Ô, nếu không có đối nghịch, không có tăng trưởng. Ô, Chúa ơi! Đó là thành phần của tình trạng bị quy định của chúng ta, phải không?

Người hỏi: Không, nó là thành phần của sự thật.

Krishnamurti: Thế à, thế à? Chúng ta hãy tìm ra, thưa bà.

Người hỏi: Nếu không có một cao không có thấp.

Krishnamurti: Chúng ta hãy tìm ra. Chúng ta đã sống theo cách đó, giữa tốt lành và xấu xa, giữa hận thù và thương yêu, trong ghen tuông, giữa nhân từ và ác độc, giữa bạo lực và hòa nhã. Đó là cách chúng ta đã sống hàng ngàn năm, và chúng ta đã chấp nhận điều đó bởi vì chúng ta bị quy định rằng nó là cái gì đó thực sự. Đúng chứ – sống theo cách này?

Người hỏi: Làm thế nào nguời ta được tự do khỏi tình trạng bị quy định này?

Krishnamurti: Lúc này, chúng ta đang bàn luận cái trí là gì, chất lượng của cái trí mà sáng tạo là gì. Liệu chất lượng của một cái trí mà dao động giữa hận thù và ghen tuông và thương yêu và vui thú và sợ hãi có thể biết tình yêu có nghĩa gì? Liệu một cái trí mà luôn luôn đang tìm kiếm sự diễn tả, sự thành đạt, để trở nên nổi tiếng, để được công nhận, để là người nào đó, có thể biết sáng tạo là gì? Tất cả chúng ta đều gọi điều đó là sự thành đạt, đang trở thành, là, bạn biết, tất cả mọi chuyện của nó. Liệu một cái trí như thế có thể sáng tạo khi nó bị trói buộc trong từ ngữ, hay trong động từ to be là? Là: ‘Tôi đã là, tôi sẽ là’ – luôn luôn đang trở thành cái gì đó – liệu một cái trí như thế có thể sáng tạo? Trong đang trở thành có sợ hãi: bạn có lẽ không trở thành; bạn có lẽ không thành công. Trong đang trở thành có sợ hãi về chết, sợ hãi về cái không biết được, thế là bạn bám vào cái đã được biết, mà là hiểu biết. Liệu một cái trí như thế có khi nào sáng tạo? Hay sáng tạo là kết quả của áp lực, đối nghịch, căng thẳng?

Người hỏi: Trạng thái sáng tạo là hân hoan và chú ý, sự tưởng tượng.

Krishnamurti: Ô, trạng thái sáng tạo là hân hoan, sự tưởng tượng. Bạn thấy tất cả chúng ta đều như thế – tôi không biết chúng ta là gì. Bạn biết hân hoan có nghĩa gì? Hân hoan là vui thú?

Người hỏi: Không.

Krishnamurti: Bạn nói không, nhưng đó là điều gì bạn đang tìm kiếm, phải không? Bạn có một khoảnh khắc của hân hoan vô cùng, ngây ngất vô cùng, và bạn suy nghĩ về nó. Sự suy nghĩ về nó đã giảm nó xuống thành vui thú. Vì vậy, làm ơn, thưa bạn, tất cả chúng ta đầy những kết luận, và một cái trí có nhiều kết luận không là một cái trí tự do. Hãy tìm ra liệu người ta có thể sống mà không có bất kỳ kết luận nào, sống hàng ngày mà không có bất kỳ kết luận nào. Điều đó có nghĩa sống một sống không còn so sánh. Bạn kết luận bởi vì bạn so sánh. Sống một sống không còn so sánh! – bạn hãy thực hiện nó trong thời gian nào đó và bạn sẽ phát giác một sự việc thật lạ thường xảy ra.

Người hỏi: Nếu tôi chỉ là trải nghiệm, và trải nghiệm là sợ hãi hay tức giận, chuyện gì xảy ra?

Krishnamurti: Nếu người ta chỉ là trải nghiệm, người hỏi muốn biết, và người trải nghiệm là sợ hãi, nhưng chỉ sống trong trải nghiệm mà không có trải nghiệm đó được ghi lại và được công nhận trong tương lai như một trải nghiệm, chuyện gì xảy ra? Câu hỏi như vậy phải không? Tôi nghĩ trước tiên người ta phải tìm ra chúng ta có ý gì qua từ ngữ trải nghiệm đó. Nó không có nghĩa là đi qua à? Nó không hàm ý sự công nhận à? Ngược lại bạn sẽ không biết bạn đã trải nghiệm. Chúng ta đang gặp gỡ lẫn nhau chứ? Nếu tôi đã không công nhận trải nghiệm, nó sẽ là trải nghiệm à?

Người hỏi: Liệu không thể chỉ có trải nghiệm mà không có hình ảnh?

Krishnamurti: Bạn sẽ không tiến thêm một chút nữa và hỏi trải nghiệm là gì à? Tất cả chúng ta đều muốn trải nghiệm. Trước tiên chúng ta chán ngán sống của chúng ta; chúng ta đã biến sống thành một công việc máy móc, và chúng ta chán ngán nó. Chúng ta muốn những trải nghiệm sâu thẳm hơn, rộng rãi hơn, những trải nghiệm thăng hoa. Đúng chứ? Bây giờ, tất cả điều này hàm ý gì? Sự chán ngán, và những tẩu thoát khỏi sự chán ngán này qua thiền định, qua những hình thức khác nhau vào cái tạm gọi là thiêng liêng – dù nó là gì chăng nữa – mà tất cả đều là những công thức. Trải nghiệm hàm ý một công nhận, và bạn chỉ có thể công nhận nếu có một ký ức của sự việc đó mà bạn đã trải nghiệm rồi; ngược lại không có sự công nhận. Vì vậy câu hỏi là, tại sao chúng ta lại cần có trải nghiệm? Để đánh thức chúng ta dậy bởi vì chúng ta ngủ mê? Một thách thức mới là một trải nghiệm, nhưng chúng ta phản ứng đến thách thức đó tùy theo hậu cảnh của chúng ta, mà là cái đã được biết. Vậy là luôn luôn có sự xung đột giữa thách thức và phản ứng.
Vậy là liệu có thể sống một sống trong đó cái trí rất rõ ràng, tỉnh táo, quá nhiều ánh sáng đến nó, đến độ nó không cần trải nghiệm? Đừng nói được; hãy tìm ra! Điều đó có nghĩa sống một sống không có xung đột. Điều đó có nghĩa một cái trí nhạy cảm cực độ và thế là thông minh, mà là một ngọn đèn trong chính nó, và thế là nó không cần cái gì đó để thách thức nó hay đánh thức nó. Đúng chứ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2016(Xem: 5878)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12162)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7178)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6777)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26675)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14129)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 19967)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22706)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18477)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 24885)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567