Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là

15/07/201114:24(Xem: 3847)
Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 7

NGƯỜI QUAN SÁT VÀ CÁI GÌ LÀ

New Delhi, ngày 25 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Vấn đề của sự phân hai và sự kết thúc của nó không thể được hiểu rõ nếu chúng ta không thâm nhập bản chất của người suy nghĩ và suy nghĩ. Liệu chúng ta có thể bàn luận điều này?

Krishnamurti: Làm thế nào những người suy nghĩ của Ấn giáo, những triết gia thuộc trường phái Advaita giải quyết vấn đề này?

P: Trường phái Yoga-sutras của Patanjali công nhận một trạng thái giải thoát có những chỗ dựa, và một trạng thái của giải thoát không có những chỗ dựa. Trong một trạng thái, người suy nghĩ là chỗ dựa; nó là một trạng thái nơi người suy nghĩ đã không kết thúc. Trong trạng thái kia, có một trạng thái nơi mọi thứ gồm cả người suy nghĩ đã kết thúc.

Những người Phật giáo nói về kshana vada, thời gian như tích tắc, tổng thể và trọn vẹn trong chính nó nơi người suy nghĩ không có sự tiếp tục. Những triết gia Advaita nói vềsự kết thúc của phân hai và sự đạt được không-phân hai. Họ trải qua một qui trình phân hai để đạt được trạng thái không-phân hai này. Sankara tiếp cận trạng thái không-phân hai này qua sự phủ nhận (neti, neti). Nagarjuna, sự phủ nhận của người triết lý Phật giáo là tuyệt đối; nếu bạn nói có Thượng đế, ông ta phủ nhận nó; nếu bạn nói không có Thượng đế, ông ta phủ nhận nó. Mọi phát biểu đều bị phủ nhận.

B:Buddha nói cái gì tồn tại là ‘Sự cô đơn của Sự thật’. Bạn là kết quả của những suy nghĩ của bạn.

P:Tất cả họ đều nói về không-phân hai – Buddha, Sankara, Nagarjuna. Nhưng không-phân hai đã trở thành một ý tưởng. Nó đã không tác động vào ngay cấu trúc của bộ não. Ở Ấn độ qua hàng thế kỷ sự tiếp cận phủ nhận đã được bàn luận, nhưng nó đã không ảnh hưởng cái trí của con người. Những tế bào não vẫn duy trì sự phân hai; chúng vận hành trong thời gian và bị trói buộc trong thời gian. Mặc dù sự phủ nhận và sự không-phân hai đã được thừa nhận nhưng không có manh mối để hiểu rõ những trạng thái này. Tại sao không-phân hai đã không gây ảnh hưởng cái trí của con người? Chúng ta có thể thâm nhập vào nó để thấy liệu chúng ta có thể khám phá cái đó mà sẽ nẩy mầm trạng thái không-phân hai?

B:Tất cả những khai triển khác – thuộc khoa học, công nghệ – đã gây ảnh hưởng những cái trí của con người. Con người đã khám phá trạng thái không-phân hai nhưng nó đã không gây ảnh hưởng cái trí của anh ấy cũng như sống của anh ấy.

S: Nếu mỗi trải nghiệm lưu lại một dấu vết trên những tế bào não, ảnh hưởng của trạng thái không-phân hai, của trạng thái một là gì? Tại sao một thay đổi không đang xảy ra trong liên hệ giữa người suy nghĩ và suy nghĩ?

P: Liệu hệ thống máy móc mà ghi lại những hiểu biết thuộc công nghệ, là cùng hệ thống máy móc mà ‘thấy, nhận biết’?

Krishnamurti: Tế bào công nghệ, tế bào ghi lại và tế bào nhận biết –

P: Và dường như chúng hình thành ‘cái tôi’.

Krishnamurti: Mảnh công nghệ và mảnh ghi lại – hai mảnh này tạo thành cái tôi. Không phải mảnh nhận biết.

P: Tôi cũng đang bao gồm ‘nhận biết’. Mảnh ghi lại liên quan cả hai – mảnh công nghệ và sự nhận biết.

Krishnamurti: Nó có lẽ là một giải thích bằng từ ngữ.

P:Dường như tâm điểm của con người không bao giờ bị ảnh hưởng. Sự phân hai cốt lõi cơ bản giữa người suy nghĩ và suy nghĩ cứ tiếp tục.

Krishnamurti: Bạn nghĩ tại cơ bản có sự phân hai hay chỉ có ‘cái gì là’, sự kiện?

P: Thưa anh, khi anh đưa ra một câu hỏi như thế, cái trí bất động và người ta nói ‘vâng, nó là như thế’. Sau đó sự nghi ngờ bắt đầu – liệu tôi không tách khỏi S, khỏi B? Mặc dù cái trí nói ‘vâng’, nó cũng thắc mắc một tích tắc sau đó. Khoảnh khắc anh đặt ra câu hỏi, cái trí của tôi trở nên bặt tăm.

Krishnamurti: Tại sao không ở đó?

P: Sự nghi ngờ nảy sinh.

Krishnamurti: Tại sao? Liệu nó là thói quen, truyền thống, chính bản chất của sự vận hành của cái tôi, tình trạng bị quy định? Tất cả điều đó có lẽ do bởi sự áp đặt của văn hóa để sinh tồn, để vận hành và vân vân. Tại sao mang nó vào khi chúng ta đang nhìn sự kiện – liệu có sự phân hai cơ bản?

P:Anh nói, nó có lẽ là một hành động phản xạ của những tế bào não?

Krishnamurti: Chúng ta là kết quả của môi trường sống của chúng ta, của xã hội của chúng ta. Chúng ta là kết quả của tất cả những phản ứng hổ tương của chúng ta. Đó cũng là một sự kiện. Tôi đang tự hỏi liệu có một sự phân hai cơ bản tại tâm điểm, hay sự phân hai nảy sinh khi tôi chuyển động khỏi ‘cái gì là’? Khi tôi không chuyển động khỏi chất lượng không-phân hai cơ bản của cái trí, người suy nghĩ hiện diện ở đó, liệu anh ấy có một phân hai? Anh ấy suy nghĩ. Liệu người suy nghĩ tạo tác một phân hai khi anh ấy trọn vẹn ở cùng ‘cái gì là’?

Tôi không bao giờ suy nghĩ khi tôi nhìn một cái cây. Khi tôi nhìn bạn, không có sự phân chia như ‘tôi’ và ‘bạn’. Những từ ngữ được sử dụng chỉ vì những mục đích hiệp thông và ngôn ngữ. Trong chừng mực nào đó ‘cái tôi’ và ‘cái bạn’ không bị bám rễ trong tôi. Vì vậy, người suy nghĩ nảy sinh sự tách khỏi suy nghĩ ở đâu? Cái trí vẫn còn trong ‘cái gì là’. Nó ở lại cùng đau khổ. Không có suy nghĩ của không-đau khổ. Không có ý thức của đau khổ. Đó là ‘cái gì là’. Không có cảm giác của mong muốn thoát khỏi nó. Sự phân hai nảy sinh ở đâu? Sự phân hai nảy sinh khi cái trí nói, ‘Tôi phải loại bỏ sự đau khổ. Tôi đã biết những trạng thái không-đau khổ và tôi muốn trong một trạng thái không-đau khổ’. (Ngừng). Bạn là một người đàn ông và tôi là một người đàn bà. Đó là một sự kiện sinh học. Nhưng liệu có một phân hai thuộc tâm lý? Liệu có một trạng thái phân hai tại cơ bản hay chỉ khi nào cái trí chuyển động khỏi ‘cái gì là’?

Có đau khổ. Người con trai của tôi chết. Tôi không chuyển động thoát khỏi. Sự phân hai ở đâu? Chỉ khi nào tôi nói tôi đã mất người bầu bạn của tôi, người con trai của tôi, sự phân hai đó hiện diện. Tôi không hiểu liệu điều này là đúng? Tôi trải qua đau khổ – sự đau khổ thuộc thân thể hay tâm lý. Tất cả chúng đều được bao gồm trong đau khổ. Một chuyển động thoát khỏi nó là sự phân hai. Người suy nghĩ là sự chuyển động thoát khỏi đó. Tiếp theo, người suy nghĩ nói điều này không nên tồn tại; anh ấy cũng nói không nên có sự phân hai.

Trước hết, hãy thấy sự kiện rằng chuyển động thoát khỏi ‘cái gì là’, là chuyển động của người suy nghĩ mà tạo ra sự phân hai. Trong quan sát sự kiện của đau khổ, tại sao phải có một người quan sát trong sự quan sát đó? Người quan sát nảy ra khi có một chuyển động, hoặc lùi về sau hoặc tiến tới trước. Suy nghĩ rằng ngày hôm qua tôi không có đau khổ – trong suy nghĩ đó sự phân hai nảy sinh. Liệu cái trí có thể vẫn ở cùng đau khổ, không có bất kỳ chuyển động thoát khỏi nó, mà tạo tác người suy nghĩ?

Cái trí đang tự hỏi, làm thế nào thái độ phân hai này hướng về sự sống lại nảy sinh? Nó không đang nài nỉ một giải thích của làm thế nào thoát khỏi nó. Tôi đã có vui thú ngày hôm qua. Nó chấm dứt. (Ngừng) Nó không đơn giản như thế, hay sao?

P: Thật ra không dễ dàng đâu.

Krishnamurti: Tôi nghĩ dễ dàng lắm. Bạn thấy đó, điều này hàm ý sự quan sát không-so sánh. Sự so sánh là phân hai. Sự đo lường là phân hai. Có đau khổ ngày hôm nay, có sự so sánh với không-đau khổ của ngày mai. Nhưng chỉ có một sự kiện duy nhất: đau khổ mà cái trí đang trải nghiệm ngay lúc này. Không còn điều gì nữa hiện diện. Tại sao chúng ta đã làm phức tạp nó? Tại sao chúng ta đã dựng lên những triết lý kỳ cục quanh tất cả việc này? Liệu chúng ta đang bỏ lỡ cái gì đó? Có phải rằng cái trí không biết làm gì, và vì vậy chuyển động khỏi sự kiện và khiến cho sự phân hai hiện diện? Nếu nó biết, liệu nó tạo ra sự phân hai? Liệu chính ‘làm gì’ là một qui trình phân hai? Bạn hiểu chứ? Chúng ta hãy quan sát nó một lần nữa. Có đau khổ – thuộc thân thể hay thuộc tâm lý. Khi cái trí không biết ‘làm gì’ trong ý nghĩa không-phân hai, nó tẩu thoát. Liệu cái trí bị trói buộc trong cái bẫy, chuyển động tiến tới hay chuyển động lùi lại có thể, liệu nó có thể giải quyết ‘cái gì là’ trong một cách không-phân hai? Bạn hiểu chứ? Vì vậy chúng ta đang hỏi, liệu đau khổ, ‘cái gì là’, có thể được thay đổi mà không có hoạt động phân hai? Liệu có thể có một trạng thái không-suy nghĩ, trong đó người suy nghĩ không-hiện diện gì cả; người suy nghĩ mà nói ‘Tôi đã không có đau khổ ngày hôm qua và tôi sẽ không có nó ngày mai’?

P: Hãy thấy điều gì xảy ra cho chúng tôi. Điều gì anh giải thích là đúng. Nhưng có một khiếm khuyết của cái gì đó bên trong chúng tôi; nó có lẽ là sức mạnh, năng lượng. Khi có một khủng hoảng, trọng lượng của khủng hoảng đó đủ mãnh liệt để cuốn hút chúng tôi vào một trạng thái nơi không có chuyển động thoát khỏi sự khủng hoảng; nhưng trong sống hàng ngày, chúng tôi có những thách thức ‘nhỏ nhoi’.

Krishnamurti: Nếu bạn thực sự hiểu rõ điều này, bạn sẽ gặp gỡ những thách thức nhỏ nhoi này.

P:Trong sống hàng ngày, chúng ta có những chuyển động huyên thuyên, thất thường của người suy nghĩ đang vận hành theo những đòi hỏi của nó. Người ta phải làm gì với điều đó.

Krishnamurti:Tôi không nghĩ bạn có thể làm bất kỳ việc gì với nó. Đó là sự phủ nhận. Nó không liên quan.

P:Nhưng điều đó rất, rất quan trọng. Đó là những cái trí của chúng ta là gì – mảnh thất thường. Người ta không có khả năng để phủ nhận điều đó.

Krishnamurti: Hãy lắng nghe, có sự ồn ào bên ngoài. Tôi không thể làm bất kỳ điều gì về nó.

P: Khi có một khủng hoảng, có hiệp thông. Trong đang sống bình thường không có hiệp thông. Tôi đi ra ngoài. Tôi có thể nhìn ngắm một cái cây và không có phân hai. Tôi có thể thấy màu sắc mà không có phân hai. Nhưng có mảnh còn lại, mảnh không-ý thức thất thường không ngừng nghỉ mà đang huyên thuyên liên tục. Người suy nghĩ bắt đầu làm việc với nó khi người suy nghĩ thấy nó đang vận hành. Sự phủ nhận tuyệt đối là thả cho nó một mình.

Krishnamurti: Ngừng lại tại yếu tố cơ bản – quan sát đau khổ mà không chuyển động thoát khỏi nó – đó là trạng thái không-phân hai duy nhất.

P: Chúng ta hãy nói về cái trí huyên thuyên thay vì về đau khổ, bởi vì đó là sự kiện tại khoảnh khắc này. Sự ồn ào của cái còi đó, cái trí huyên thuyên, đó là ‘cái gì là’.

Krishnamurti: Bạn thích điều này và không thích điều kia và thế là bắt đầu nguyên cái vòng tròn.

P: Mấu chốt chủ yếu là sự quan sát ‘cái gì là’ mà không chuyển động thoát khỏi. Chuyển động thoát khỏi tạo ra người suy nghĩ.

Krishnamurti: Bởi vì sự ồn ào, sự huyên thuyên mà là ‘cái gì là’, đã không còn, đã phai lạt đi nhưng đau khổ vẫn còn. Đau khổ không biến mất. Vượt khỏi đau khổ một cách không-phân hai; đó là nghi vấn. Làm thế nào nó sẽ được thực hiện? Bất kỳ chuyển động nào thoát khỏi cái gì là, đều là sự phân hai bởi vì trong đó có người suy nghĩ đang vận hành vào ‘cái gì là’, mà là cái phân hai.

Lúc này liệu có thể quan sát ‘cái gì là’, mà là cái phân hai? Quan sát ‘cái gì là’, mà không có chuyển động phân hai đang xảy ra, liệu quan sát đó sẽ thay đổi ‘cái gì là’? Bạn hiểu rõ câu hỏi của tôi?

P: Nó không thực sự là một tan biến của ‘cái gì là’, hay sao? Cái mà đã được tạo ra?

Krishnamurti: Tôi chỉ biết ‘cái gì là’. Không còn gì thêm nữa. Không-nguyên nhân.

P: Đó là như thế. Người ta có thể thấy rằng khi không có chuyển động thoát khỏi đau khổ, có một tan biến của đau khổ.

Krishnamurti: Làm thế nào điều này xảy ra được? Tại sao con người đã không đến được điều này? Tại sao anh ấy đã đấu tranh với đau khổ bằng một chuyển động phân hai? Tại sao anh ấy đã không bao giờ hiểu rõ hay đã khoét sâu vào đau khổ mà không có chuyển động phân hai? Điều gì xảy ra khi không có chuyển động thoát khỏi đau khổ? Không phải điều gì xảy ra đối với sự tan biến của đau khổ, nhưng điều gì xảy ra đối với hệ thống máy móc mà vận hành? Nó rất đơn giản. Đau khổ là sự chuyển động thoát khỏi. Không có đau khổ khi chỉ có đang lắng nghe. Có đau khổ chỉ khi nào tôi chuyển động khỏi sự kiện và nói rằng đây là vui thú, đây không là vui thú. Người con trai của tôi đã chết. Đó là một sự kiện tuyệt đối, không thể chối cãi được. Tại sao có đau khổ?

P: Bởi vì tôi đã thương yêu cậu ấy.

Krishnamurti: Hãy quan sát điều gì đã xảy ra một cách không-ý thức. Tôi đã thương yêu cậu ấy. Cậu ấy đã đi rồi. Đau khổ là sự hồi tưởng về tình yêu của tôi đối với cậu ấy. Cậu ấy không còn nữa. Nhưng sự kiện tuyệt đối rằng cậu ấy đã đi rồi. Hãy ở lại cùng sự kiện đó. Có đau khổ chỉ khi nào tôi nói rằng cậu ấy không còn nữa, mà là khi người suy nghĩ hiện diện và nói, ‘con trai của tôi không còn ở đó nữa, cậu ấy là bầu bạn của tôi’, và mọi chuyện của nó.

S:Không chỉ là ký ức về người con trai đã chết rồi của tôi mới là đau khổ. Lúc này có sự cô độc.

Krishnamurti: Người con trai của tôi chết rồi. Đó là một sự kiện. Sau đó có suy nghĩ về sự cô độc. Sau đó có sự đồng hóa của tôi cùng cậu ấy. Tất cả điều đó là một qui trình của sự suy nghĩ và người suy nghĩ. Nhưng tôi chỉ có một sự kiện. Con trai của tôi chết rồi, tình trạng cô độc, không bầu bạn, tuyệt vọng, tất cả đều là kết quả của sự suy nghĩ, mà tạo ra sự phân hai; một chuyển động thoát khỏi ‘cái gì là’. Nó không cần sức mạnh hay sự khẳng định để không chuyển động. Sự khẳng định là phân hai.

Chỉ có một việc duy nhất, mà là sự kiện và chuyển động thoát khỏi sự kiện của sự kiện, khỏi ‘cái gì là’. Chính chuyển động này nuôi dưỡng sự cay đắng, lãnh đạm, không-thương yêu, dửng dưng, mà tất cả đều là sản phẩm của sự suy nghĩ. Sự kiện là con trai của tôi đã chết rồi.

Không-nhận biết trọn vẹn về ‘cái gì là’ nuôi dưỡng người suy nghĩ, mà là hành động phân hai; và khi cái trí rơi lại vào cái bẫy của hành động phân hai, đó là ‘cái gì là’; hãy ở lại cùng nó – bởi vì bất kỳ chuyển động nào thoát khỏi nó là một hành động phân hai khác. Cái trí luôn luôn giải quyết ‘cái gì là’ như nhiễu loạn, không-nhiễu loạn. Và ‘cái gì là’, cái sự kiện, không cần thay đổi bởi vì nó là ‘cái vượt khỏi’ rồi. Tức giận là ‘cái gì là’. Chuyển động phân hai của không-tức giận là rời khỏi ‘cái gì là’. Không-chuyển động khỏi ‘cái gì là’, là không còn tức giận nữa. Thế là, cái trí – một lần nó đã nhận biết, một lần nó đã có sự nhận biết không-phân hai – khi tức giận nảy sinh lại, không hành động từ ký ức. Lần tới sự tức giận nảy sinh, đó là ‘cái gì là’. Cái trí luôn luôn đang giải quyết ‘cái gì là’. Vì vậy, ý tưởng phân hai là hoàn toàn sai lầm, ảo tưởng.

P: Đây là hành động lạ thường. Hành động phân hai là không-hành động.

Krishnamurti: Bạn phải đơn giản. Chính là cái trí mà không-lanh lợi, mà không-ranh mãnh, mà không-đang cố gắng tìm những thay thế cho hành động phân hai, mới có thể hiểu rõ. Những cái trí của chúng ta không đơn giản như thế. Mặc dầu hầu hết chúng ta đều nói về đơn giản, đơn giản đó thuộc về một miếng vải che thân.

Thật ra không-phân hai có nghĩa nghệ thuật của lắng nghe. Bạn nghe con chó đang sủa đó – lắng nghe nó, không có một chuyển động thoát khỏi nó. Hãy ở lại cùng ‘cái gì là’. (Ngừng) Con người ở lại cùng ‘cái gì là’ và không bao giờ chuyển động khỏi nó, không có những dấu vết.

P:Và khi những dấu vết xảy ra, thấy rằng chúng xảy ra. Một động thái của sự nhận biết xóa sạch dấu vết.

Krishnamuti: Hoàn toàn đúng. Đó là phương cách sống.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2011(Xem: 30063)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
10/02/2011(Xem: 16234)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
06/02/2011(Xem: 12601)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
25/01/2011(Xem: 10830)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
23/01/2011(Xem: 3009)
Trước đây người Việt đã có mặt trên khắp thế giới – đặc biệt tại Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Nga, Đông Âu v.v… là do các chương trình du học hoặc làm việc trong các tòa đại sứ hoặc đi lính cho Pháp từ thời Thế Chiến I, nhưng con số không nhiều. Chỉ từ sau năm 1975 con số bỗng vọt lên tới trên 3 triệu do các đợt “di tản”, “thuyền nhân” (Boat People), “đoàn tụ gia đình” và “hợp tác lao động”.
18/01/2011(Xem: 4606)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
12/01/2011(Xem: 15890)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
10/01/2011(Xem: 5838)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
05/01/2011(Xem: 2900)
Nền giáo dục của Đức Phật đứng trên lập trường nhân bản, nêu cao tinh thần tự giác của con người, đó là vấn đề chủ yếu giúp con người đánh thức trí tuệ của mình, biết điều hành được cuộc sống tâm lý và vật lý của chính mình để đạt đến giải thoát và giác ngộ, biết hướng con người thích ứng với môi trường sống trong xã hội tiến bộ, biết sáng suốt nhìn và biết sống như thế nào để đem lại hạnh phúc cho chính mình và cộng đồng xã hội…
05/01/2011(Xem: 8427)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567