Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng

15/07/201114:24(Xem: 3665)
Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 5

BƯỚC ĐẦU TIÊN

LÀ BƯỚC CUỐI CÙNG

New Delhi, ngày 19 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Ngày hôm qua, khi chúng ta đang dạo bộ, anh đã nói bước đầu tiên là bước cuối cùng. Muốn hiểu rõ câu nói đó, tôi nghĩ chúng ta nên thâm nhập vấn đề của thời gian và liệu có một sự việc như là trạng thái cuối cùng của sự khai sáng. Sự hoang mang nảy sinh bởi vì những cái trí của chúng ta bị quy định để suy nghĩ về sự khai sáng như một trạng thái cuối cùng. Liệu hiểu rõ hay khai sáng là một trạng thái cuối cùng?

Krishnamurti: Bạn biết, khi chúng ta đã nói bước đầu tiên là bước cuối cùng; liệu chúng ta không đang nghĩ về thời gian như một chuyển động ngang hay một chuyển động dọc? Liệu chúng ta không đang suy nghĩ về chuyển động trên một mặt phẳng? Ngày hôm qua chúng ta đang nói, khi chúng ta đang dạo bộ, liệu chúng ta có thể xóa sạch hoàn toàn chiều cao, chuyển động ngang và chuyển động dọc, và quan sát sự kiện này, rằng dù chúng ta ở bất kỳ nơi đâu, tại bất kỳ mức độ nào của tình trạng bị quy định, của hiện diện, sự nhận biết của sự thật, của sự kiện, tại ngay khoảnh khắc đó là bước cuối cùng.

Tôi là một người thư ký trong một văn phòng nhỏ, cùng những đau khổ dính dáng trong nó; người thư ký lắng nghe và nhận biết. Người đó lắng nghe và tại khoảnh khắc đó thực sự ‘thấy’. Thấy đó và nhận biết đó là bước đầu tiên và bước cuối cùng. Bởi vì, tại khoảnh khắc đó anh ấy đã hiệp thông cùng sự thật và anh ấy thấy cái gì đó rất rõ ràng.

Nhưng điều gì xảy ra sau đó là, anh ấy muốn nuôi dưỡng trạng thái đó. Sự nhận biết, sự giải thoát và chính sự nhận biết sáng tạo sự giải thoát; anh ấy muốn tiếp tục, biến nó thành một qui trình. Và thế là anh ấy bị trói buộc và mất đi toàn bộ chất lượng của sự nhận biết.

Vì vậy điều gì chúng ta đang nói là, bất kỳ qui trình nào đều hàm ý sự kết thúc. Nó là một chuyển động từ chuyển động ngang đến chuyển động dọc; chuyển động dọc dẫn đến một kết thúc. Và thế là, chúng ta nghĩ rằng sự nhận biết, sự giải thoát là một kết thúc; một vị trí mà không có chuyển động. Rốt cuộc, những phương pháp, những luyện tập, những hệ thống hàm ý một qui trình hướng về một kết thúc.

Nếu không có ý tưởng thuộc khái niệm của sự kết thúc, sẽ không có qui trình.

P:Toàn cấu trúc của suy nghĩ được thiết lập trên một chuyển động ngang và vì vậy bất kỳ nguyên lý nào của vĩnh cửu đều phải ở trên mặt phẳng ngang.

Krishnamurti: Chúng ta quen thuộc với việc đọc một quyển sách theo hàng ngang. Mọi thứ đều hàng ngang – tất cả những quyển sách của chúng ta.

P: Mọi thứ đều có một khởi đầu và một kết thúc.

Krishnamurti: Và chúng ta nghĩ chương sách đầu tiên chắc chắn phải dẫn đến chương sách cuối cùng. Chúng ta cảm thấy tất cả những luyện tập đều dẫn đến một kết thúc; đến một giải thoát. Tất cả nó đều là đọc hàng ngang. Những cái trí, những hai mắt và những thái độ của chúng ta đều bị quy định để vận hành trên mặt phẳng ngang và tại khúc cuối, có một kết thúc. Quyển sách đọc xong. Bạn hỏi liệu sự thật hay sự khai sáng là một thành tựu cuối cùng; một điểm kết thúc vượt khỏi mà không có gì cả?

P: Từ đó không thể có rơi lại. Có lẽ vì một nhận biết tích tắc, và chất lượng của cái đó, tôi hiểu rõ. Một chốc lát sau, suy nghĩ nảy ra lại. Tôi tự nhủ với mình ‘Tôi quay lại trạng thái cũ’. Tôi nghi ngờ liệu ‘tiếp xúc’ đó có bất kỳ giá trị nào không. Tôi đặt ra một khoảng cách, một ngăn cản giữa tôi và trạng thái đó – tôi nói, nếu cái đó là đúng thực, suy nghĩ sẽ không nảy ra.

Krishnamurti:Tôi thấy; tôi nhận biết cái gì đó lạ thường; cái gì đó đúng thực. Tôi muốn tiếp tục sự nhận biết đó; cho nó một tiếp tục để cho sự nhận biết – hành động tiếp tục qua sống hàng ngày của tôi. Tôi nghĩ đó là nơi sự sai lầm bắt đầu. Cái trí đã thấy cái gì đó đúng thực. Từng đó đủ rồi. Cái trí đó là một cái trí hồn nhiên, rõ ràng, không bị tổn thương. Cái trí đó muốn tiếp tục nhận biết đó qua những hoạt động hàng ngày. Cái trí đã thấy cái gì đó rất rõ ràng. Hãy thả nó ở lại đó. Bước kế tiếp là bước kết thúc. Thả nó ở lại đó là bước kết thúc kế tiếp. Bởi vì cái trí của tôi sẵn sàng trong sáng rồi để thâu nhận bước kết thúc kế tiếp. Trong chuyển động hàng ngày của sự sống, nó không mang qua. Sự nhận biết đã không trở thành hiểu biết.

P: Cái tôi như người làm liên quan đến suy nghĩ hay thấy phải kết thúc.

Krishnamurti: Chết đi cái sự việc mà là đúng thực. Ngược lại, nó trở thành ký ức, mà tiếp theo trở thành suy nghĩ, và suy nghĩ nói làm thế nào tôi sẽ tiếp tục trạng thái đó. Nếu cái trí thấy rõ ràng, và nó chỉ có thể thấy rõ ràng khi thấy là kết thúc của nó, vậy thì cái trí có thể bắt đầu một chuyển động nơi bước đầu tiên là bước cuối cùng. Trong việc này không có dính dáng qui trình nào cả. Không có yếu tố của thời gian. Thời gian len lỏi vào khi, bởi vì đã thấy nó rõ ràng, đã nhận biết được nó, có một mang qua và vận dụng nó cho biến cố kế tiếp.

P: Mang qua đó là không thấy hay không nhận biết.

Krishnamurti: Vì vậy, tất cả những tiếp cận thuộc truyền thống mà đưa ra một qui trình phải có một vị trí, một kết luận, một kết thúc và bất kỳ cái gì mà có một kết thúc, một vị trí cố định, không là sự việc đang sống gì cả.

Giống như nói rằng có nhiều con đường dẫn đến nhà ga. Nhà ga bị cố định.

Liệu sự thật là một kết thúc mà một lần bạn đã đạt được nó, mọi thứ đều chấm dứt – những lo âu của bạn, những sợ hãi của bạn và vân vân? Hay liệu nó làm việc một cách hoàn toàn khác hẳn? Liệu nó có nghĩa rằng ngay khi tôi ở trên xe lửa, không gì có thể xảy đến cho tôi? Liệu nó có nghĩa rằng tôi chờ đợi chiếc xe lửa sẽ mang tôi đến điểm đến của tôi? Tất cả những việc này là những chuyển động ngang.

Vì vậy một qui trình hàm ý một điểm cố định. Những hệ thống, những phương pháp, những luyện tập, tất cả đều cống hiến một vị trí cố định và hứa hẹn với con người rằng khi anh ấy thành tựu nó, tất cả những phiền muộn đều chấm dứt. Liệu có cái gì đó mà thực sự không thời gian? Một vị trí cố định là trong thời gian. Nó ở trong thời gian bởi vì bạn đã công nhận nó. Bởi vì đã có suy nghĩ liên tục về vị trí kết thúc, và suy nghĩ về nó là thời gian. Liệu người ta có thể bắt gặp cái này mà phải không-thời gian, không-qui trình, không-hệ thống, không-phương pháp, không-phương cách?

Liệu cái trí này mà quá bị quy định theo chiều ngang có thể, liệu cái trí này, khi biết rằng nó sống theo chiều ngang, có thể nhận biết ‘cái đó’ mà cũng không thuộc chiều ngang lẫn không thuộc chiều dọc? Liệu nó có thể nhận biết trong một tích tắc? Liệu nó có thể nhận biết rằng ‘thấy’ đã xóa sạch và kết thúc nó? Trong việc này là bước đầu tiên và bước cuối cùng bởi vì nó đã thấy mới mẻ lại.

Câu hỏi của bạn là, liệu một cái trí như thế có khi nào được tự do khỏi phiền muộn? Tôi nghĩ đó là một câu hỏi sai lầm. Bạn vẫn còn đang suy nghĩ dựa vào sự kết thúc, khi bạn đặt ra câu hỏi đó. Bạn đã đi đến một kết luận rồi, và thế là quay lại vào qui trình ngang.

P: Sự tinh tế của nó là rằng cái trí phải đặt ra những nghi vấn cơ bản nhưng không bao giờ ‘làm thế nào’.

Krishnamurti: Tuyệt đối. Tôi thấy rất rõ ràng; tôi nhận biết. Sự nhận biết là ánh sáng. Tôi muốn mang nó qua như ký ức, như suy nghĩ, và áp dụng nó vào sống hàng ngày và thế là tôi giới thiệu sự phân hai, xung đột, mâu thuẫn.

Vì vậy tôi nói làm thế nào tôi sẽ vượt khỏi nó? Tất cả những hệ thống đều cống hiến một qui trình, một vị trí cố định và sự kết thúc tất cả phiền muộn.

Nhận biết là ánh sáng cho cái trí này. Nó không còn quan tâm đến sự nhận biết nữa bởi vì nếu nó quan tâm, nó trở thành ký ức. Liệu cái trí, khi thấy cái gì đó rất rõ ràng, có thể kết thúc sự nhận biết đó? Vậy là, ở đây chính bước đầu tiên là bước cuối cùng. Cái trí trong sáng để nhìn ngắm. Đối với một cái trí như thế, liệu có thể có kết thúc cho tất cả những phiền muộn? Nó không đặt ra một câu hỏi như thế. Khi nó xảy ra, nó sẽ thấy. Thấy điều gì xảy ra. Khi tôi đặt ra câu hỏi ‘Liệu cái này sẽ kết thúc tất cả phiền muộn?’ Tôi đang suy nghĩ về tương lai rồi và thế là tôi bị trói buộc trong thời gian.

Nhưng tôi không quan tâm. Tôi nhận biết. Nó chấm dứt. Tôi thấy cái gì đó rất rõ ràng – sự rõ ràng của nhận biết. Sự nhận biết là ánh sáng. Nó chấm dứt. Thế là cái trí không bao giờ bị trói buộc trong thời gian. Bởi vì, mỗi lần tôi đã sử dụng bước đầu tiên, tôi cũng đã sử dụng bước cuối cùng.

Vì vậy chúng ta thấy rằng tất cả những qui trình, tất cả những hệ thống, phải hoàn toàn bị khước từ bởi vì chúng làm tiếp tục thời gian. Qua thời gian bạn hy vọng đến được cái không-thời gian.

P: Tôi thấy rằng những dụng cụ được sử dụng trong điều gì anh đang nói là sự kiện của thấy và lắng nghe. Đây là những chuyển động thuộc giác quan. Do bởi qua những chuyển động thuộc giác quan mà tình trạng bị quy định cũng hiện diện. Cái gì mà khiến cho một chuyển động làm tan biến hoàn toàn tình trạng bị quy định và một chuyển động khác lại củng cố nó?

Krishnamurti: Tôi lắng nghe câu hỏi đó như thế nào. Trước hết, tôi không biết. Tôi sắp sửa học hành. Nếu tôi học hành với mục đích thâu lượm hiểu biết, mà từ đó tôi sẽ hành động, hành động đó trở thành máy móc. Nhưng khi tôi học hành mà không tích lũy – mà có nghĩa nhận biết, nghe, mà không thâu lượm – cái trí luôn luôn trống không. Vậy thì câu hỏi là gì?

Liệu cái trí trống không có khi nào bị quy định và tại sao nó phải bị quy định. Một cái trí thực sự đang lắng nghe, liệu nó có thể bị quy định? Nó luôn luôn đang học hành, nó luôn luôn trong chuyển động. Nó không là một chuyển động từ cái gì đó hướng về cái gì đó. Một chuyển động không thể có một khởi đầu và một kết thúc. Nó là cái gì đó sinh động, không bao giờ bị quy định. Một cái trí mà thâu lượm hiểu biết để vận hành bị quy định bởi hiểu biết riêng của nó.

P: Liệu nó là cùng một dụng cụ đang vận hành trong cả hai?

Krishnamurti: Tôi không biết. Tôi thực sự không biết. Cái trí chất đầy hiểu biết thấy tùy theo hiểu biết đó, tùy theo tình trạng bị quy định đó.

P:Thưa anh, thấy giống như bật đèn. Nó không có quy định trong chính nó.

Krishnamurti: Cái trí chất đầy những hình ảnh, những từ ngữ, những biểu tượng. Qua đó, nó suy nghĩ, nó thấy.

P: Nó thấy à?

Krishnamurti: Không. Tôi có một hình ảnh về bạn và tôi thấy qua hình ảnh đó. Đó là sự biến dạng. Hình ảnh là tình trạng bị quy định của tôi. Nó vẫn còn ở trong cùng thùng chứa với tất cả những vật trong nó, và nó là cùng thùng chứa mà không có vật gì trong nó.

Những vật của thùng chứa là thùng chứa. Khi không có những vật, thùng chứa không còn hình thể.

P: Vì vậy nó có thể thâu nhận ‘cái gì là’.

Krishnamurti: Sự nhận biết chỉ có thể xảy ra được khi không có hình ảnh. Điều đó rất đơn giản. Để giải thích lại, bạn thấy, sự nhận biết chỉ có thể xảy ra được khi không có hình ảnh – không-biểu tượng, không-ý tưởng, không-từ ngữ, không-hình thức, mà tất cả đều là hình ảnh. Vậy thì, sự nhận biết là ánh sáng. Không phải rằng tôi thấy ánh sáng. Có ánh sáng. Sự nhận biết là ánh sáng. Vì vậy, sự nhận biết là hành động. Và một cái trí chất đầy những hình ảnh không thể nhận biết. Nó thấy qua hình ảnh và thế là bị biến dạng.

Điều gì chúng ta đã nói là đúng thực. Nó rất chính đáng. Tôi đã lắng nghe điều này. Trong nhân tố của lắng nghe không có ‘cái tôi’. Trong nhân tố của mang nó qua có ‘cái tôi’. ‘Cái tôi’ là thời gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8024)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 15903)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12211)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19418)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4352)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4246)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 4863)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4106)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4108)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11348)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567