Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy niệm từ bức thông điệp của thời đại mới

05/05/201103:29(Xem: 3321)
Suy niệm từ bức thông điệp của thời đại mới
lotus_7
SUY NIỆM TỪ BỨC THÔNG ĐIỆP CỦA THỜI ĐẠI MỚI

Hoàng Thượng

"Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; ngươi là hải đảo, là nơi nương tựa của chính ngươi"

Tôi xin vào đề từ câu kinh: "Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; ngươi là hải đảo, là nơi nương tựa của chính ngươi!" để làm tiền đề suy niệm trong mùa Phật Đản năm nay, mùa Phật Đản lần thứ 2543, kể từ sau ngày Phật diệt độ.

Chúng ta biết rằng, trong một bối cảnh lịch sử, khi mà phần lớn các tôn giáo đều chủ trương con người và mọi hiện hữu trên thế gian này hoặc là tạo vật của Thượng Đế, của đấng toàn năng vô hạn, của một bản thể Đại ngã", hoặc là phải chịu sự chi phối của một thế lực siêu nhiên vô hình nào đó, thì Phật giáo ngược lại, chủ trương con người là chủ nhân của tất cả. Mỗi con người là một thế giới, một vũ trụ, một hành tinh của các phạm trù đối lập: khổ đau và hạnh phúc, thiện và bất thiện, và quan trọng hơn hết, mỗi người là hải đảo của chính mình, là nơi nương tựa của chính mình. Lời tuyên bố của bức thông điệp ấy quả thật là phi thường. Vì đối diện trước nó, con người chỉ có thể hoặc là sống buông trôi theo dòng sinh tử bất tận, sống như kiểu: "Phận bèo đâu quản bước xa, lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh" (Nguyễn Du); hoặc là - chủ động tái thiết cuộc đời bể dâu này thành một hành tinh của hạnh phúc thực thụ - Niết bàn trần thế hay "Tịnh độ nhân gian".

Thế nhưng trước hết, theo quan niệm thông thường, chúng ta biết rằng, đặc tính của con người là bất toàn. Do bất toàn mà con người luôn hướng về một đấng toàn thiện, hòng mong được cứu rỗi, được độ trì chở che. Và lúc bấy giờ, với một tâm thức như thế, hẳn nhiên, chỉ có kẻ trên cao mới có thể cứu người dưới thấp. Cũng như một người, khi đứng dưới đất thì không thể tự mình nắm tóc mình và nhấc mình lên khỏi mặt đất. Nếu muốn được như thế, phải có một người khác ở trên cao làm nhiệm vụ cứu độ Ầ Phải chăng xuất phát từ ý niệm đó mà con người luôn luôn đi tìm kiếm một đối tượng siêu nhân? Và cũng từ đó, thay vì từ cứu độ theo trực nghĩa, được hiểu như là sự giúp đỡ lại biến thành học thuyết cứu độ, như cứu độ cho những linh hồn (SoulỖs salvation) và cưu mang trong nó một thế giới của huyền học thần bí? Từ đó, khi con người càng trầm kha trong dục vọng khổ đau thì tâm thức của họ càng bị cuốn hút vào thế giới của các thế lực vô hình, ở đó khát vọng được cứu độ xuất hiện như là một trú xứ bình yên duy nhất mà con người khả dĩ nương tựa. Bởi lẽ, như đã nói, đặc tính của con người là tội lỗi và khổ đau, bản chất của nó không gì khác hơn là sự bất lực, sự không vượt qua nổi con người của chính mình - con người của khát vọng. Do đó, càng khát vọng thì càng khổ đau. Tất nhiên, khát vọng được đề cập ở đây là khát vọng được phát sinh từ tự ngã - cái tôi, cái của tôi, cái tự ngã của tôi. Và, phần lớn nhân loại đều/ hoặc ra đi, hoặc trở về với cái tự ngã đó. Đây là lý do tại sao Đức Phật kêu gọi sinh linh của Ngài "hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp".

Hẳn bạn đọc cũng hiểu rõ khái niệm trở về - tiếng gọi đầu tiên trong bức thông điệp của thời đại mới. Đó là sự quay đầu trở lại, trước hết là với con người của chính mình và tâm thức của chính mình; và sau đó là trở lại với con đường Chánh pháp (nương tựa pháp).

Ở đây, con người xuất hiện như một thế giới phổ quát với đầy đủ các hiện tượng sai biệt đa thù, các đức lý thiện ác phân minh, và cho đến cả những phẩm tính siêu việt (như những con người đã chứng ngộ). Và Pháp xuất hiện như những chân lý, vừa mang tính hiện thực khách quan - chân lý công ước, lâm thời; lại vừa mang tính tuyệt đối - chân lý bất khả thuyết.

Từ đây chúng ta thấy rõ rằng, Đạo theo Phật giáo là con đường qui ngưỡng về một nếp sống, mà ở đó vai trò của Thượng đế không có mặt. Mọi trách nhiệm về khổ đau và hạnh phúc của đời người đều do con người phán quyết; và điều đáng chú ý nhất ở đây là định luật nhân quả, một định luật mà đối với con người thì quả thực là vô cùng khắt khe. Nhân quả ở đây chính là định mệnh hiện tiền của mỗi con người. Vì đó là nơi tích tụ của tất cả thiện nghiệp cũng như ác nghiệp của con người chính nó từ vô lượng kiếp quá khứ. Và tương lai của định mệnh đó như thế nào cũng tùy thuộc vào sự tạo tác của chính con người - định mệnh hiện tiền này. Như thế, sự trở về ở đây, trước hết là sự trở về với mọi trách nhiệm luân lý đạo đức, mọi trách nhiệm trong cuộc sống tư duy và hành động, trong thể cách ứng xử giữa tự thân và tha nhân, giữa cá nhân và xã hội của mỗi con người. Thế giới này là bao la, đời sống tâm thức này là vô tận; do đó, sẽ không có bất kỳ một động lực tự nhiên hay siêu nhiên nào có thể ngự trị trong dòng sinh tử luân lưu, ngoại trừ định luật nhân quả. Nhân quả như một thứ trái khoán, mà một ngày nào đó nó phải được trả về cho trái chủ.

Trên một bình diện cao hơn, Đức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộ là năng lực tiềm ẩn, vốn có trong tâm thức của mọi chúng sinh. Do đó, trở về nương tựa mình chính là trở về với khả năng giác ngộ mà bao lâu nay con người đã lãng quên. Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và chân lý, con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm. Nghĩa là, khổ đau hay hạnh phúc là tùy thuộc ở cái nhìn của mỗi con người khác nhau. Nhưng quan trọng hơn hết, cội nguồn của hạnh phúc phải được khai phóng từ nguồn lực cá thể, tức là từ trong chiều sâu tâm thức của mỗi người, đó là một bản thể tâm thức bình yên nội tại, nó vận hành như một nguồn sinh lực uyên nguyên, như thác đổ, như suối nguồn, như đại dương mênh mông bao la không giới tuyến. Và cội nguồn hạnh phúc đó, người ta không thể cho nhau, và không thể vay mượn của nhau. Ở đây cần ghi nhận rằng, dù là hiện thực hay tiềm năng, thì cội nguồn hạnh phúc vẫn là yếu tố thường trực vốn có trong mỗi con người. Thực tế cho thấy rằng, đời sống của con người do không làm chủ được dòng vận hành của tâm thức, thân thể, môi trường v.v.. nên thường xuyên đối diện với hai ảnh tượng bất an, đó là hy vọng và sợ hãi. Cho đến khi nào con người còn tìm kiếm hay nương tựa vào một nơi trú ẩn nào khác ngoài con người của chính mình, thì khi đó đối tượng của sự bất an vẫn luôn luôn hiện hữu trong dòng sông tâm thức. Càng không làm chủ thì càng dao động. Càng bị dao động thì càng thao thức trong/ hoặc hy vọng hoặc sợ hãi. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là yếu tố chánh pháp. Vì như đã đề cập, mặc dù con người cũng như tất cả chúng sinh đều có khả năng thức tỉnh - giác ngộ. Song, do tính chất lầm lỗi (vô minh) và bất toàn nên cần phải được soi sáng bởi chánh pháp trong mọi thế cách của tư duy và hành động. Bấy giờ, Pháp đóng vai trò là con đường dẫn vào Đạo. Và Pháp ở đây được cụ thể hoá như là cuộc sống Giới - Định - Tuệ. hay nói khác hơn là chân lý như thật (Dharma) đối với con người, một thứ chân lý mà con người dù muốn hay không nó vẫn là như thế. Đó chính là dòng nhân quả hai chiều của thế gian (con người còn vô minh) và bậc xuất thế (con người giác ngộ) như được cụ thể hóa trong pháp thoại về Bốn chân lý.

Nói tóm lại, trên căn bản của đời sống, con người cần phải làm chủ được, hay ít ra là điều hành được cuộc sống tâm lý và vật lý của chính mình. Và xa hơn, trên con đường đi đến giác ngộ, mỗi người phải tự thắp đuốc lên mà đi, như lời Đức Phật dạy; "Ngươi phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ chỉ dạy con đường" (1) hoặc là: "Ngươi là nơi nương tựa của chính ngươi, không ai khác có thể là nơi nương tựa" (2). Đây chính là bức thông điệp của thời đại mới, một bức thông điệp không tiền khoáng hậu trong lịch sử tôn giáo và triết học Đông phương mà cách đây trên 26 thế kỷ, Đức Phật đã truyền trao cho loài người.

* Chú thích:
(1) - Dhp.XX4 ; (2) - Dhp.XII 4


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2021(Xem: 14823)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11212)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16351)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12378)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7676)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19782)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11526)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9005)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10199)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11709)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567