Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Pháp Vấn Đáp: Ngài "Hộ Pháp Vi Đà" là ai và "vì sao chỉ có "Tam Châu cảm ứng" ?

22/11/201909:13(Xem: 22823)
Phật Pháp Vấn Đáp: Ngài "Hộ Pháp Vi Đà" là ai và "vì sao chỉ có "Tam Châu cảm ứng" ?




Ho Phap Vi Da


Nam Mô A Di Đà Phật.

Kính bạch Thầy,  xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu :

   “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “:

       1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ?

        2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏

 
Kính,

Thiện Tịnh




_________________


Ho Phap va Tieu Dien Bo Tat

Bồ Tát Tiêu Diện & Bồ Tát Hộ Pháp


Nam Mô A Di Đà Phật,

Cảm ơn bác Thiện Tịnh đã nêu câu hỏi về Bồ Tát Hộ Pháp và “tam châu” mà Ngài có thể lui tới để giáo hóa độ sanh. Thắc mắc này có liên quan đến vũ trụ quan của Phật Giáo, ít ai quan tâm đến,  có thể nhờ câu niệm “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “ mà Bác thắc mắc chăng ?

Bác lưu ý câu niệm này là “  Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên”, chứ không phải “Di Đà”. Ngài Vi Đà Tôn Thiên, vốn là thiên thần từ cõi trời Đao Lợi phát tâm xuống trần gian để bảo vệ Phật pháp. Ngài Vi Đà có thần thông chạy nhanh như bay. Tương truyền sau khi Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, chư Thiên thiện thần đều xum vầy tham dự và chiêm bái lễ hỏa táng kim thân Phật và giúp bảo vệ Xá lợi của Ngài. Lúc này Trời Đế Thích cầm bình thất bảo đến chỗ trà tỳ để thỉnh Xá lợi, vì trước kia Ngài đã được Đức Thế Tôn chấp thuận cho một chiếc răng xá lợi đem về thờ tại Đao Lợi Thiên. Nhưng khi ấy có quỷ La Sát bay đến và thừa lúc Ngài không chú ý bèn trộm chiếc răng Phật. Vi Đà Tôn Thiên trông thấyliền đuổi theo, nhanh như tia chớp, trong một sát na đã bắt được quỷ La Sát và lấy lại bảo vật và trao lại cho Trời Đế Thích Thiên (chủ cõi trời Đao Lợi), và được chư Thiên ngợi khen và tán dương công đức. Từ đó về sau, Vua Trời Đế Thích sai bảo Vi Đà Tôn Thiên ở lại thế gian để hộ trì Phật Pháp.  Ngài có công năng xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ  Chùa Tháp của Phật Giáo ở cõi Nam Diêm Phù Đề. Kể từ đó hình tượng Vi Đà Tôn Thiên được tôn thờ song hành với Tiêu Diện Bồ Tát trước cửa Chùa, mang ý nghĩa bảo vệ an toàn cho ngôi Già Lam hoặc được in hình Vi Đà Tôn Thiên ở sau mỗi quyển Kinh tụng để bảo vệ, nên khi tụng Kinh xong, phải xếp kinh lại, không được mở kinh, vì mở Kinh quý Ngài Hộ Pháp phải canh giữ, mình sẽ tổn phước. Còn Bồ Tát Tiêu Diện là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm để cảm hóa những kẻ hung ác quay về với con đường thiện lành, nên Ngài được gọi là “Ông Ác” (người ác thì phải có Ông Ác điều phục mới được), còn Bồ Tát Hộ Pháp được gọi là “Ông Thiện” theo dân gian Việt Nam. Xin xem thêm bài viết của thầy về “Ông Ác” ở link này: https://quangduc.com/a7325/cung-chao

 

 

Về thắc mắc thứ 2 của bác Thiện Tịnh vì sao gọi là “Tam Châu cảm ứng” mà sao không là “ Tứ Châu  cảm ứng” ???

Thưa bác và quý Phật tử, theo vũ trụ quan của Phật Giáo và Ấn Độ Giáo,  thế giới Ta Bà này, bao gồm luôn trái đất của chúng ta đang sống, có 4 châu:  1/ Đông Thắng-Thần Châu, 2/Tây Ngưu-Hóa Châu, 3/ Nam Thiệm-Bộ Châu và 4/Bắc Câu Lô Châu. Bốn châu này nằm chung quanh bốn hướng, đông, tây, nam, bắc của Núi Tu Di (Sumeru), mỗi châu có y báo và chánh báo riêng biệt. Chánh báo là con người, y báo môi trường sống xung quanh của người đó.

 

Thứ nhất: Đông Thắng Thần Châu (Purva-Videha), ở phía  Đông của Núi Tu Di, lãnh thổ tròn trịa, ngang rộng chín ngàn do-tuần. Mặt người cũng tròn.  Châu này có chu vi là 21.000 do tuần, dân trong cõi nầy có thân hình rất đẹp và sống thọ đến 700 tuổi.

 

Thứ hai: Tây Ngưu-Hóa Châu (Godana), châu này nằm ở phía tây Núi Tu Di. Chúng sanh ở đây thích buôn bán,  dùng trâu bò làm đơn vị tiền tệ để trao đổi hàng hóa.  Dân chúng  đông đúc giàu có và sung sướng cùng cực. Lục địa có hình tròn và dân trên đó cũng có gương mặt hình tròn. Châu nầy có chu vi 27.000 do tuần, dân chúng sống thọ 500 tuổi.

 

Thứ ba: Nam Thiện Bộ Châu hay còn gọi là Nam Diêm Phù đề (Jambudvipa), tọa lạc ở phía Nam Núi Tu Di. Sở dĩ có tên Diêm phù đề bởi vì, Diêm Phù (Jambud) Cây dâm bụt, một loại cây mọc rất nhiều ở xứ Thiên Trúc (Ấn Độ xưa). Cõi Diêm Phù Đề tức Nam Thiện Bộ Châu, là cõi chúng ta đang sống, là châu khổ cực hơn ba châu kia, dân chúng phải làm việc rất cực nhọc mới có ăn, nên giáo lý nhà Phật khuyên cần phải ráng tu hành để sớm thoát cõi nầy. Loài người trong Nam Thiện Bộ Châu có những đức tính ưu việt mà 3 châu khác không thể so sánh được: đó là có thể cải tà quy chánh, cải ác tùng thiện, để tu tập tiến đến giải thoát và giác ngộ.

Thứ tư: Bắc Câu-lô châu (Uttara-kura) nằm ở phía Bắc Núi Tu Di nên gọi là Bắc Câu Lô Châu, nghĩa là thắng xứ, vì đất đai màu mở, cây cối xanh tươi, lúa mọc tự nhiên, không cần cấy cày. Ngoài lúa thì còn nhiều loại cây quý báu khác, khoe đủ màu sắc ở trong vườn nhà, đường phố. Đất nước và con người ở cõi này đều có hình vuông. Cõi này rất sung sướng,  mọi người chỉ lo hưởng thọ dục lạc, nên không hề biết tu hành. Cõi này không có ngã sở, không bám víu, nên có tuổi thọ đến 1000 năm. Quả báo ở cõi này cũng rất thù thắng, vui nhiều khổ ít, không có Phật xuất thế, nên cõi này bị liệt vào một trong tám nạn.  Nên trong câu niệm tán dương Bồ tát Hộ Pháp mỗi buổi công phu khuya là “ Nam Mô Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “,  có nghĩa là trong bốn châu thiên hạ, chỉ có “ba châu” có thể tu hành được, còn “Bắc Câu Lô Châu” do sung sướng quá độ nên chúng sanh ở đây chỉ ham hưởng thọ dục lạc, không chịu tu hành, nên không thể cảm ứng đạo giao với chư Phật và Bồ Tát được, cũng đúng thôi, hữu cầu tất ứng, vô nguyện bất tùng. Đức Thế Tôn từng khuyến cáo chúng sanh nào bị sanh về “Bắc Câu Lô Châu” là một tai họa trong hành trình luân hồi sanh tử, nên tránh, tránh cách nào ? hành giả phải phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc sau khi xả bỏ báo thân ở cõi Nam Diêm Phù Đề này, nếu không phát nguyện thì làm phước, bố thí, có thể mai kia mốt nọ chúng ta có thể thác sanh về Bắc Câu Lô Châu này, và khi đó, ta chỉ biết đắm say theo thú vui hưởng thụ mà quên lãng việc tu hành, khi phước hết sẽ phải đọa xuống cõi thấp hơn.

Vài hàng giải đáp, mong bác Thiện Tịnh và đại chúng phát tâm dũng mãnh tu tập tinh tấn để không rơi vào cõi giới Bắc Câu Lô Châu.


Nam Mô A Di Đà Phật,
Thích Nguyên Tạng
Chủ biên Trang Nhà Quảng Đức

Xin quý Phật tử gởi thắc mắc về email: quangduc@quangduc.com

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/03/2015(Xem: 7680)
Con đường luận pháp nhứt là trực chỉ nhân tâm hay trở về chân nguyên, tức là phải rõ đệ nhất nghĩa các kinh Phật dạy mà hành đúng pháp, là một việc cần liễu tri và tinh thông thành phần và mục đích pháp học mới có thể mở ra lối đi chân chánh giác ngộ niết bàn. Giải thoát khỏi dòng tâm thức vẩn đục (vô minh) để được minh tâm kiến tánh là hướng đi của mọi tu sĩ. Phổ Nguyệt mong mỏi pháp Phật nhiệm mầu được soi sáng bằng tuệ quán của mỗi người chúng ta cố gắng thâm cứu và thực hiện hoàn mỹ hơn đem lại nhiều lợi ích hơn trong việc tu học.
05/01/2015(Xem: 18881)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16551)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
19/11/2014(Xem: 12022)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
15/11/2014(Xem: 16604)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
25/10/2014(Xem: 17591)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
20/10/2014(Xem: 27351)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 51463)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
18/03/2014(Xem: 10416)
Phật dạy bậc đại nhân có tám điều giác ngộ. Điều thứ nhất, giác ngộ cuộc đời là vô thường, vũ trụ mênh mông tạm bợ. Gốc của bốn đại vốn không thật, trống rỗng nhưng nếu chúng ta không biết, chấp nó là thật thì sẽ dẫn đến đau khổ. Tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thật và không có chủ thể. Tâm này là cội nguồn phát sinh điều ác, thân này là nơi tích tụ tội lỗi. Người hay quán chiếu được như thế dần dần sẽ thoát khỏi sanh tử.
10/12/2013(Xem: 20730)
Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tam Thập Tụng) của Bồ Tát Thế Thân, Vu Lăng Ba giảng, cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567