Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi

17/12/201016:17(Xem: 11072)
2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT

ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

2
TỰ GIẢI THOÁT KHỎI SỰSỢ HÃI

« Sự sống của ta khicưỡng lại những nguyên nhân đưa đến cái chết giống như một ngọn đèn cưỡng lạimột cơn gió mãnh liệt »
Bảo hành vương chínhluận (Bồ Tát Long Thọ)


Vị Ban thiền Lạt ma thứnhất có viết một bài thơ gồm mười bảy tiết (đoạn) mà nhiều người Tây tạngthường đọc đi đọc lại để tập trung sự suy tư hằng ngày về cái chết. Tựa bài thơlà: Ước vọng được giải thoát khỏi những hiểm nguy của Giai đoạn Chuyển tiếp, Ngườican trường thoát khỏi sự sợ hãi. Muốn thoát khỏi tình thế hiểm nguy, chẳng hạnnhư bị trộm cướp, đạo tặc, hay thú dữ, ta cần có một người hướng dẫn can đảm,thông minh để bảo vệ ta. Cũng thế, muốn được giải thoát khỏi sự sợ hãi do nhữngảo giác hiện ra lúc chết và trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống, tanên noi theo những lời khuyên trong bài thơ này, bài thơ sẽ chỉ cho ta những kỹthuật cần thiết. Khi nghiền ngẫm về bài thơ, ta sẽ học được phương cách pháthiện sự sáng suốt giúp ta vượt qua quá trình chuyển tiếp đó. Chết chính là lúctâm linh hiển hiện ở mức độ cao siêu nhất. Suy tư hằng ngày cũng có thể pháthiện được những trạng thái tâm linh như thế.

Bài thơ gồm một chuỗidài nguyện ước giúp cho mỗi người đem ra sử dụng khi cái chết xảy ra, trong mụcđích giúp tâm thức ứng phó một cách tích cực hơn. Một số người, trong lúc chết,tìm cách phát huy năng khiếu tốt lành sẳn có để tái sinh trong một kiếp sốngthuận lợi hơn. Mục đích của họ là đạt được sự tái sinh tốt đẹp trong kiếp sốngsau này để có thể tiếp tục tu học. Một số khác tìm cách dựa vào các cấp bậcthâm sâu của tâm linh hiển hiện trong khi chết để vượt lên những thể dạng tâmlinh cao thâm hơn nữa. Những người tu hành thì phát lộ lòng thiết tha phục vụkẻ khác.

Bài thơ của vị Ban-thiềnLat-ma thứ nhất đề cập đến ba cấp bậc tu tập khác nhau – những người tu tậpcao, những người đạo hạnh trung bình và những người còn thấp – cả ba cấp bậc tutập ấy đều hướng vào sự ước vọng giữ cho tâm thức vững vàng để vượt qua giaiđoạn chuyển tiếp trong khi chết, tức là khoảng thời gian tiềm ẩn giữa kiếp sốngnày và kiếp sống tương lai. Bài thơ còn chỉ dẫn chi tiết những gì nên làm trongtừng thời điểm một. Đạt được một mức độ tu tập nào đó trong những ngày còn lạitrong kiếp sống này quả là một điều cần thiết, đến khi chết ta có thể vượt quanhững giai đoạn trung gian hiệu quả hơn.

Khi cái chết bất thầnhiện ra, nếu ta không quen tu tập từ trước, thật khó cho ta ứng phó một cáchthuận lợi. Thời điểm hôm nay là lúc ta nên tu tập để chuẩn bị trước, vì lúc nàyđây ta đang hạnh phúc và có nhiều điều kiện thuận lợi. Nếu ta thực hiện được,đến khi cần đến trong lúc hiểm nguy thật sự, ta sẽ không gặp khó khăn gì cả.Nhưng nếu lúc ta còn đủ thì giờ để nghe, để suy tư, để nghiền ngẫm và thắc mắc,ta lại không chịu chuẩn bị cho giây phút hấp hối, đến khi đó mọi sự đã trễ rồi,ta sẽ không có gì che chở cho ta, chẳng có một điểm nương tựa nào, ta chỉ cònhai mắt để khóc. Tốt hơn là sớm tập suy tư thường xuyên về quá trình của cáichết trong giai đoạn trung gian giữa hai kiếp sống – để hình dung mọi biến cốsẽ xảy ra, giúp ta quen dần với chúng. Quả thật là hệ trọng, lúc này đây ta vẫncòn ngày giờ để tận dụng những khả năng tốt nhất của ta với mục đích sau này sẽgiúp ta vượt qua giai đoạn trung gian một cách hiệu quả.

Biết được quá trình củacái chết và các phương pháp tập luyện chưa đủ: phải thực tập hàng tháng hayhàng năm liền cho thật quen. Ngày hôm nay khi giác quan còn lanh lẹ, tri thứccòn tinh tấn, nhưng nếu tâm thức chưa quen với con đường đạo hạnh, khi chết tasẽ gặp nhiều bỡ ngỡ vì phải phiêu lưu trên những nẽo đường hoàn toàn xa lạ. Khichết, sức lực sẽ suy giảm vì bệnh tật, tinh thần sa sút vì lo âu. Bởi thế phảitập luyện để chuẩn bị cách đối phó trong khi chết. Không có gì thay thế được vàcũng chẳng có phương thuốc nào khác hơn.

Khả năng cần thiết đểhiểu được những điều ấy là tùy nơi quyết tâm của ta, quyết tâm tin rằng nhữngcảm nhận về hạnh phúc hay đớn đau đều trực tiếp lệ thuộc vào những hành vi đạohạnh hay tệ hại của chính ta. Trước hết, cần phải hiểu rõ quá trình của luậtnhân quả, hay nghiệp (karma), tức những hành động tốt phát xuất từ một tâm thứchiền hòa, những hành động xấu phát xuất từ một tâm thức hổn loạn. Tuy rằngthiện, ác, đều do thân, khẩu và ý tạo ra nhưng chính tâm thức dẫn đầu. Cộinguồn của sự tu học Phật giáo là hướng vào việc cải thiện tâm thức. Giáo huấnnhà Phật đòi hỏi ở ta một tâm thức kỷ cương giúp ta nhận biết chính ta lànguyên nhân đem đến an vui hay khổ đau cho chính ta. Phật đã từng nói như sau:

Chư Phật không tẩy sạchđược những hành động xấu bằng nước,
Cũng không xóa hết đượcnhững khổ đau do chính tay mình đã tự hoán chuyển cho mình,
Cũng không chuyển nhữngkhổ đau đó sang cho kẻ khác được.
Chúng sinh chỉ có thể tựgiải thoát bằng những lời giáo huấn liên quan đến thực thể và bản chất của vạnvật.
Chính ta là người tự chechở cho bản thân ta. An vui hay đau buồn nằm trong tay của chính ta.

NHÌN TỔNG QUÁT VỀ BÀITHƠ

Bài thơ của Ban-thiềnLạt-ma gồm mười bảy tiết, trình bày các kỹ thuật đặc biệt của Phật giáo giúp tavượt khỏi sự sợ hãi phát sinh từ cái chết và lợi dụng những chuyển biến của cáichết để thăng tiến trên mặt tâm linh. Tôi hy vọng việc mô tả các kinh nghiệm vàcác giai đoạn biến thể trên mặt vật chất sẽ giúp cho những ai cảm thấy cần hiểubiết về cái chết và các cấp bậc thâm sâu nhất của tâm linh có thể suy nghiệmmột cách hữu ích. Đó cũng là một nguồn dữ kiện giúp khoa học quan tâm hơn đếnsự hợp tác chung giữa các khoa học gia và những người luyện tập du-già trongmục đích tìm hiểu về những hiện tượng liên quan đến cái chết. Trong khi phầnđông các học giả cho rằng tâm thức phát khởi từ thân xác, thì một vài chuyêngia lại hình dung tâm thức là một thực thể riêng biệt có thể ảnh hưởng đến thânxác. Nếu những xúc động mạnh, chẳng hạn như hận thù, có thể gây ra ảnh hưởngtrên thân xác, thì cũng có những phương cách luyện tập chuyên biệt giúp rènluyện tâm thức, chẳng hạn như niềm tin, lòng từ bi, thiền định sâu xa về mộtđối tượng, suy tư về Tánh không của vạn vật, hoặc do các phương pháp thiền địnhđặc biệt của Ninh-mã phái[3] thuộc Phật giáo Tây tạng. Các kinh nghiệm đóchứng minh cho thấy sự luyện tập tinh thần đưa đến một chức năng độc lập có thểảnh hưởng đến thân xác, đi đến chỗ có thể làm cho thân xác hoàn toàn tự chủ.Tôi nghĩ rằng tham khảo các y tá trong các nhà dưỡng lão chẳng hạn về nhữngtriệu chứng khi sắp chết có lẽ rất hữu ích.

Bảy tiết đầu trong bàithơ của Ban-thiền Lạt-ma giúp ta phải chuẩn bị cái chết như thế nào. Tiết mộtnói về quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng (tức chương này), hai tiết tiếptheo (chương 3) đề cập đến việc rèn luyện tâm linh để ý thức được giá trị củasự sống. Hai chương này chỉ dẫn các phương pháp tốt nhất để suy tư về vô thườngtrong hiện tại, tính cách phù du của nó, mục đích giúp ta bớt bám víu quá đáng vàonhững những cảm nhận tạm bợ. Hai tiết bốn và năm (chương 4) khuyên ta phải tựđặt mình trong một phối cảnh như thế nào để có thể chủ động những khổ đau tộtcùng, chẳng hạn như những ảo giác vào giờ phút lâm chung. Hai tiết sáu và bảy(chương 5) chỉ cho ta biết cách kiểm soát cái chết dựa vào những điều đã tu tậptừ trước, đồng thời vẫn bảo toàn được sự trầm tĩnh. Ba tiết tiếp theo (chương6) mô tả chi tiết những biểu hiện trong bốn giai đoạn đầu tiên khi cái chết xảyra, cũng như các phương pháp chú tâm phải thực thi trong bốn giai đoạn ấy. Đoạnnày đòi hỏi ta phải hiểu rõ cách tan rã của các thành phần vật chất cấu tạo rathân xác, tức cơ sở nương tựa của tri thức và các cảm nhận liên đới với trithức. Các cảm nhận này sẽ mở đường đưa đến ba cấp bậc tâm thức tinh tế và thâmsâu hơn. Các biểu hiện của những cấp bậc tâm thức tinh tế sẽ được mô tả trongtiết tiếp theo (chương 7). Chương này cũng nói đến cấu trúc giữa tâm thức vàthân xác dựa theo « Tối thượng Du-già Tan-tra » [4]. Các tiết mười hai và mười ba(chương 8) mô tả phương cách ánh sáng tâm thức trong suốt phát hiện từ nhữngcảm nhận nội tâm chính yếu và cao độ nhất. Cấp bậc thâm sâu tột cùng đó của tâmthức làm nền tảng cho toàn thể phần tri thức của sự sống.

Bốn tiết sau cùng(chương 9 và 10) vừa mô tả trạng thái trung gian (sau khi đã chết hẳn và trướckhi tái sinh trong kiếp sau) vừa chỉ dẫn ta cách phản ứng trước những biến cốthường rất kinh hãi có thể xảy ra trong giai đoạn này. Dù ta còn đang ở trìnhđộ tu tập tinh thần nào đi nữa, các tiết này cũng sẽ chỉ rõ cho ta cách thứchướng dẫn sự tái sinh của ta.

Toàn thể mười bảy tiếtgiúp người tu tập chuẩn bị trước, đến khi chết sẽ tránh khỏi các tình huống bấtlợi, và giúp họ biết xử lý giai đoạn trung gian một cách hiệu quả, vì điều nàysẽ ảnh hưởng đến sự tái sinh trong kiếp sau.

MỞ ĐẦU BÀI THƠ: QUYPHỤC VĂN-THÙ SƯ-LỴ[5]

Trước khi khởi đầu bàithơ, vị Ban-thiền Lạt-ma bày rỏ sự sùng kính của mình, quy phục Bồ tát Văn-thùSư-lỵ, hiện thân cho Trí tuệ của tất cả chư Phật. Tác giả xem Văn-thù Sư-lỵ làthầy mình. Sự quy phục đối với Văn-thù Sư-lỵ của Ngài là do các lý lẽ sau.

Căn nguyên của một cáichết tốt lành, một giai đoạn chuyển tiếp thành công, kể cả Phật tính của nhiềukiếp sống, đều liên hệ đến kết quả tu tập viên mãn về ánh sáng tinh khiết phátsinh từ cái chết. Có hai phương pháp khác nhau: từ bi và trí tuệ. Thực hiện tutập về ánh sáng trong suốt trong khi chết là do trí tuệ phát huy. Trí tuệ đượctuần tự trình bày qua các cấp bậc tu tập về thể dạng thâm sâu phát xuất từ sựđối chiếu giữa những biểu hiện bên ngoài và Tánh không của sự hiện hữu nội tại– những lời giảng huấn này do vị thầy tốt của chúng ta là Phật Thích-Ca Mâu-nitruyền lại qua ngài Văn-thù Sư-lỵ. (Các trình độ giáo huấn khác nhau về lòngquyết tâm và những hành vi thiết thực khác là do Đức Di-lặc và Quán-Thế-ÂmBồ-Tát truyền đạt). Một cái chết thanh thản và những thể dạng chuyển tiếp giữahai kiếp sống đều nhất thiết liên hệ đến trí tuệ, vì thế ngài Ban-thiền Lạt-mađã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Văn-thù Sư-lỵ:

QUY PHỤC VỊ THẦYVĂN-THÙ SƯ-LỴ

Sau khi bày tỏlòng quy phục của mình đối với bậc trí tuệ, Ban-thiền Lạt-ma bắt đầu đọc thơ:

Tiết 1

Bản thân tôi và toàn thểkhông phân biệt bất cứ sinh linh nào trong không gian, xin qui y chư Phật củaquá khứ, của hiện tại, của tương lai, xin qui y Pháp, xin qui y Tăng,
Cho đến khi nào đượchoàn toàn giác ngộ.
Cho chúng tôi được giảithoát khỏi sự sợ hãi trong kiếp sống hiện tại, trong giai đoạn chuyển tiếp, vàcho cả về sau.

Người Phật tử noi theogiáo lý của Phật bằng sự cố gắng của chính mình và nượng tựa nơi Phật như mộtvị Thầy. Họ dựa vào giáo lý của Phật (những lời giáo huấn tùy theo các cấp bậcthực hiện) và đặt niềm tin nơi tập thể những người hướng dẫn tinh thần . Nhậptâm vào những lời giáo huấn ấy sẽ giúp ta tránh khỏi khổ đau. Người Phật tử xemTam Bảo (Phật, Giáo lý của Phật, Tăng đoàn) là nơi nương tựa tột cùng.

Nương tựa trong mục đíchlàm nhẹ bớt khổ đau và tránh khỏi luân hồi cho riêng ta sẽ không hội đủ sứcmạnh để đặt được sự an trú tối thượng. Cách nhìn ấy còn quá hạn hẹp. Muốn đạtđược Phật tính phải hướng vào sự an lành của tất cả các sinh linh có giác cảm,giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Mục tiêu tiên khởi nhất về sựhiểu biết toàn năng của Phật tính là giúp đỡ kẻ khác.

Thật cần thiết phải nghĩđến tất cả mọi sinh linh trong không gian và phải hướng đến việc tu tập trongmục đích đạt được Giác ngộ tột cùng và tối thượng, thực hiện những nguyện vọngnhư thế sẽ giúp ta vượt xa hơn những người tu tập nhắm vào các mục đích hạn hẹp.Cách tu tập trên đây đòi hỏi phải loại trừ mọi chướng ngại, không những để giúpta thoát khỏi vòng luân hồi, mà còn đưa ta đến sự hiểu biết toàn năng. Sự tỉnhgiác cuối cùng, còn gọi là niết bàn tối thượng, vượt xa hơn hai cực đoan là chukỳ sinh, bệnh, tử (samsara), và thể dạng an lạc bất động, các thể dạng hạn hẹpấy chỉ để giúp ta tự giải thoát ra khỏi chu kỳ của khổ đau, nhưng thiếu hẳn khảnăng giúp đỡ kẻ khác.

Ngài Ban-thiền Lạt-mathứ Nhất khuyên ta nên nương tựa vào Phật, vào giáo lý của Phật và Tăng đoàn đểđạt đến Giác ngộ tột đỉnh trong mục đích đem đến sự an lạc cho tất cả chúngsinh. Điều này gọi là sự nương tựa vào nguyên nhân: ta quy y nơi Tam Bảo đanghiện hữu trong chính tâm linh của kẻ khác – quyết tâm làm chấm dứt mọi khổ đauvà phát huy những thể dạng tinh thần chế ngự những khổ đau đó. Khẩn cầu nhữngngười đã đạt được Tam Bảo là khơi động lòng từ bi của họ, lòng từ bi đó takhông đặt trở lại trong lòng họ mà chính để mở rộng lòng ta.

Hướng vào sự nương tựanguyên nhân chính là noi theo cách tu tập Đạo Pháp do chính vị Thầy là Đức Phậtthuyết giảng. Ngài xem Tăng đoàn là khuôn mẫu cao nhất trong sự thực hiện. Nếuta chọn con đường tu tập, sau khi đã vượt qua nhiều cấp bậc trên đường giảithoát khổ đau, đạt được một trình độ cao, có nghĩa là ta trở nên một thành viêncủa Tăng đoàn. Sau đó, trên đường giải thoát khỏi luân hồi mọi chướng ngại sẽbị loại bỏ dần dần, và rồi ta sẽ trở thành một vị Phật. Khi đã tự giải thoátkhỏi mọi sợ hãi, ta sẽ đạt được sự hiểu biết toàn năng giúp ta hiểu được bảnchất những người xung quanh và từ đó sẽ tìm được những phương cách thích nghiđể giúp họ. Để giúp thực hiện điều ấy, tiết đầu tiên của bài thơ khuyên ta hãynên cầu khẩn lòng từ bi của Tam Bảo.

Quy y là điểm khởi đầucho mọi việc tu tập, vì thế bài giảng của Ban-Thiền Lạt-ma đã nhắc đến điều nàynhư một ước nguyện tiên khởi. Không quy y khó thành công trong sự tu tập. Tháiđộ hoàn toàn tin tưởng nơi Tam Bảo cũng chưa đủ. Phật từng nói: « Ta thuyếtgiảng con đường Giải Thoát cho các con, nhưng phải hiểu rằng sự giải thoát làdo chính nơi các con ». Phật chỉ là người Thầy thuyết giảng, Phật không đemtặng cho ta sự giải thoát: chính mỗi người trong chúng ta phải tự trau dồi phẩmhạnh, thiền định và sáng suốt.

Chẳng hạn như câu thầnchú Om Mani Padme Hum[6] , mà người ta thường đọc lên để đánh thức lòng từ bicủa chính họ hướng vào tất cả muôn loài sinh vật. Sau khi dứt một loạt niệm chú– hai mươi mốt, một trăm lẽ tám lần, hay nhiều hơn nữa –, hiệu quả của nó sẽhiển lộ minh bạch hơn trong bài tụng niệm tiếp theo đây, hướng đến Quán-Thế-ÂmBồ-Tát, tượng trưng cụ thể cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Bài tụng niệmnhư sau:

Nhờ vào đức hạnh tu tập
Tôi ước mong đạt đếntrạng thái
Ngang với trạng thái củaQuán Thế Âm Bồ Tát
Để giúp đỡ tất cả muônloài sinh linh đều được ngang hàng như vậy.

Không thể nào đạt đượcPhật tính bằng cách chỉ niệm câu Om Mani Padme Hum, nhưng nếu sự tụng niệm điđôi với lòng thương người thật sự, ta có thể đạt được Phật tính. Cũng giống nhưthế, khi ta thụ giáo, gặp gỡ, hoặc đi nghe một vị thầy giỏi thuyết giảng, sẽảnh hưởng đến ta một cách tích cực và giúp ta đạt được những kinh nghiệm tâmlinh sâu xa hơn. Lúc khai mạc những buổi hội chính thức, người thầy giám hộ lớntuổi nhất của tôi là Ling Rinpoché và tôi đều cuối đầu trước mặt nhau đưa tráncủa chúng tôi chạm vào nhau, hoặc trong những dịp gặp gỡ khác, tôi cầm lấy tayông đặt lên trán tôi, cử chỉ này truyền sang cho tôi một sức mạnh thật sâu kínlàm gia tăng niềm tin tưởng và sự tự tin của tôi. Vào thời Đức Phật, người nàokính trọng và yêu mến thật sự thì ôm lấy chân của Phật, điều đó mang đến điềulành cho họ. Nhưng nếu kẻ nào không có một chút tin tưởng hay kính trọng nàothì dù có ôm lấy chân Phật và đặt trán mình lên chân Phật cũng chẳng có mộthiệu quả nào. Nếu người thầy cho nhiều thì người đồ đệ còn phải cho nhiều hơnnữa.

Có một vị Lạt-ma rấttuyệt diệu trong tỉnh Amdo, khi có người nào xin ông đặt tay lên đầu để truyềncho mình điều lành, thì ông vẫn thường nói với họ: « Tôi không phải là một vịLạt-ma có thể ban bố sự giải thoát bằng cách đặt bàn tay lên đầu của bất cứ ai,vì bản chất của bàn tay đã là đau khổ rồi ».

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜIKHUYÊN

1- Điểm khởi đầucủa việc tu tập là sự an lành của tất cả mọi sinh linh – tức là sự giải thoátkhổ đau cho tất cả muôn loài để đạt đến sự toàn thiện. Hãy trau dồi chủ đích đótrong trong mục tiêu giúp đỡ kẻ khác nhiều chừng nào hay chừng ấy.

2- Chư Phật thuyết giảngcon đường tu học, nhưng không đem tặng ta một kết quả sẵn có nào cả. Mỗi ngày,chính ta phải tự tu tập về đức hạnh, thiền định và nâng cao sự sáng suốt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8143)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16485)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12468)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19917)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4432)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4310)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5028)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4260)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4240)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11589)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567