Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Người vô hình cõi âm luôn mong muốn tiếp xúc…

24/10/201406:04(Xem: 46933)
10. Người vô hình cõi âm luôn mong muốn tiếp xúc…


Vén Bức Màn Bên Kia Cõi Chết
Tác giả: Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

Xuất bản tại Hoa Kỳ 2005

 

---o0o---

 

 

NGƯỜI VÔ HÌNH CÕI ÂM LUÔN MONG MUỐN TIẾP XÚC VỚI

NGƯỜI TRÊN CÕI DƯƠNG TRẦN

 

Bản thân máu thịt con người sau khi bị tan rã thành tro bụi (chết), duy nhất chỉ còn lại cái thức a-lại-da (thuộc phàm phu), bạch tỉnh thức (thuộc đạo sư chân tu), tức là vẫn còn sống bên cõi chết, chứ không mất. Do vậy thần thức người vô hình vẫn tiếp xúc được với người sống qua nhiều môi trường khác nhau, là chuyện thường tình xảy ra từ ngàn xưa cho đến ngày nay vẫn đang tiếp tục hiện hữu trên mặt đất này, không lấy gì làm lạ!

 

Tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp:

 

Tiếp xúc trực tiếp với người sống bằng hình bóng và lời nói cùng  lúc, làm cho người sống thấy hình bóng và nghe lời nói.

Thời gian tiếp xúc với người sống là vào trưa tròn bóng, chiều chạng vạng và ban đêm.

Không gian tiếp xúc với người sống là trên đường quốc lộ, đường làng, đường hẻm khu phố, công viên, sân chùa, hành lang khách sạn, trong phòng hay thang lầu của các dinh thự, gốc cây đa và kể cả trong giấc ngủ mê hay chập chờn của con người.

 

Tiếp xúc gián tiếp là nhập vào bản thân của người sống rồi nói ra lời để tiếp xúc với người sống về điều gì, việc gì mà người vô hình cần đến.

Một trường hợp tiếp xúc gián tiếp khác, là nói ra lời vào tai của người sống, được người sống nghe rồi nói lại cho người sống, mà người vô hình muốn nhắn nhủ điều gì, việc gì. Chẳng hạn vong linh cô Khang là em ruột của giáo sư Trần Phương ở Hà Nội, từ bên kia cõi chết đã nói lời nhắn nhủ với ông Trần Phương qua tai của cô Phan Thị Bích Hằng là người có khả năng ngoại cảm, sau đó cô Bích Hằng nói lại lời của cô Khang cho ông Trần Phương nghe tại hiện trường lấy hài cốt ở vùng núi Non Nước, tỉnh Thái Bình, Bắc Việt vào năm 1994. (Sẽ nói việc lấy hài cốt ở những trang kế tiếp).

Vấn đề người sống tiếp xúc với vong linh người chết, người chết tiếp xúc với người sống rất là giới hạn. Không phải người sống nào cũng có khả năng tiếp xúc với các vong linh người chết. Và, không phải các vong linh người chết nào cũng đều hiện lên tiếp xúc với người sống. Sở dĩ các vong linh người chết nói chung ma, quỷ, âm hồn, cô hồn,... tiếp xúc với người sống là có vấn đề.

 

A.- Có bốn bậc xuất thế gian luôn luôn thấy rõ tất cả chủng loại chúng sinh vô hình và được chúng sinh vô hình đến xin tiếp xúc, đó là chư Phật, Bồ Tát, chư Thánh Tăng, các bậc Đạo Sư chân tu. Chẳng hạn Bồ Tát Địa Tạng đang trú xứ ở địa ngục trong núi Thiết Vi để tiếp xúc với các loài ngạ quỷ trong vai trò nói pháp cứu bạt giải thoát.

Về các Thánh Tăng, có ngài Mục Kiền Liên và Anan được các ngạ quỷ đến xin tiếp xúc.

Chẳng hạn một hôm sau khi xuất định, Tôn giả Mục Kiền Liên đang đi trên bờ sông Hằng vào buổi chiều, có một con quỷ tại không gian cõi người đến trước mặt ngài Mục Kiền Liên, chắp tay cung kính thưa rằng: “Kính thưa ngài Mục Kiền Liên, từ lúc con bị thác sinh làm kiếp ngạ quỷ đến giờ, con luôn luôn bị đói khát, muốn đến nhà xí để lấy phẩn ăn, thì lại bị con quỷ mạnh hơn từ trên nhà xí nhảy xuống dùng gậy đánh con, nên con chưa bao giờ được đến gần nhà xí. Như vậy, do vì tội gì gây ra?”

Bồ Tát Mục Kiền Liên trả lời: “Vì kiếp trước ngươi là chủ chùa, có những khách Tăng đến khất thực, ngươi tiếc không cho ăn, chờ khách Tăng đi rồi, ngươi mới đem ra ăn cùng với người trong chùa. Vì ngươi keo bẩn của chung mười phương Tăng chúng một cách vô lý như vậy nên bị tội báo này”.

Đồng thời với Tôn giả Mục Liên, có ngài Anan cũng bị con quỷ đói hiện ra với gương mặt hực  lửa, tự xưng tên là Diện Nhiên, nó nói rằng:

-Này thầy Anan, thầy biết không, trong ba ngày nữa thầy sẽ chết và bị rơi xuống hỏa ngục.

Tôn giả Anan biết ý con quỷ muốn gì, liền hỏi:

-Vậy ta phải làm gì đây?

Con quỷ trả lời:

-Có cách là thầy phải tu tập hạnh từ bi được thể hiện qua hành động bố thí thực phẩm cho các loài ngạ quỷ chúng tôi được ăn, vì chúng tôi đói lắm, thì thầy sẽ không bị chết.

Tôn giả Anan vào bạch với Phật tất cả lời của con quỷ nói. Nghe qua lời Anan trình bày, đức Phật nói với Anan:

-Anan yên chí, để Như Lai sẽ chỉ cho giáo pháp độ cho các loài ngạ quỷ.

Sau đó, đức Phật dạy cho ngài Anan một giáo pháp cúng thí thực độ cho tất cả ngạ quỷ, âm linh, cô hồn, đó là bài kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu. Trong bài kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu có chứa đựng nhiều bài thần chú Đà La Ni là những chơn ngôn thệ nguyện độ cho tất cả chúng sinh trong các cõi địa ngục như ngạ quỷ, âm hồn, cô hồn của chư Phật trong quá khứ trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật Thích Ca biết rõ các thần chú đó rồi chỉ lại cho Anan áp dụng cúng thí cho loài ngạ quỷ. Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu thuộc Mật tông được lưu giữ trong Đại Tạng Kinh Mật Tông. Từ đó cho đến nay trong Phật giáo có truyền thống cúng cô hồn vào buổi chiều với một bát cháo thật lỏng là chính yếu, còn các thứ thực phẩm khác được có thêm càng tốt.

 

Những bậc Đạo Sư chân tu có định lực cao đều có thể tiếp xúc với các loài ma, quỷ, âm hồn, cô hồn.

            Tại Trung Quốc vào đời Đường, có vị thiền sư Bất Động lập am tu thiền trên núi Mông (Mông Sơn) thuộc tỉnh Tứ Xuyên.

Ngài thiền sư Bất Động là một vị Đạo Sư nổi tiếng về đỉnh cao định lực tâm thiền dưới đời nhà Đường. Bởi vì thời khóa biểu tu thiền của ngài không có thời gian hạn định là sáng, chiều, tối, khuya. Tức là tâm của ngài luôn luôn thường hằng thanh tịnh, chánh niệm khi tọa thiền, tụng kinh, đọc sách, thiền hành trong sân hay ngồi trên tảng đá nhìn ra không gian núi rừng vào những chiều hè tắt nắng. Mỗi mỗi tâm ngài đều hằng chuyển trên dòng niệm vô niệm, tức Không, Vô Tướng, Vô Tác, nói như kinh Pháp Ấn: “Đó là cánh cửa đi vào cảnh giới giải thoát, là con mắt của chư Phật...”

Vì có con mắt Phật (Phật nhãn) nhĩ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên ngài thiền sư Bất Động đã nhiều lần nhìn thấy rõ vô số bóng dáng các âm hồn, cô hồn, yêu tinh, ma quái với thân hình tiều tụy, tong teo, lom khom, ngất ngưởng như kẻ say rượu cứ lãng vãng, ẩn, hiện, nhấp nhô trên đỉnh núi, sườn đồi, thung lũng, ngoài xa như những con sóng biển chiều hôm không gió trong lúc ngài đi dạo trong sân hay ngồi trên tảng đá khi chiều lên.

Không những ngài chỉ thấy hình tướng, mà còn nghe được đủ loại thứ tiếng khóc than đói, lạnh, rên rỉ, lời xin ăn, tiếng chân đi sột soạt ngoài hiên, có khi gõ cửa như thể thúc giục xin ngài cứu khổ khẩn cấp.

Với tâm từ bi, trí tuệ như chư Phật, chư Bồ Tát, không thể ngồi yên trước vô số hình trạng khổ lụy của các loài ma vương, ngạ quỷ, âm hồn, cô hồn đang hiện hữu rõ ràng ngay thực tại như vậy, ngài thiền sư Bất Động liền ra công khảo cứu đại tạng Mật Tông để tìm pháp môn cứu các loài chúng sinh bên kia cõi âm được ăn no, được ấm, và thoát kiếp cô hồn, âm hồn, ngạ quỷ, ma vương.

Sau khi bắt gặp được bài kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu, ngài Bất Động liền chế tác ra một nghi thức cúng thí thực, được gọi là “Nghi Mộng Sơn Thí Thực”. Vì nghi thức cúng thí được soạn tại núi Mông, nên gọi là Mông Sơn Thí Thực. Nghi Mông Sơn Thí Thực gồm có ba bậc: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn. Đại và Trung dành cho Đại Trai Đàn Chẩn Tế tức là cúng lớn, còn Tiểu Mông Sơn là nghi cúng cháo thường nhật phải có tại các chùa vào mỗi buổi chiều.

 

Ngoài các vị tổ sư Thiền Tông tiếp xúc chúng sinh vô hình, còn có những vị tổ sư Mật Tông tiếp xúc chúng sinh vô hình. Trong đó, đứng đầu là các vị Lạt Ma Tây Tạng đã nhập định xuất hồn du hành qua cõi chết để tiếp xúc và nghiên cứu sự sinh hoạt linh động của chúng sinh vô hình sau một thời gian đọc tụng những thần chú Đà La Ni đến mức độ có năng lực Tam Muội thật siêu đẳng.

 

Nói đến các bậc Tăng bảo chân tu trong Phật giáo có định lực cao là nói đến khả năng tiếp xúc với các loài chúng sinh vô hình ngay từ khi Phật còn tại thế và cho đến ngày nay trên thế giới ở đâu cũng có, chứ không phải chỉ riêng ở Trung Quốc, Tây Tạng. Chẳng hạn ở Việt Nam có các bậc Đạo Sư chân tu như cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, cố Hòa Thượng Hải Đức ở Huế, v.v...

Cố Hòa Thượng Hải Đức lúc sinh tiền, ngài đã tu theo pháp môn Mật Tông, tức là công phu chuyên trì tụng những bài thần chú Đà La Ni một cách không ngừng nghỉ ở tâm thức, không để bị thất niệm.

Ngài Hải Đức vừa tu Tịnh Độ niệm Phật A Di Đà, vừa có trì tụng thần chú Đà La Ni cho mục đích chữa trị bịnh tà. Cho nên ngài đã chữa trị nhiều người bị bịnh tà đã được qua khỏi.

Theo lời một số chư tôn đức ở Huế nói rằng: “Cố Hòa Thượng Hải Đức có lần bắt con yêu tinh nhốt vào cái hũ, đậy nắp lại, dán lá bùa Chuẩn Đề lên nắp hũ làm cho nó không thể ra được. Bởi vì con ma ấy rất là ngoan cố không chịu buông tha, cứ đeo đuổi theo và nhập vào bản thân người phụ nữ hai, ba lần sau khi vừa hết bệnh điên được về lại nhà. Con yêu tinh bị nhốt ba ngày sau khi ngài trục nó ra khỏi cơ thể người phụ nữ bị nó nhập lại. Qua ba ngày, ngài tha nó ra. Trước khi tha, ngài nói lời giáo huấn cho nó, bắt nó quy y Tam Bảo và nói lời cam kết không nhập xác người phụ nữ kia nữa.

Lời con ma nói từ cái hũ  phát ra bằng tiếng người, được các thầy trong chùa đứng gần đó nghe rõ.

Cố Hòa Thượng Hải Đức lúc trăm tuổi già, ngài biết trước ngày giờ viên tịch là ngày rằm tháng tư âm lịch, tức là ngày Phật Đản. Trước khi về cõi Phật A Di Đà, ngài Hải Đức đã thông báo cho chư tôn đức Tăng, Ni, bổn đạo ngoài và trong thuộc hệ thống Hải Đức tại Huế và Nha Trang được biết trước gần cả năm để chuẩn bị tư tưởng cho việc tổ chức lễ tiễn đưa giác linh của ngài.

Trước khi viên tịch về nước cực lạc của đức Phật A Di Đà, ngài Hải Đức để lại hai câu thơ bất hủ sau đây:

Tu về Tịnh Độ sướng hơn tiên

Chẳng nhọc công lao, chẳng tốn tiền.

 

B.- CÓ HAI HẠNG NGƯỜI PHÀM PHU THẾ GIAN CÓ KHẢ NĂNG TIẾP XÚC VỚI CHÚNG SINH VÔ  HÌNH VÀ ĐƯỢC CHÚNG SINH VÔ HÌNH TIẾP  XÚC TRỰC TIẾP VÀ GIÁN TIẾP. ĐÓ LÀ NHỮNG NGƯỜI PHÙ THỦY VÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM.

 

1.- NHỮNG NGƯỜI PHÙ THỦY

Phù thủy là danh từ chung để chỉ cho những người nam hoặc nữ có hành động liên đới, giao tiếp với các loài yêu tinh, ma quỷ, âm hồn bên cõi chết, cho nên cách phục sức, cũng như mặt mày và trạng thái đi đứng  của họ gần một nửa giống như ảo thuật, phần còn lại thật là liêu trai được tương tợ như hình thù ma quái.

Hành động phù thủy không phải là nghề chính mưu sinh của một số ít người trên thế giới, nó chỉ là sở thích vui chơi riêng tư của người đó. Vì vậy có những người hành nghề dạy học, công chức, v.v... trong ngày nghỉ, họ chơi trò phù thủy.

Nghệ thuật phù thủy, tức là cách thức làm sao để giao tiếp được với các loài ma quỷ, yêu tinh. Nghệ thuật phù thủy tại các quốc gia Âu Mỹ, Đông Âu và Nga Sô là do từ Ai Cập truyền vào.

Nghệ thuật phù thủy không phổ biến sâu rộng thành sách vở hay lớp học, nhưng quốc gia nào cũng có những người phù thủy do bắt nguồn từ óc tò mò muốn thấy, muốn bắt gặp các loài ma quỷ, yêu tinh. Những người có óc tò mò muốn gặp và tiếp xúc với ma quỷ như vậy, họ rất gan dạ, không bao giờ sợ ma quỷ. Do đó, họ bỏ công, tiêu phí thì giờ cho việc học hỏi với những người phù thủy đã có quá trình thực hiện chơi trò phù thủy lâu năm. Do bởi sự tương truyền, tức là người có nhiều kinh nghiệm phù thủy chỉ lại cho người mới muốn học phù thủy, mà nghệ thuật phù thủy càng về sau càng bị thất truyền, nên chi những người phù thủy ngày nay không có nhiều hiệu lực giao tiếp với ma quỷ.

Những người phù thủy ở Việt Nam được gọi là thầy pháp. Danh từ tuy có khác, nhưng giống nhau ở mục tiêu là liên đới, giao tiếp, bắt gặp yêu tinh, ma quỷ.

Những người thầy pháp ở nước ta sở dĩ được có từ nam, trung, bắc, cũng là do những người không hề sợ ma quỷ, nên tò mò muốn giao tiếp, bắt gặp ma quỷ. Do vậy họ đến học hỏi nghệ thuật phù thủy với mấy ông  phù thủy người Chàm, được mấy ông phù thủy người Chàm chỉ lại nghệ thuật, trong đó có cả  bùa chú. Số người đầu tiên đến học hỏi phù thủy với mấy ông phù thủy người Chàm là người ở miền nam và miền trung từ Bình Thuận trở ra Đà Nẵng. Sau đó mới đến miền bắc.

Như đã nói, phù thủy là một trò chơi với ma quỷ, yêu tinh có nghệ thuật, được dành riêng cho một số người có sở thích. Do vậy phù thủy ở nước ta được thấy có hai hạng người. Thứ nhất, đó là những người trong giới bình dân. Thứ nữa, đó là các ông quan về hưu và các nho giáo.

Những phù thủy người Chàm, thường được dân ta gọi là Thầy Chang. Với phù thủy người Chàm, nghệ thuật và bùa chú để giao tiếp với loài ma quỷ được xem là ngang hàng với phù thủy Ai Cập. Vì vậy mà những ông phù thủy ở nước ta thuộc hai giới nói trên rất giỏi về nghệ thuật  phù thủy, nên chi sự liên đới, giao tiếp, gặp gỡ các loài yêu tinh, ma quỷ rất là hiệu lực sau thời gian học hỏi với các phù thủy người Chàm rồi đem ra thực hành cho việc chơi với người vô hình.

Từ chỗ vui chơi với loài ma quỷ có hiệu lực, đã trở thành một nghề tay trái trong việc mưu sinh được xen kẽ giữa nghề chính, là nghề nông, cổ nhạc, lò rèn, thợ hồ, thợ mộc, được nói riêng ở giới bình dân. Nói rõ hơn, những ông phù thủy (thầy pháp) thuộc giới bình dân được gia chủ ở đâu đó đến mời về nhà để cúng bài trừ ma quỷ khi con họ bị đau ốm nặng hay trong nhà có  hiện tượng ma quỷ phá phách. Quả thật sau khi cúng bái, con của người gia chủ được hết cơn bệnh nặng, trong nhà gia chủ hết hiện tượng ma quỷ hiện.

Trong khi đó các ông phù thủy thuộc nho giáo, quan chức triều đình về hưu không hành sự việc cúng bái trừ tà ma ở tư gia, họ vẫn giữ nguyên tư tưởng vui chơi với các ma quỷ, yêu tinh ... Cách vui chơi với các ma quỷ, yêu tinh của các ông phù thủy nho giáo, quan chức triều đình, là điều khiển, sai khiến, chỉ huy các ma quỷ, yêu tinh trong việc phục vụ cho họ nhiều thứ, như sai khiến các ma quỷ, yêu tinh, âm hồn đi bẻ bắp trộm, hái trộm dưa, bí từ ngoài nương dâu đem về cho họ dùng và, kể cả sai khiến các loài ma quỷ đi phá phách vật chất của các ông quan thù địch, như là nhổ một vạt lúa, xô ngã hàng rào, v.v... Cho nên mỗi ông phù thủy thuộc giới quan chức, nho giáo, đều có trong tay một đội ngũ âm binh thật hùng hậu, mà bản thân mỗi ông như là một vị tướng lãnh chỉ huy đạo binh ma quỷ.

Những vong linh ma, quỷ, âm hồn gia nhập đạo binh của mỗi ông phù thủy như vậy, đa số là thuộc hạng anh chị lúc còn sống trên đời đã có quá trình một thời quậy phá xóm làng, khu phố... Dỉ nhiên đội ngũ âm binh được ông tướng phù thủy của chúng thù lao và chiêu đãi thật hậu bằng gà vịt, xôi chè và rượu nồng, hoa quả. Tuy nhiên, với bản chất tham lam, si mê, cuồng vọng của chúng sinh hữu hình, đó là các ông tướng phù thủy và các loài ma quỷ, yêu tinh, trong đội ngũ âm binh. Cho nên về phía các ông tướng phù thủy, ai cũng lợi dụng sự đói khát, thèm ăn của các âm binh, nên sai bảo âm binh làm các việc lợi nhuận cho họ thì nhiều, còn chiêu đãi, thù lao cho âm binh thì ít. Do bởi tâm tư và hành động làm các việc ác đức là sai âm binh phá phách hư hại của cải vật chất của người khác và thu lợi nhuận nhiều, cúng cho các âm binh được ăn thì ít. Chính là những cái nhân đưa đến mất hết phước. Một khi phước đức không còn nữa, là lúc năng lực (power) điều khiển ma quỷ trong đội ngũ âm binh cũng tan biến. Từ đó các ông tướng phù thủy liền bị đạo binh ma quỷ xúm nhau vật ngã, từ đau bịnh nằm một chỗ, cho đến chết.

 

2.- NHỮNG NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM

            Khả năng ngoại cảm được cắt nghĩa là năng lực thấy biết của tâm linh con người về những việc sắp xảy ra cho mình hay cho ai đó, được xuất phát từ ngoại giới, trong đó có người sống, vong linh người chết và những vật thể khác, v.v... Ngoại cảm ở cấp độ thấp gọi là giác quan thứ sáu. Ngoại cảm ở cấp độ cao, đó là thấy rõ hình bóng ma, quỷ, âm hồn, nói chuyện trực tiếp với ma, quỷ, âm hồn và nghe trong tai tiếng nói của các vong linh ma, quỷ, âm hồn.

Nói một cách khác, tâm linh con người là năng lực có thể thấy, biết sâu xa nhiều loại ở ngoại giới, nên gọi là ngoại cảm. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng ngoại cảm đó, mặc dù ai cũng có tâm linh cả. Người có khả năng ngoại cảm, theo khế ly Atula của nhà Phật, là do tính chất Atula còn tích lũy đang hiện hữu trong tâm thức là năng lực ngoại cảm. Năng lực ngoại cảm do tính chất Atula nên được gọi là năng lực Thánh, Thần hay Atula (sẽ nói rõ tính chất Atula ở những trang kế tiếp về đề mục sáu giai tầng...) Người có khả năng ngoại cảm thánh thần như vậy, được người đời tặng cho cái tên Cậu Trạng, nói trạng, nói thánh, tức là biết trước, thấy trước những việc sắp xảy ra, nên nói ra trước cho ai đó được biết để đón nhận nếu việc tốt, để lo mà tránh nếu việc xấu. Để chứng minh tâm biết trước sự việc sắp xảy ra qua câu chuyện sau đây:

Tại trại cải tạo Nam Hà, một hôm vào buổi sáng nhằm ngày nghỉ lao động, một số anh em sĩ quan cải tạo hàn huyên uống nước trà, hút thuốc lào dưới bóng cây điệp trước nhà số một. Trong số anh em đó, có trung tá X, là người được vợ trong nam ra thăm nuôi rất đều, cứ ba tháng một lần. Mỗi lần như vậy, số lượng quà cả trăm ký lô.

Đang giữa lúc hàn huyên, trung tá X nói: “Còn non tuần nữa là đến kỳ bà xã tôi ra thăm nuôi, nhưng sẽ không ra, chỉ gởi cho tôi một gói quà cỡ ba ký lô thôi”.

Sau lời trung tá X, một anh hỏi:

-Sao trung tá biết? Chắc là chị đã báo cho anh biết trong đợt thăm vừa qua, phải không?

-Không! Lời trung tá X xác nhận không, rồi im lặng trong giây lát. Sau đó nói tiếp:

-Không biết đại úy T, ảnh dựa vào đâu mà ảnh nói cho tôi biết một cách khẳng định là vợ tôi sẽ không ra thăm nuôi kỳ này, chỉ gởi cho tôi gói quà cỡ ba ký qua vợ đại tá D bên nhà số 2 mang ra. Để xem sao, ảnh nói có đúng không!

Quả thật đúng như vậy ở bước đầu là đại tá D bên nhà số 2 được cán bộ trực trại vào gọi ra thăm nuôi đột xuất không định kỳ. Đúng ở bước thứ hai, là sau khi đại tá D ở nhà số 2  thăm nuôi vào, bèn gọi trung tá X ở nhà số 1 qua lấy gói quà đúng ba ký lô.

Trước cái biết sắp xảy ra của đại úy T, làm cho trung tá X và một số anh em nói chung toàn trại, nói riêng tại nhà số 1, đều thán phục. Cho nên ngay tối hôm đó, tại nhà số 1, trung tá X mời đại úy T vào dự buổi hàn huyên cho mục đích hỏi đại úy T do cái nhân nào, mà đại úy T biết trước việc xảy ra.

Đại úy T trả lời:

-Tôi không phải thần thánh gì cả! Nhưng không biết tại sao, tôi lại nghe những lời nói đó trong tai tôi một cách rõ ràng như vậy! Cho nên tôi nói đại cho anh nghe thử, xem có đúng không, ai ngờ lại đúng!

Đại úy T không những chỉ biết trước vợ ông trung tá X sẽ không ra thăm nuôi, mà còn biết trước cả tháng về một số anh em trong trại sẽ được tha về một cách khẳng định qua hai đợt cách nhau sáu tháng. Đợt một, đại úy T biết trước có ba người về, đợt hai có hai người về. Số người được tha về, được đại úy T nói cho biết trước cả tháng, mà chả có ai tin. Đến khi được đọc tên về, mọi người mới nói lời thán phục.

 

Tâm linh ngoại cảm rất là đa dạng. Tuy nhiên được tựu trung ở hai trường hợp Thấy và Nghe. Người sống thấy hình bóng các vong hồn một cách trực tiếp và có cả lời lẽ đối đáp giữa người sống và vong hồn. Hoặc có khi người sống chỉ thấy các vong linh (vong hồn) trước mặt, không nói lời nào. Trường hợp nghe: Người sống chỉ nghe tiếng nói của các vong hồn trong tai một cách rõ ràng. Hoặc là có nghe những âm thanh khác tự nhiên phát ra giữa không gian trong nhà. Chẳng hạn âm thanh của tiếng chuông tự nhiên phát ra giữa không gian trong căn phòng được xem là yên lặng. Để chứng minh người nghe được tiếng chuông tự nhiên phát ra giữa căn phòng yên lặng nơi có thờ Phật, đó là một bà có nhiều tiền của ở San Diego, được nổi tiếng Phật tử thuần thành do cúng dường Tam Bảo trong những việc đại sự, khó có ai cúng nổi. Cho nên bà tự nói là Đại Thí Chủ.

Một hôm nọ, theo lời bà kể rằng; bà đang tụng kinh Pháp Hoa, bỗng nhiên bà nghe có tiếng chuông gia trì (loại chuông nhỏ) trên bàn Phật tự nhiên vang lên. Khi tai nghe rõ như vậy, bà tưởng rằng chồng hay con bà đánh chuông, bà nhìn lên, rồi nhìn quanh, chả thấy ai hết.

Theo lời bà ta kể như vậy, có ai dám nói tâm thức của bà đang được tích lũy bản chất Atula không? Ngay cả các Tăng Ni cũng không ai dám nói, dù cho có biết tâm bà đang có bản chất Atula. Nếu ai có nói, chắc là phải nói: Tâm bà đang có chất Thánh, Thần thì dễ nghe hơn.

Tiếng chuông tự nhiên được vang lên đó, không phải do Phật hay Bồ Tát đánh chuông, mà là do các loài Atula, Dược Xoa đánh trong lúc họ xuất hiện ở bất cứ nơi nào, ở đó có người đang tụng các thứ kinh Phật để bảo vệ và hộ trì cho người tụng kinh. Trong việc bảo vệ và hộ trì đó, có đánh chuông, đúng với câu: “Thiên Atula, Dược Xoa đẳng lai thính pháp giả, ưng chí tâm, ủng hộ Phật pháp sở trường tồn,...”

 

Nói đến những người có khả năng ngoại cảm, là phải nói đến tính chất thánh. Đã vốn sẵn có chất thánh, không dành riêng cho nam, nữ, già, trẻ, chủng tộc, quốc gia này hay quốc gia khác. Thánh đối lại với phàm. Thánh ít hơn phàm. Cho nên người có khả năng ngoại cảm rất là ít. Ngay cả khả năng ngoại cảm bậc thấp cũng rất ít, huống hồ khả năng siêu đẳng tối thượng lại càng rất hiếm. Bởi vì tính chất ngoại cảm nằm sâu kín một cách thâm mật trong nội thức con người, khó ai biết đến, ngay cả người có khả năng ngoại cảm cũng không biết mình có. Khi được thấy là do bắt gặp nhân duyên nào đó trong sự tình cờ. Từ đó được mọi người biết đến qua cơ quan truyền thông.

 

Hai nhà ngoại cảm được dân chúng trong nước và thế giới biết đến, đó là ông James Van Praagh ở Hoa Kỳ và cô Phan Thị Bích Hằng ở Hà Nội, Việt Nam.

A.Ông James Van Praagh được sinh ra và lớn lên tại đảo Long Island ở thị xã Bayside thuộc New York. Ông James Van Praagh được có khả năng ngoại cảm từ lúc 8 tuổi. Theo lời ông kể với các phóng viên báo chí, truyền hình Hoa Kỳ, Anh, Pháp là lúc 8 tuổi, một hôm ông đang ngồi trong nhà, ông nhìn thấy một bàn tay sáng rực từ trần nhà thò xuống. Thấy hiện tượng lạ lùng như vậy mà ông vẫn tỉnh táo, không hề sợ hãi gì cả. Chẳng những không sợ mà còn cảm thấy trong lòng có niềm an lạc, thanh nhẹ. Sau đó ông chẳng quan tâm đến hiện tượng bàn tay ánh sáng đó suốt thời gian khá lâu gần 20 năm. Một hôm nọ, nhân cơ hội đến nhà người làm nghề đồng bóng do được người bạn rủ đi. Tại nơi đồng bóng, ông được người đồng bóng nói với ông một cách trịnh trọng rằng; ông đang có hào quang tỏa ra toàn thân và trong tương lai ông sẽ có khả năng nhìn thấy và nói chuyện thẳng với các vong linh ma, quỷ, âm hồn, dù ông không có ý muốn thấy, những loài mà, quỷ, âm hồn vẫn hiện ra trước mặt ông rồi nói chuyện với ông.

Quả thật sau đó chừng hai năm, ông James Van Praagh được nổi tiếng về những khả năng như: nếu có người gọi phone, viết thư cho ông biết về tên họ của người đã qua đời dù mới hay lâu, ở đâu, xa gần, tức thì ông trả lời một cách rõ ràng về tư cách, phục sức, khả năng văn hóa, thói quen, sở thích... trước đó của người đã qua đời. Không những ông biết rõ những gì vốn có ở nơi con người đã chết, mà còn thấy rõ hình bóng vong linh người chết hiện ra trước mặt ông, rồi ông nói chuyện với vong linh, vong linh nói chuyện với ông về sự đói khát, lạnh lẻo, khổ lụy, v.v... bên cõi chết như thế nào. Chẳng hạn một bé trai tên Carter tại Los Angeles đã bị mất tích lâu năm. Sau đó cảnh sát đến nhờ ông tìm giùm cậu bé ở đâu. Sau khi nói đến tên họ cậu bé, tức thì ông liền thấy vong linh bé Carter hiện trước mặt ông. Ông và vong linh bé Carter nói chuyện với nhau. Sau một vài phút nói chuyện với vong linh bé Carter, ông được vong linh bé Carter mô tả hình dáng người đàn ông bắt cóc và giết em. Sau đó ông mô tả lại cho nhân viên cảnh sát nghe. Nhân viên cảnh sát vẽ ra hình dáng người đàn ông thủ phạm khá chính xác. Nhân viên cảnh sát đem chân dung thủ phạm đến cha mẹ em Carter. Khi nhìn vào chân dung, cha mẹ em Carter đã nhận ra người đàn ông quen thân thường đến nhà chơi. Quả nhiên, chỉ độ vài giờ đi tìm thủ phạm, nhân viên cảnh sát hình sự bắt được ngay người đàn ông giết em Carter.

Câu chuyện trên được đăng tải trên các báo và các đài truyền hình ở Hoa Kỳ như đài NBC, CNN. Nhờ đó mà hằng triệu người dân ở Hoa Kỳ và thế giới đã và đang được niềm an vui lớn là được biết con người sống và chết không thể cách biệt nhau, có liên hệ nhau trên cơ sở tình cảm, thờ phượng, cúng tế và tâm thanh tịnh cầu nguyện của người sống đối với các vong linh người chết. Và cũng nhờ đó mà những nhà duy vật, khoa học, tôn giáo ngoài Phật giáo, vốn có tâm bác bỏ không có đời sau, chết là hết, không có luân hồi... thì nay liền chấp nhận có cõi sinh, cõi tử, có vong linh bị lưu lạc bên cõi chết và hết lời ca ngợi khả năng ngoại cảm siêu đẳng của ông James Van Praagh về siêu hình huyền bí. Nhất hạng là sau khi được nghe ông James Van Praagh trả lời các phóng viên truyền hình qua nhận thức của ông về vấn đề chết của con người chỉ là sự thay đổi từ kiếp sống này qua kiếp sống khác, dù là vô hình vẫn là một kiếp sống. Do vẫn còn sống ở cõi âm mà có những vong linh đi khắp đó đây một cách tự do không bị chướng ngại. Chẳng những ông James Van Praagh được nhiều người ca ngợi  bằng gọi phone, viết thư, mà còn ghi tên vào danh sách đợi chờ đến gặp ông với thời gian cả năm mới được tới phiên. Mỗi lần tiếp chuyện với người đến thăm như vậy, ông James Van Praagh đã đưa ra hai vấn đề qua nhận thức bác học về chuyện “thân trung ấm” của người chết bị sa đọa vào 3 đường ác địa ngục, ngả quỷ, súc sinh và được đầu thai trở lại kiếp người không phải là chuyện giả tưởng, vu vơ, hoang đường như một số người đã quan niệm. Thứ nữa, ông khẳng định rằng; thân tử ấm sau khi ra khỏi xác, nó bay bổng và du ngoạn khắp nơi, rồi trở lại nhập vào xác cũ hay là nhập vào xác của người khác khi thân tử ấm của người đó đi thẳng luôn không trở lại xác. Vấn đề linh hồn người nào đó nhập vào thể xác của người khác được xem là chuyện hy hữu.

Sự hiểu biết về một linh hồn của người nào đó nhập vào xác chết của người khác, mà ông James Van Praagh đã nói, vô tình được trùng hợp với câu chuyện sau đây:

 

CHUYỆN THAY HỒN ĐỔI XÁC

Ở Cà Mau cách nay vào khoảng 40 năm, có một câu chuyện lạ lùng đã làm dư luận bàn tán xôn xao:

Ông Cả Hiêu, ở làng Tân Việt, xứ Đầm Dơi (Cà Mau) có cô con gái 19 tuổi, lâm bịnh rồi chết. Cách đó độ 100 cây số, ông Hương Thừa ở làng Vĩnh Mỹ (Bạc Liêu) cũng có cô con gái đau rồi chết, nhưng lại sống lại. Khi sống lại, cô này nhìn không biết cha mẹ và nói những chuyện đâu đâu, không ai hiểu cả. Cha mẹ cô tưởng rằng, vì cô đau nên lãng trí nói bậy. Nhưng khi cô lành mạnh hẳn, cô lại khóc lóc, một hai đòi về nhà ông Cả Hiêu và chỉ cả nơi ở, làng, tổng rõ ràng nữa.

Cha mẹ cô cho người đến tìm ông Cả Hiêu và thuật câu chuyện cho vợ chồng ông này nghe. Vợ chồng con cái ông Cả nghe xong, đều đi đến xem thực hư như thế nào.

Khi mọi người đến nơi, cô gái chạy ngay đến ôm ông Cả, bà Cả khóc kể... Rồi cô thuật những chuyện đã xảy ra trong nhà ông Cả, không sai một mảy. Vợ chồng ông Cả, tuy thấy xác cô gái này không phải con mình, nhưng về tinh thần lại chính là con họ, nên đều thương yêu và công nhận là con. Về sau, cô hưởng được hai phần gia tài của cải, cả hai bên cha mẹ.

(Phật Học Phổ Thông quyển nhứt – trang 94 – HT Thích Thiện Hoa)

Qua câu chuyện trên cho ta thấy rõ thân tử ấm của con gái ông Cả Hiêu sau khi bay bổng đi lòng vòng đâu đó, rồi trở về, không nhập lại xác cũ của mình, mà lại nhập vào xác con gái ông Hương Thừa.

 

B.- Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng.

Phan Thị Bích Hằng có khả năng ngoại cảm tương đối; không xuất sắc lắm về nghe tiếng nói và thấy hình bóng các vong linh, cho nên nghe nhiều hơn thấy. Tuy vậy, Bích Hằng cũng đã được nổi tiếng khả năng ngoại cảm nhất nước do đã từng xác định vị trí mồ mả một cách chính xác của từng cá thể vong linh nói lên tiếng nói vào tai Bích Hằng, chỉ cho Bích Hằng chỗ họ đang nằm dưới lòng đất sau mỗi lần giao tiếp nói chuyện qua lại với các vong linh tại hiện trường lấy hài cốt như thể nói qua điện thoại di động.

Hiện trường có mồ mả, lại là một nơi đầy hoang vu, bình địa, không biết đâu là mồ mả! Bởi vì những hài cốt đang nằm sâu dưới lòng đất tại vùng núi Non Nước (Thái Bình) là hài cốt những người lính Vệ Quốc Quân trong thời kháng chiến chống Pháp 1950 bị chết sau cuộc giao tranh với giặc Pháp. Cho nên những thi thể, một số bị trôi giạt vào bờ sông, nằm đó lâu ngày được đất bồi lấp lên. Một số được dân địa phương chôn cất. Người chôn cất, nay đã chết từ lâu. Một số bị chết dưới hố chiến đấu, được giặc Pháp lấp đất. Ấy thế mà Phan Thị Bích Hằng thấy được từng hài cốt riêng lẻ hay hai ba hài cốt cùng một chỗ sâu tận lòng đất. Được thấy như vậy, là do những vong linh không siêu thoát, còn ở đó, bám theo hài cốt của họ. Do đó mà họ thấy được thân nhân họ đến lấy hài cốt, tức thì họ hiện lên, lân la bên thân nhân họ, nhưng thân nhân họ không có khả năng ngoại cảm để thấy, cho nên họ giao tiếp với Bích Hằng mà hiện ra hình bóng được Bích Hằng nhìn thấy, nói lên tiếng nói được Bích Hằng nghe rõ trong tai.

Để biết rõ tài ngoại cảm của Bích Hằng được chứng minh qua tài liệu lấy hài cốt sau đây:

Sáng 25-4-1993, quay về đài liệt sĩ gần chân núi Non Nước. Xuống xe, Bích Hằng đi về phía núi Non Nước, rồi quay xuống bờ sông. Đi ngang, đi dọc vài lần, Phan Thị Bích Hằng chỉ vào vị trí mà nhóm trước đã xác định, nói: “Có bảy chú nằm ở đây, còn một chú nằm ở sát chân núi.” Phan Thị Bích Hằng nói rõ họ tên cả tám liệt sĩ, khớp với danh sách mà nhóm trước đã xác định từ ở Hà Nội, và nói thêm: “Các chú không phải mỗi người một mộ mà có mộ hai chú, có mộ ba chú, chân tay chen vào nhau.”

Sau khi thắp hương viếng các liệt sĩ, là cuộc trao đổi với những người đã mất, chủ yếu là với liệt sĩ Tâm.

Phan Thị Bích Hằng nói: “Các bác cứ hỏi, các chú ấy nghe được hết. Còn các chú ấy trả lời thế nào, cháu sẽ nói lại cho các bác”.

(Bút ký của giáo sư Ngô Vi Thiện – An Ninh – Văn Hóa trang 15 – số 162 ra ngày 27-1-2000)

 

Tại hiện trường lấy hài cốt ở La Tiến. Chủ nhân của hài cốt là giáo sư Trần Phương. Hài cốt được lấy, đó là em gái ruột ông Trần Phương tên là Khang.

Trước khi đi đến La Tiến để lấy hai cốt, Bích Hằng đã thấy vong linh cô Khang hiện về tại nhà ông Trần Phương sau vài phút thắp hương khấn vái trước di ảnh cô Khang. Bích Hằng liền hớn hở nói: “Cháu chào cô ạ. Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi cô hài cốt của cô hiện nay ở đâu?”

Sau khi cô Khang đã chỉ rõ vị trí cho Bích Hằng, Bích Hằng hỏi cô Khang:

-Hài cốt cô có còn nguyên vẹn không?

Sau khi vong linh cô Khang trả lời, Bích Hằng thông dịch lại y nguyên văn: “Chúng đánh em gãy xương sườn và cánh tay bên phải, gãy hai chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện nay vẫn còn nhưng đã mủn, vì chôn có quan tài đâu! Răng hàm dưới đã rụng, răng hàm trên vẫn còn nguyên.”

Vong linh cô Khang dặn dò lấy hài cốt, Bích Hằng lặp lại: “Cô Khang bảo khi đào, anh Phương chú ý cổ tay của em vẫn còn đeo cái vòng”. Sau đó Bích Hằng hỏi lại cô Khang: “Vòng bằng bạc hay bằng gì?” Cô Khang trả lời và Bích Hằng lặp lại: “Vòng bằng sắt. Thực ra đó là cái còng, chúng khóa tay em vào tay người đàn ông ở Hải Dương.”

Ông Trần Phương hỏi vong linh cô Khang: “Nếu tìm được hài cốt em thì đưa em về quê mình, cạnh mộ của bố mẹ hay là đưa về nghĩa trang liệt sĩ huyện, nơi anh Sơn đang nằm?”

Sau khi vong linh cô Khang trả lời cho ông Phương, Bích Hằng lặp lại: “Mẹ bảo em: Con là phận gái, về với bố mẹ, để sau này cháu chắt còn thăm viếng hương khói cho con. Nhưng anh Sơn thì bảo: Em đã đi theo đội nữ du kích Hoàng Ngân, em cứ về nghĩa trang liệt sĩ. Tổ quốc ghi công mình cơ mà. Em về nghĩa trang liệt sĩ với anh, có anh có em. Anh Sơn hôm nay cùng về với em đấy.”

Tại hiện trường trước khi các công nhân đào hài cốt, cô Bích Hằng muốn cô Khang hiện lên lần nữa để biết chắc đã đến đúng vị trí mà cô Khang đã chỉ. Do vậy, sau vài phút thắp hương khấn vái, Bích Hằng liền nói với ông Trần Phương: “Khi cháu đang khấn vái thì đã thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải, cô vẫy cháu lại rồi chỉ cho cháu chỗ cắm hương ở đầu và chân ngôi mộ”.

Ghi chú: vong linh ông Sơn là anh ruột ông Trần Phương đã được lấy hài cốt về nghĩa trang liệt sĩ rồi, nhưng vong linh ông có mặt tại hiện trường, chỉ là sự tham dự cho vui, là do ông Trần Phương thắp hương khấn vái vong linh ông Sơn để báo cáo về việc lấy hài cốt cô Khang ở La Tiến, do vậy vong linh ông Sơn hiện đến để góp ý với ông Phương.

Đang giữa lúc các công nhân hì hục đào đất, cô Bích Hằng và ông Trần Phương nói chuyện qua lại với vong linh cô Khang và cả vong linh ông Sơn nữa.

Chẳng hạn Bích Hằng hỏi cô Khang: “Bác Phương muốn biết chính xác ngày giỗ của cô. Bác ấy chỉ biết vào khoảng 20 tháng sáu dương lịch”.

Cô Khang trả lời, được Bích Hằng thông ngôn lại: “Cô Khang cười và nói:Đối với anh Phương thì ngày nào mà giỗ chẳng được! Em bị chúng nó bắt, có được bóc lịch đâu mà biết ngày. Chỉ nhớ một hôm, khoảng 18 hay 19 gì đó, thằng quan tư bảo em: ‘Bọn mày cứng đầu. Đến ngày 24 mà không khai thì bắn bỏ’. Anh cứ lấy ngày ấy là được. Còn ngày âm lịch thì em không biết là ngày nào”.

Sau đó vong linh ông Sơn nói lời bổ sung, được cô Bích Hằng thông ngôn lại: “Cứ qua ngày giết sâu bọ là em Khang lại bảo anh: Sắp đến ngày giỗ em rồi đấy!”

Ông Trần Phương nhờ cô Bích Hằng hỏi về đời sống người anh là ông Trần Sơn, em gái là cô Khang bên cõi âm như thế nào.

Sau đó cô Bích Hằng thông ngôn lại lời cô Khang: “Có lần em về thăm chị Nghĩa, chỉ đứng ngoài mà không vào được.” (Bà Nghĩa là chị lớn của ông Trần Phương.)

Nghe lời cô Khang nói vào không được, vong linh ông Sơn liền nói và được Bích Hằng thông ngôn lại nguyên văn: “Em bị chết trôi sông, được ai bắc cầu đâu mà chỗ nào cũng đòi vào. Bận sau đi với anh. Bây giờ công việc ở đây đã xong, đi với anh đến nhà Quỳnh chơi.” (Quỳnh là em trai út của giáo sư Trần Phương, và tuy là út nhưng cũng đã thành ông lão 60 rồi)

(Phỏng theo tài liệu Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ – Một Hành Trình Đầy Bí Ẩn, do giáo sư Trần Phương viết để tham khảo vào tháng 12 năm 1999)

Tài liệu rất dài, trang sách thì có hạn, do vậy tác giả chỉ phỏng theo một vài chỗ quan trọng về ngoại cảm nghe và thấy của cô Phan Thị Bích Hằng. Xin quý vị thông cảm.

 

 

TỔNG LUẬN

 

VÔ HÌNH VÀ CHIỀU KHÔNG GIAN

            Vô hình được cắt nghĩa là thân hình không phải bằng máu thịt, mà là bằng bảy nguyên tử rung động, hay nói khác hơn, do bảy quan năng không xúc giác, chỉ có cảm nhận của thức A-Lại-Da trong thân trung ấm rung động, đúng theo bản chất của thức A-Lại-Da là luôn luôn hằng chuyển trỗi dậy chuyển biến. Bởi tính chất rung động và chuyển biến này mà thân trung ấm bị chết đi, tỉnh lại từ một lần đến bảy lần do quả báo nghiệp nặng, nhẹ mà có, rồi sau đó nó tự chuyển đổi qua những sinh mệnh mới ở các cõi hay bị lưu lại tại các giai tầng của các loài A-tu-la, ngạ quỷ dưới địa ngục, ngạ quỷ tại không gian loài người, các loại yêu tinh, các loại ma trơi, ma xó, các loại âm hồn, cô hồn, các vong linh... Do bảy quan năng rung động của thức A-Lại-Da mà có các loài chúng sinh ở cõi dương và các loài chúng sinh ở cõi âm. Cả hai nơi âm dương đều có thân chúng sinh. Cho nên cõi âm có hình chứ không phải vô hình, nhưng hình mờ mờ như sương khói.

Đứng về mặt tư tưởng, chúng sinh ở cõi dương và cõi âm đều giống nhau ở sự rung động của bảy quan năng; một bên có xúc giác, một bên vô xúc, chỉ cảm nhận. Nhưng về mặt không gian thì khác nhau. Chúng sinh ở cõi dương trần trên mặt đất, dưới nước, v.v... sống trong ba chiều không gian rộng, hẹp là do bản thân hữu hình lớn, nhỏ. Vì do thân hữu hình mà có ba chiều không gian. Còn chúng sinh ở cõi âm, mỗi cá thể như vậy có nhiều chiều không gian do tâm ý mà có, cho nên cứ mỗi niệm khởi lên hướng về nhiều đối tượng; trong đó thương nhớ, luyến tiêc chức vị tiền tài, oán hận, thù hằn, ghen tuông, ganh tỵ, v.v... là một chiều không gian hiện hữu ra, rồi bao quanh bản thân, nếu không nói là mỗi chiều không gian là một loại địa ngục, một loại thân hình A-tu-la, ngạ quỷ, yêu tinh, cô hồn, âm hồn một cách liên tục và thay đổi tướng trạng, khi thì ngạ quỷ hực lửa, khi thì yêu tinh hung hãn, cô hồn cô đơn sầu hận, âm hồn ủ dột, rồi trở lại ngạ quỷ hực lửa... Tất cả đều do thức biến, chứ không phải do không gian hữu hình của cõi trần tạo nên. Sở dĩ mỗi cá thể trung ấm tự biến ra nhiều chiều không gian và nhiều thân hình cõi âm như vậy, là do khi còn sống trên đời, tâm ý đã thường rung động lên những ý niệm vô minh mang tính chất ô nhiễm của các loài trên, rồi ra đi hành động, gọi là tạo tác nghiệp. Những nghiệp vô minh ô trược đó đã được tích tụ trong nội thức A-Lại-Da

 

SỰ LƯU CHUYỂN VÀ HÀNH ĐỘNG

            Khi còn sống trên đời, mỗi cá nhân con người khi khởi lên ý niệm gì, hướng về đối tượng nào, ở đâu. Sau đó, thân liền đi hành động theo ý muốn. Nhưng bị giới hạn trong ba chiều không gian hữu vi, do đó phải sử dụng phương tiện bằng đôi chân, xe, tàu mới có thể đến nơi chốn đã định.

            Qua bên kia cõi chết thì hoàn toàn khác hẳn. Cũng ý niệm mong muốn đi thăm bà con ruột thịt, đi trả thù, trả ơn, trách móc, ái ân ai đó, ở đâu. Mỗi lần khởi lên ý niệm như vậy tức khắc bản thân vô hình của các loài chúng sinh bên cõi chết liền hiện hữu đến ngay nơi chốn đã định, ngay đối tượng ước muốn một cách mau lẹ bằng một nháy mắt, xuyên suốt qua mọi chướng ngại ở cõi trần, dù cao như núi, kín cổng cao tường như lao tù, sâu thẳm dưới đại dương, cách xa hàng ngàn cây số... họ vẫn đi đến để thực hiện ý muốn bằng hành động vô xúc giác. Vì do vô xúc, mà tất cả những chúng sinh vô hình đều cảm thấy nhiều khổ đau, cô đơn, oán trách hận thù, luyến tiếc một cách triền miên bất tận trong lòng. Cứ mỗi lần tiếp xúc, nhưng bị vô xúc như vậy, thì những thứ địa ngục hiện ra, thân hình bị biến đổi từ yêu tinh thành ngạ quỷ, ngạ quỷ thành cô hồn, v.v... và từ nóng bức sang băng giá, băng giá sang nóng bức, từ bầu ánh sáng mờ qua tối đen, tối đen qua sáng mờ, từ lặng im sang lung linh chập chờn, rồi lại di chuyển đó đây không ngớt, đúng như lời kinh đã nói “Tâm là con vượn, con ngựa” (tâm viên, ý mã).

            Tâm lăng xăng lúc sống đối với người không tu tập, chưa giác ngộ tỉnh thức, thì qua bên kia cõi chết còn lăng xăng hơn, bởi vì thân vô hình là thân của bảy quan năng kết hợp lại, mà bảy quan năng cũng là vô tướng, cho nên nó như là cái bóng, như là mây, như là khói. Nhưng nó có sức mạnh gọi là sức mạnh tâm linh, sức mạnh của thức. Sức mạnh tâm linh trong bản thân con người sống và thân vô hình bên cõi chết vẫn như nhau, không thay đổi. Con người khi còn sống, bản thân đã tạo tác ra những việc lớn lao như xẻ núi lấp sông, v.v... đều do ý thức khởi lên ý muốn. Bên kia cõi chết, các vong linh cũng khởi lên ý muốn đi thực hiện hành động trả thù, thương yêu, ái ân đối với người sống tại cõi trần, thì tức khắc hiện hữu và hành động vô xúc giác. Dĩ nhiên là vô xúc, chứ không phải xúc như hai người sống xáp nhau, ôm vật lộn nhau, xô xát đánh nhau. Phía người sống có xúc giác, phía các vong linh không xúc giác, nhưng cả hai sống chết đều có cùng tâm ý như nhau. Tâm ý người sống muốn gì, liền chỉ đạo cho thân hữu hình đi hành động. Tâm ý người chết (các vong linh, ngạ quỷ, yêu tinh, mà quái) muốn gì, liền chỉ đạo cho thân vô hình đi hành động. Hành động của các vong linh thân vô hình là bảy quan năng vô xúc giác trỗi dậy, chứ không có thứ nào khác hơn. Trỗi dậy sống động táo bạo hay êm đềm là do đối tượng là người sống. Nếu người thù thì sống động táo bạo, người yêu thì êm đềm. Qua đây cho ta thấy rằng những hành động xô xát ấu đả hay êm đềm của người sống đối với người sống, của những người vô hình (Atula, ngạ quỷ... ) bên cõi chết đối với người sống, đều do thức thứ bảy (Mạt-na) trỗi dậy hoạt động. Với người sống, sự hoạt động của Mạt-na khi tỉnh thức trong sinh hoạt hằng ngày, nào là giận hờn, đánh trả, yêu đương, mắng chửi, bực tức,... Và trong giấc ngủ, như thấy đau đớn do bị người khác đánh, bị đứt tay bởi con dao, bị vấp té, bị trúng đạn... hay bực tức giận hờn do nghe người khác mắng chửi, khóc lóc do gặp lại cha mẹ, người thân đã chết, v.v... hay thấy được vui sướng hạnh phúc khi thấy ái ân với người thân, người yêu. Hay thấy khoái lạc được uống ruợu, uống trà, v.v... Tất cả mọi cảm giác trên y như lúc thức.

            Với người chết, (các vong linh, Atula, ma quỷ,... ) sự hoạt động của họ từ sinh động đến êm đềm, cũng đều do thức thứ bảy (Mạt-na) của họ trỗi dậy hành động. Với chúng sinh vô hình, thức thứ bảy (Mạt-na) của họ luôn luôn hoạt động còn hơn lúc sống trên đời. Hoạt động của họ bên cõi chết đều hướng về người sống ở cõi trần. Điển hình rõ nét qua một số câu chuyện các vong linh bên cõi chết hiện lên, hiện về đã được trình bày ở trước, chẳng hạn câu chuyện người con trai bị bà mẹ bên kia cõi chết hiện về tát tai và câu chuyện người đồ tể bị bầy gà đá vào mặt, v.v... Mặc dù hành động vô xúc giác đối với người sống, nhưng rất hữu hiệu, đối với người sống là mặt bị sưng, bị bầm, có vết tích rõ ràng. Trường hợp này là do sức mạnh của tâm thức ở mỗi bên người sống, người chết tác động vào nhau mà có vết tích sưng, bầm. Sự tác động này được ví dụ như hai luồng điện âm, dương, không thấy tướng trạng nhưng khi giao nhau thì xẹt ra lửa, nóng lên hừng hực ở lò xo bếp điện, dây tóc bóng đèn sáng lên. Một ví dụ khác là ánh nắng mặt trời không có hình thể, không rờ mó được, nhưng cảm thấy nóng dưới ánh nắng mùa hạ chói chang chiếu thẳng tắp vào thân ta. Hay ánh nắng mặt trời chiếu xuyên qua kính lúp sẽ làm cháy điếu thuốc, tờ giấy, v.v... Hai ví dụ ánh nắng mặt trời và dòng điện âm dương được biểu thị cho sức mạnh của bảy thức (bảy quan năng) mà cả hai người sống và chúng sinh vô hình nói chung, trong đó có cả vong linh súc vật là rắn, gà, heo, v.v... đều có, chứ không riêng gì vong linh con người mới có.

            Bảy quan năng của người sống trong giấc ngủ bị bảy quan năng của người chết tác động vào nhau mà có ra những hiện tượng đau đớn, vết tích, buồn, vui, khổ, lụy, v.v... do đồng thể tính mê. Chỉ khác nhau về thân hữu hình, vô hình.

            Trường hợp bảy quan năng của người sống trong giấc ngủ bị nghe, thấy các vong linh đến hành hung, đánh phá, chửi bới, tát tai, v.v... được xem là vô xúc. Bởi vì lúc bấy giờ trong giấc ngủ mà người sống cũng có lời nói, và hành động đối đãi lại từ êm đềm đến táo bạo đối với người chết (vong linh hay ma quỷ) trong lúc ngủ say hay chập chờn. Bảy quan năng dù có xúc hay vô xúc, không thành vấn đề. Vấn đề đáng nói, đó là sức mạnh của thức, mà bản tính của thức là mê (thức mê, trí ngộ). Thức bị mê là do nó chứa đầy nhiều quả báo nghiệp ác đang tích tụ trong A-Lại-Da thức khi con người sống. Sau khi chết, A-Lại-Da mang theo qua bên kia cõi chết. Do vậy mà những loài A-tu-la, ngạ quỷ, yêu tinh, ma quái, âm hồn, cô hồn bên cõi chết luôn luôn hoạt động không ngừng hướng về nhiều ngã, đa số là hướng về con người ở cõi trần. Điển hình là hàng ngàn âm hồn bầy gà luôn luôn hướng về người đồ tể đã giết chúng, để rồi một hôm gặp đủ nhân duyên, chúng họp nhau cùng đá vào mặt người đồ tể để báo thù. Đó là sức mạnh của thức, tức là sức mạnh của nghiệp ân oán, hận thù về phía bầy gà. Nghiệp quả ác về phía người đồ tể là mục tiêu định hướng của các âm hồn bầy gà, cho nên khi gặp nhau thì sanh ra quả, đó là những  hiện tượng sưng mặt, vết lằn ửng đỏ và đau rát một cách hiện thực trên gương mặt như hai dòng điện gặp nhau cho ra lửa. Và câu chuyện tương tự “người mẹ hiện về tát tai đứa con trai”.

            Qua một số câu chuyện giữa người sống và chúng sinh vô hình (thánh, thần, ma, quỷ, yêu, tinh) đối với người sống trong đối đãi mà có ra những hiện tượng thực thể như đã nói ở những trang trước, được chứng minh rõ nét về đời sống của các loài chúng sinh vô hình ở cõi âm là có thật rõ ràng; từ hình tướng dù mờ đục, cho đến không gian tự thể và sự di chuyển đó đây một cách xuyên suốt theo quy luật tự nhiên của vô hình.

            Sự xuyên suốt và không trở ngại đó, không phải là thần thông biến hóa, mà là do cái lực rung động của bảy quan năng trong thức A-Lại-Da trỗi dậy. Hay nói khác hơn, do cái lực của các chủng tử nghiệp báo chuyển biến làm cho bản thân vô hình hiện hữu đó đây. Tuy nhiên bị giới hạn trong vòng cương tỏa của bầu ánh sáng vô minh, ô trược. Qua đây ta có thể hình dung bản thân chúng sinh vô hình như là trái cầu tự xoay tròn có rung động và di chuyển đến các đối tượng của nó hướng đến, mà cái trục xoay, chính là thức A-Lại-Da vô minh là chủ tể chỉ đạo cho hai thứ xoay vần ấy.

            Sự xoay vần và di động ấy, không thể di chuyển đến cõi thiên đàng, cực lạc dù đem tâm nghĩ về cực lạc, thiên đàng, bởi vì khối vô minh, ô nhiễm trong bản thân là lá chắn ngăn cản. Nhưng nếu đem tâm nghĩ đến chư Phật, Bồ Tát với ý niệm ăn năn sám hối một khi bắt gặp nhân duyên Phật pháp qua các nghi lễ cầu siêu, thì chư Phật, Bồ Tát sẽ hiện đến cứu bạt cho thoát kiếp ma, quỷ, yêu tinh, âm hồn, cô hồn theo quy luật có cảm có ứng. Nhưng tâm thức của các loài chúng sinh vô hình ấy có đủ sáng suốt để nghĩ đến chư Phật, Bồ Tát trong lúc đó hay không! Hay chỉ lo ôm cái chức tước, danh vị, tiền tài, ngựa xe, kẻ yêu, người ghét, kẻ hận, người thù của quá khứ đang tiếp tục hiện ra trong bầu ánh sáng mờ đục nóng bức và giá băng cực độ. Bầu ánh sáng cũng chính là bản thân vô hình. Bản thân vô hình cũng chính là căn nhà. Căn nhà xây dựng bởi nhiều chất liệu nghiệp quả ác, cho nên căn nhà cứ thường luôn bị biến đổi qua nhiều tính nóng, lạnh và các hình tướng địa ngục, lửa đỏ, nước sôi, v.v... trong căn nhà, tức là trong các loại thân Trung ấm, âm hồn, cô hồn, ma quái, yêu tinh, ngạ quỷ.

 

THỂ VÍA

            Những tư tưởng ô trược đối với các loại chúng sinh vô hình bên cõi chết là điều tất yếu không thể tránh khỏi, cho nên cõi âm là cõi của tư tưởng mờ ám và ảo vọng, thì người của cõi âm được cấu tạo bằng tư tưởng ô trược. Do vậy mỗi bản thân chúng sinh vô hình ở cõi âm đều có cái thể vía. Vía chính là sự rung động của tư tưởng vô minh, ô trược. Vía còn có nghĩa là căn tính. Căn tính là biểu thị cho chất ô trược vô minh đang trụ địa trong thức A-Lại-Da. Căn tính nhiều vô minh ô trược, thì tư tưởng rung động (vía) nặng nề, gọi là vía nặng. Ngược lại vía nhẹ là căn tính ít ô trược, thì tư tưởng rung động nhanh.

            Sống trên đời , ai là người có vía nặng, vía nhẹ sẽ được đo lường qua sự có mặt đầu tiên vào tiệm buôn hay tiệm ăn, dù có mua hay không mua hàng trong giờ mở cửa sẽ được thấy ngay. Người vía nhẹ, sau khi vào mua hàng xong, ra về, thì tiệm đó được nhiều khách vào liên tục suốt ngày. Người có vía nặng vào trong giờ tiệm mở cửa đầu tiên, dù có mua hay không, sau khi đi ra, thì tiệm đó bị ế ẩm suốt ngày.

            Bản thân con người được cấu tạo bởi bốn thứ đất, nước, gió, lửa. Bốn thứ này được tựu trung ba thể đặc, lỏng và hơi. Thể đặc là thịt, xương. Thể lỏng là máu và các thứ nước từ 9 lỗ của thân thể tiết ra. Thể hơi là hơi thở, nóng và lạnh ở bản thân. Ba thể đặc, lỏng và hơi đều có đủ trong bản thân con người dù béo mập hay gầy ốm. Cho nên thể vía nặng nhẹ không phải do cơ thể mập béo, ốm gầy, mà là do tâm thức có ít, nhiều chất vô minh ô nhiễm. Tâm nhiều vô minh ô nhiễm, thì sự rung động của tư tưởng nặng nề, trì trệ, chậm hiểu. Tâm ít ô nhiễm thì sự rung động của tư tưởng nhanh nhẹn, nhạy cảm, mau hiểu.

            Do các ô nhiễm trong nội thức A-Lại-Da mà con người đang sống, cũng như đã qua bên kia cõi chết đều có thể vía ô trọc (nặng) và thanh nhẹ.

Thể vía có trong tất cả giai cấp xã hội con người, từ vua, quan, tể tướng, xuống đến các thứ dân sĩ nông, công, binh và các giai cấp trí thức: tu sĩ, bác sĩ, dược sĩ, giáo sư, văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ... Nhưng khó thấy thể vía vì nó ẩn tàng trong nội thức A-Lại-Da. Tuy nhiên được thấy rõ, khi nó hiển lộ ra ngôn ngữ và hành động ô trọc hay thanh tao, nhẹ nhàng. Cho nên thể vía không có giai tầng trong các giai cấp xã hội con người nói trên. Nhưng qua bên kia cõi chết, thể vía của tất cả con người trong mọi giai cấp nói trên bị thanh lọc một cách riêng lẻ qua sáu giai tầng một cách bình đẳng theo định luật nhân quả, nghiệp báo ác ít hay ác báo nhiều. Vì giai tầng cư trú của các loài chúng sinh vô hình bên cõi chết là thuộc hệ tư tưởng, chứ không phải hệ của thể xác ở danh vị, chức tước quan quyền, tướng này tướng kia, sĩ kia sĩ nọ như tại cõi trần hữu hình.

 

TẠP CƯ CỦA CÁC LOÀI CHÚNG SINH

            Kinh Phật có thuyết minh về Tam giới, tức là ba cõi của chúng sinh còn bị chi phối bởi sinh tử và luân hồi. Ba cõi đó là cõi dục (dục giới), cõi sắc (sắc giới) và cõi vô sắc (vô sắc giới).

Chúng sinh trong cõi dục gồm có: Người, Atula, Ngạ quỷ, Súc sinh và sáu cõi Trời Lục Dục, gồm có Trời Tứ Thiên Vương, Đạo Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc và Tha Hóa Tự Tại.

Loài Trời trong sáu cõi Trời Lục Dục, mặc dù họ cùng trong cõi dục với cõi người, nhưng họ có hành tinh riêng, không cư trú chung với loài người tại trái đất. Duy chỉ có các loài Atula, Ngạ quỷ (yêu tinh, ma quái, âm hồn, cô hồn), súc sinh không có hành tinh riêng, ở chung trái đất với loài người.

Các loài Trời, tuy rằng họ có hành tinh riêng, nhưng họ ưa xuống cư trú tại cõi người (thời gian ngắn) một cách ngang nhiên với nhiều mục đích, trong đó có sự phô trương một vài thần thông của các loài Trời, nhất là Thiên Ma Ba Tuần ưa thi thố với các loài Atula (Thánh, Thần, Tiên) tại biển, trên núi. Bởi vì bản chất của các loài Trời nói chung trong ba cõi, nói riêng ở sáu cõi Lục Dục còn tính hữu ngã. Cho nên ngoài việc phô trương thần thông, các Thiên Ma Ba Tuần còn trừng phạt, tiêu diệt con người nếu sinh tâm ngã mạn tự đắc về khả năng, đức độ của mình một khi chưa có đủ, mà không chịu cầu xin van vái đến họ (Thiên Ma), mà chỉ van vái đến Phật, Bồ Tát, Thánh, Thần, Tiên, tức khắc họ liền đánh phá ngay. Bên cạnh đó cũng có những vị Trời cao hơn tình nguyện xuống cõi người bằng nhiều cách như hiện ra thân vô hình (điều này ít có) hay tái sinh làm người cõi trần (phổ biến) để hộ giúp xã hội con người được tiến lên ngôi vị tinh thần về Phật đạo, Thiên đạo, Nhân đạo và tiến lên những nấc thang vật chất về khoa học kỹ thuật để cho con người được có một đời sống nhiều tiện nghi, hạnh phúc, an vui. Từ đó cho ta thấy rằng, ngoài những Bồ Tát ra, có những thánh nhân như Lão tử, Khổng tử, các vị vua nhân từ, đạo sĩ, bác học... chính là những bậc Trời từ các cung Trời xuống thế gian để giúp nhân loại.

Một số loài Trời ưa có mặt tại cõi người và các loài Atula, Ngạ quỷ và Súc sinh ở chung với con người tại trái đất, cả thảy là năm loài, đúng như lời kinh nói: “Ngũ thú tạp cư địa”.

Qua lời kinh Phật thuyết minh về sáu cõi Trời Dục giới nói  riêng, Tam giới nói chung và Ngũ thú tạp cư tại cõi người như đã trình bày trên, cho ta thấy rằng Thiên đàng và loài Trời không phải ở trong tầng mây, mà ở tại các hành tinh của họ y như con người ở tại trái đất vậy, đúng như những nhà khoa học không gian đã tìm thấy có vô số hành tinh lớn, nhỏ trong hư không vô tận. Và cũng như địa ngục không có trong lòng đất, mà có ngay trong lòng những chúng sinh vô hình là Ngạ quỷ, yêu tinh, ma quái, âm hồn, cô hồn bên cõi chết tự tạo ra để trừng phạt mình bởi do quả báo ác nghiệp của mỗi cá thể chúng sinh đó, chứ không phải do Phật, Trời nào tạo ra. Cho nên ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh, không những chỉ có riêng tại cõi người, mà có cả tại các nơi như trong núi Thiết Vi, Châu Diêm Phù, v.v... Riêng về Súc sinh, theo kinh Pháp Niệm nói có đến bốn mươi ức (bốn tỉ) loại Súc sinh từ địa ngục lên đến các cõi Trời. Cũng như loài Ngạ quỷ, không riêng ở cõi người, ở địa ngục, mà có cả tại cõi Trời. Ngạ quỷ tại cõi Trời chính là các binh lính, các tôi tớ của chư Thiên cõi Trời, như loài Dạ Xoa, La Sát, Kim Cương Thần, v.v... kể cả các nhạc thần như Ma Hầu La Già hay Kiến trúc thần như Ma Hê Thủ La đều là các Ngạ quỷ chuyên nghiệp cho cõi Trời. Vì chuyên nghiệp và tinh khôn nên được gọi là quỷ thần.

            Các loài chúng sinh tạp cư chung không gian với loài người tại trái đất, trong đó muôn loài súc sinh nói riêng tại cõi người từ lớn cho đến nhỏ cùng hít thở không khí. Riêng các loài súc vật lớn như trâu, bò, ngựa, voi, v.v... được đi chung con đường, tắm chung một dòng sông với con người và chiếm lấy một khoảng mặt bằng nho nhỏ trong việc mưu sinh và an nghỉ.

Riêng về các loài chúng sinh vô  hình: Atula nhân, Ngạ quỷ, âm hồn, cô hồn chung không gian với con người, đều có mặt khắp nơi, từ trong nhà, cây đa, bụi rậm, thung lũng, đỉnh núi, bờ sông, ven rừng, ven biển, góc tường, đường lộ, gốc cây, v.v... chỗ nào cũng có, nhưng không được hít thở không khí như con người, như các loài Súc sinh.

Chúng sinh vô hình chung không gian với loài người được cắt nghĩa là sự có mặt của tư tưởng mang nặng nhiều tính chất luyến tiếc danh vị chức tước ở quá khứ, tiền tài bị bỏ lại, luyến ái con cháu, người yêu, trả thù, trả oán...  của mỗi cá thể vô hình đang hướng về cõi người, do vậy không gian trái đất loài người là sở trụ của chúng sinh vô hình, nhưng không phải chạm mặt đất, hay chiếm lấy một khoảng mặt bằng cố định, mà là xuyên suốt bập bềnh, ẩn hiện lờ mờ đó đây khi bảy quan năng vô tri giác của họ vùng lên cực mạnh. Cho nên an trú ở các nơi tàng cây, hóc đá, hang động, mỏm núi, góc tường, nhưng không bị các nơi hữu vi trên ngăn cách, chi phối, cản trở, đều xuyên suốt riêng biệt trong bầu ánh sáng u tối. Nếu không nói là đông đúc, dày đặc như bụi trần, la liệt khắp không gian trên, dưới, ngang, dọc đó đây. Chỗ nào cũng có vô số vong linh Atula, Ngạ quỷ, Yêu, Tinh, âm hồn, cô hồn được xuất thân từ con người giàu, nghèo, trí thức, vua , quan, hạng sĩ và bình dân vốn đã tạo ra các nghiệp vọng thức như đã nói ở trên khi còn sống tại cõi người.

Trong vô số lượng chúng sinh vô hình tạp cư bên cõi chết, trong đó không riêng gì vong linh trung ấm con người, mà có cả vong linh trung ấm của muôn loài súc sinh nhỏ, lớn tại trái đất này, trên khô, dưới nước, đều tạp cư bên cõi chết sau khi bản thân hữu hình bị chết đi. Do vậy chỉ trong một nháy mắt, bên cõi chết tiếp nhận vô số lượng, hằng tỷ tỷ vong linh trung ấm con người và muôn loài súc sinh lớn, nhỏ khác nhau. Qua đây cho ta thấy rằng, vong linh trung ấm bên cõi chết lúc nào cũng có mới. Mới, là từ cõi người qua trong thời gian nằm chờ thác sinh đến môi trường mới không nhất định phải đúng là bảy tuần; có thể vài hôm, một hay hai tuần... đã ra đi thác sinh. Với vong linh trung ấm, dù nhỏ như loài kiến, phù du... , lớn như con voi, cá voi, trâu, bò, heo, ngựa, chim ưng,... và con người già hay trẻ con, hài nhi... tất cả đều cùng một hình tướng của một đứa trẻ lên 15, 16 và thể tính như nhau, đó là ấm (tối tăm, u ám).

Vong linh trung ấm mới mà không bị, không được thác sinh vào môi trường mới, thì nằm lại do nghiệp lực được phát sinh từ ý thức, nếu không nói là tâm tư hoài vọng, thương (yêu), luyến tiếc, oán hờn về quá khứ. Cho nên vong linh con người và súc sinh bên cõi chết ra đi thác sinh cũng nhiều và ở lại cũng không ít. Một khi bị ở lại, thân trung ấm tự thác sinh tại chỗ làm kiếp Atula, loài Ngạ quỷ, yêu tinh, âm hồn, cô hồn (ma) theo quy luật nhân quả. Từ quy luật nhân quả, vong linh trung ấm tự thác sinh qua các loài chúng sinh hữu hình. Từ hữu hình bị chết đi, tự thác sinh thân trung ấm, thân trung ấm tự thác sinh thân ngạ quỷ, yêu tinh... Cứ như thế mà luân hồi lên, xuống. Chẳng hạn bà Hy Thị là vợ của vua Lương Võ Đế có tâm nham hiểm, độc ác lúc còn sống, do vậy sau khi chết, vong  linh trung ấm của bà bị thác sinh làm thân con rắn mãn xà tanh hôi. Sau đó thân rắn mãn xà bị chết đi, vong linh trung ấm mãn xà tự thác sinh làm thân ngạ quỷ tinh khôn (yêu tinh) hiện lên hằng đêm với tiếng than khóc theo quy luật nhân quả, chứ không phải từ thân rắn hữu hình tự biến ra thân yêu tinh vô hình.

Những vong linh không thác sinh vào các cõi Phât, Trời, cõi người, Atula ở núi Tu Di, súc sinh tại cõi người, Ngạ quỷ ở địa ngục trong núi Thiết Vi, thì nhất định phải thác sinh vào các loài Atula, Ngạ quỷ, yêu tinh, ma trơi, âm hồn, cô hồn tại không gian loài người theo nghiệp của vọng tâm (sẽ nói ở đề tài giai tầng). Một khi các vong linh lưu lại cõi người như vậy, mỗi vong linh tự xây dựng cho mình một căn nhà vô hình, tức là bầu ánh sáng bằng chất liệu tư tưởng. Chất liệu đó là gì? Như đã nói, đó là tâm vọng, vọng nhiều thứ, mỗi cá thể vong linh có vọng khác nhau, được điển hình rõ nét qua những câu chuyện được nói ở trước, như: Bà mẹ hiện về tát tai...; một nữ sinh Đà Nẵng...; bị chết oan hiện về khiếu nại...; bị chồng đâm chết hiện về báo cho quan phủ...; hai vong linh người Thượng...; Triệu Thố bị viên án xử oan v.v...

Đời là cõi mộng, hay nói khác hơn đời là cõi vọng, cho nên con người trong mọi giai cấp xã hội đều có tâm vọng, có tôn giáo vẫn còn vọng. Một người giàu ở cạnh người nghèo có tâm vọng của kẻ giàu, người nghèo có tâm vọng của người nghèo. Hai người chung nhà, mỗi người có tâm vọng khác nhau gọi là “đồng sàn dị mộng”. Từ đó cho ta thấy rằng con người trong mọi giai cấp, mặc dù tạp cư trên một vùng đất tỉnh  hay quận, nhà nhà san sát nhau, nhưng tư tưởng cách biệt nhau. Tuy nhiên giai cấp nào gần gũi giai cấp đó, nhưng tâm vọng vẫn khác nhau. Tức là cùng thể vọng, nhưng cách vọng và đối tượng vọng thì khác nhau, giống như các loại nước ngọt. Có loại màu vàng sậm do chất cam, có loại màu nâu do chất táo, có loại màu đen do chất nho đen, v.v... Nhưng tất cả có cùng chung thể lỏng là nước.

Cũng như vậy, qua bên kia cõi chết, mặc dù tất cả vong linh, âm hồn, cô hồn, ngạ quỷ, đều tạp cư chung đó đây tại không gian cõi người, đó là cùng thể vọng, nhưng bầu ánh sáng có màu u ám như thế nào (lục mờ của Atula, đỏ mờ của các loại ngạ quỷ yêu tinh) của mỗi loài vô hình có tính cách riêng biệt, tức là của ai nấy ở, thật là cô đơn, không ở chung chạ trong bầu ánh sáng của nhau, không bao giờ loài Atula gần ngạ quỷ, âm hồn không gần yêu tinh v.v... Đó là những cách vọng và đối tượng vọng. Do cách vọng và đối tượng vọng, mà bị thác sinh thân chúng sinh vô hình ngạ quỷ, âm hồn hay yêu tinh... Cách vọng và đối tượng vọng của các loài chúng sinh vô hình đã có ngay tại cõi trần lúc còn sống trên đời, mặc dù họ gặp nhau, trí thức gặp trí thức, giàu gặp giàu, nghèo gặp nghèo, sĩ gặp sĩ... và giao tế trong cộng đồng. Nhưng mỗi người có cách vọng và đối tượng vọng khác nhau trong tâm. Đó là về lãnh vực tư tưởng vọng không chung chạ nhau. Nhưng về lãnh vực vật chất thể  xác, thì con người có thể lấy nhau, ở chung nhau, sanh con đẻ cái, đánh nhau, ôm vật nhau. Qua bên kia cõi chết thì hoàn toàn không ai có thể bước vào bầu ánh sáng của nhau, không lấy nhau do không bộ sinh dục, mặc dù có tướng nam (quỷ đực) tướng nữ (quỷ cái) và không có 9 lỗ cơ quan bài tiết sinh vật lý, chỉ có ý niệm về dâm dục, cho nên không có sanh con, quỷ cha, quỷ mẹ, quỷ con, quỷ cháu, ma cha, ma mẹ, ma con v.v... Tuy nhiên giai tầng nào gặp giai tầng đó trong giao cảm; quỷ gặp quỷ, cô hồn gặp cô hồn, vong linh quyến thuộc gặp nhau, yêu tinh gặp yêu tinh, v.v... Điển hình rõ nét, một con quỷ ốm gầy gặp con quỷ mạnh hơn tại cầu xí, thì con quỷ mạnh hơn lấy gậy đánh vào đầu con quỷ gầy ốm vì tranh nhau phẩn (Lương Hoàng Sám – phẩm Diễn Đạt Quả Báo – trang 2004).

Gậy mà con quỷ mạnh hơn cầm đánh con quỷ gầy ốm, cũng chỉ là do thức biến ra, do ý nghĩ sát phạt khi sinh khởi tâm ganh tỵ, sân hận, giận dữ, chứ không có thật như loại gậy bằng gỗ, bằng sắt hữu hình. Cho nên con quỷ ốm gầy cảm thấy bị đánh bằng gậy, bị đau đớn... là do thức của nó tiếp nhận cái thức của con quỷ kia. Cả hai sức mạnh của thức gặp nhau mà sanh ra quả vô hình. Từ đó cho ta thấy cơm mà tôn giả Mục Liên đem dâng cho mẹ là bà Thanh Đề cũng do thức biến chứ không phải thứ cơm hiện thực. Nhưng bà Thanh Đề không ăn được là do sức mạnh của lòng tham trong ý thức bà Thanh Đề biến ra thành lửa.

 

GIAI TẦNG CỦA CÁC LOÀI CHÚNG SINH VÔ HÌNH

TẠI CÕI NGƯỜI

 

Giai tầng của các loài chúng sinh vô hình được nói đến sau đây là riêng tại trái đất cõi người, chứ chưa nói đến các cõi ngoài không gian trái đất xa xôi vô tận. Mặc dù ta đã biết các loài Atula đang ở bốn bên núi Tu Di, vô số loại ngạ quỷ đang chịu tội cực hình trong các loại địa ngục tại núi Thiết Vi ở phía đông của Châu Diêm Phủ Đề, nhưng ta không nói, mà chỉ nói các loài Atula, ma, quỷ, yêu tinh tại cõi người. Bởi vì có nhiều hiện tượng hình bóng ma, quỷ, yêu tinh, thánh, thần, vong linh người chết dù chập chờn ẩn hiện, nhưng đã và đang hiện hữu một cách sinh động và chung chạ ngay giữa không gian xã hội con người không đâu xa, rất phổ biến, được dân gian xưa nay thường nói đến các chuyện vong linh người chết, yêu tinh, ma, quỷ, thánh, thần hiện lên hiện xuống một cách hiển linh đáng kể. Nhất hạng trên quê hương ta, tại xứ sở ta đã và đang có nhiều hiện tượng thánh, thần, yêu tinh, ma quái như vậy, ta cần phải biết đến.

Biết đến để thấy rõ những chúng sinh vô hình tại cõi người và tại núi Thiết Vi, núi Tu Di đều khác nhau về sinh mệnh và môi trường, cho nên không qua lại, ở đâu là ở đó. Và cũng không do đấng tạo hóa nào tạo ra họ, mà chính họ tự tạo ra sinh mệnh (chánh báo) và môi trường sống (y báo) sau khi thân người bị chết đi. Biết đến để thấy bị làm thân Atula, ma, quỷ tại cõi người hay tại núi Thiết Vi, Tu Di là do tổng thể nghiệp ác trong thức A-Lại-Da mang tính chất các loài trên. Chứ không phải do một đấng tạo hóa nào định đoạt phải làm thân này, thân kia tại cõi kia, chốn nọ.

Đích thực do tổng thể quả báo nghiệp, cho nên cũng thì thân ngạ quỷ như nhau, nhưng thân ngạ quỷ tại các địa ngục trong núi Thiết Vi bị chịu nhiều cực hình đau đớn, khổ lụy, nóng bức, giá băng, đói khát, v.v... còn thân ngạ quỷ tại cõi người được tự do cư trú trong bầu ánh sáng u tối nhỏ hẹp của mình, không bị nhiều khổ lụy về nóng, lạnh, đau đớn, đói khát và được tự do đi đến kiếm ăn như đến nhà xí lấy phẩn hay được vị Tiêu Diện hướng dẫn đến các đạo tràng Chẩn tế để hưởng thực và nghe pháp, v.v... Trong khi đó các ngạ quỷ trong địa ngục ở núi Thiết Vi luôn bị cực hình, đói khát, không được ra khỏi địa ngục. Chẳng hạn bà Thanh Đề làm thân ngạ quỷ tại địa ngục trong núi Thiết Vi.

Qua hai hạng ngạ quỷ tại cõi người (hậu thân của vong linh, ma, âm hồn, cô hồn) và tại các địa ngục trong núi Thiết Vi, cho ta thấy rằng ngạ quỷ tại không gian cõi người, nói chung là chúng sinh vô hình, tất cả đều do tâm con người lúc còn sống trên đời bị nhiều thứ vọng. Vọng khác với hành động tội ác trọng hay khinh (nặng, nhẹ). Cho nên trọng tội hay khinh tội đều đi xuống làm súc sinh, ngạ quỷ tại địa ngục ở núi Thiết Vi. Vì do vọng mà không được siêu lên cõi Phật, cõi Trời hay không bị làm thân súc sinh, ngạ quỷ tại các địa ngục trong núi Thiết Vi, mà chỉ bị làm thân Atula, ma, âm hồn, cô hồn, ngạ quỷ tại không gian cõi người đều do tâm tham vọng.

Vì thế cho nên Giai Tầng của các loài chúng sinh vô hình bên kia cõi chết tại không gian cõi người được xem là cõi vọng. Vọng từ khi còn sống trên đời. Vọng đó là gì? Đó là cái tâm tham ái, luyến tiếc, hận thù, si mê, hoài nghi, biên kiến, chấp thủ, bảo thủ, ngã kiến về sự hiểu biết của mình, vị kỷ, bỉ thử trong đối đãi. Tất cả cái tâm vọng trên mới chỉ là ý nghiệp, chưa phải là hành động gây tội ác. Nhưng lại là cái năng lực trở thành những loại thân vô hình bị lưu đày tại không gian cõi người với thời gian có khi cả ngàn năm chưa thoát kiếp, nếu chưa được giải oan. Cho nên cái tâm mê vọng được xem là nguy hiểm nhất, trong đó cái tâm mang tính chất Sở tri chướng (chấp về sự học vấn có bằng cấp cao) còn nguy hại hơn, là năng lực bị lưu đày mãi bên cõi chết dù cho Phật pháp đến bằng nhiều cách, họ vẫn không nghe, không chịu tiếp nhận vào lòng.

Vì là tâm mê vọng, cho nên những giai tầng của các loài chúng sinh vô hình tại không gian loài người, không có nghĩa là riêng biệt theo thứ tự từ trên không trung thẳng xuống như cái thang dây hay như một cao ốc có nhiều tầng, mà là rất phức tạp y như lúc sống trên đời. Sống trên đời có giai cấp về thể chất là giàu, nghèo, vua, quan, trí thức, kẻ sĩ, bình dân. Nhưng qua cõi chết bị  thanh lọc qua sáu giai tầng, trong đó không dành riêng cho kẻ sĩ hay bình dân. Ai là người tâm có vọng ít mà thanh cao thì ở trong các giai tầng trên hết. Ai là người có tâm vọng chấp bình thường thì ở các giai tầng bậc trung. Ai là người có cái tâm quá ư vọng chấp cực độ thì ở trong các giai tầng thấp nhất. Tất cả các giai tầng đó thuộc trong phạm vi cõi người, chứ không phải ở tại các cõi trời hay cõi Atula tại núi Tu Di cách cõi người hằng tỷ cây số.

Bản thân chúng sinh vô hình tại cõi người không thể chạm vào mặt đất, đều hỏng trên mặt đất từ ba tấc đến trăm mét, ngàn mét, chứ không cao ngất tận trời xanh và không thể đến các cõi xa ngoài trái đất, chỉ lẩn quẩn trong phạm vi trái đất này từ xứ Mỹ về xứ Việt, từ Việt đến Mỹ, v.v... không có gì trở ngại. Chẳng hạn bà cụ NH từ Việt Nam qua tận Texas để trừng phạt đứa con phản bội đạo lý dân tộc bằng mấy tát tai.

Ngoại trừ chư Phật, Bồ Tát được xuyên suốt vô ngại từ các cõi Phật này qua các cõi Phật khác, hay từ cõi Trời này đến cõi Trời khác và xuống tận các địa ngục ở núi Thiết Vi, đến cõi người, v.v... một cách tự tại vô ngại với khoảng cách hằng tỷ năm ánh sáng, cho mục đích nói pháp hóa độ. Bởi vì thân của Phật và chư vị Bồ Tát không phải là vô hình, hữu hình, mà là pháp thân đã vượt thoát mọi sinh tử luân hồi do có Đại trí tuệ bình đẳng siêu tuyệt tạo nên.

 

 

SÁU GIAI TẦNG CỦA CÁC LOÀI CHÚNG SINH VÔ HÌNH

TẠI KHÔNG GIAN CÕI NGƯỜI

            Trước khi nói đến sáu giai tầng của mỗi loài chúng sinh vô hình tại không gian cõi người, xin xác định lại lần nữa về các loài Trời từ sáu cõi Trời dục giới trở lên vô sắc giới, các loài Atula ở bốn phía núi Tu Di với khoảng cách một ngàn do tuần (tương đương 10 ngàn cây số) và các loài ngạ quỷ trong vô số địa ngục ở núi Thiết Vi, hoàn toàn không thể cư trú tại không gian cõi người. Tuy nhiên, duy chỉ có một số loài Trời tại cõi Trời tha hóa và Tứ Thiên Vương là thỉnh thoảng xuống không gian cõi người vì có sự liên hệ mật thiết với con người cho nhiều mục đích, trong đó có phô trương tài năng với các thánh thần,... chứ không phải đón rước vong linh người chết về các cõi Trời của họ, dù lúc sống đã làm nhiều việc ác, nhưng có thờ phượng họ (các đấng Trời) trong lòng; hay là bắt các vong linh người chết vào các địa ngục dù có làm nhiều việc thiện, nhưng không tôn thờ họ, không tin tài năng của họ.

Vô số loài chúng sinh vô hình bị cư trú tại không gian cõi người là do cái tâm tham và vọng, gọi chung là tham vọng. Tâm tham sinh ra sân hận, si mê, ngã mạn, hoài nghi và ác kiến. Tâm vọng là tâm luyến tiếc, luyến ái, hận thù, oán hờn, tranh cãi, hung hãn...

Tâm tham nhiều, vọng nhiều sinh ra hành động tội ác lớn (trọng tội) là năng lực thác sinh thân ngạ quỷ tại các địa ngục trong núi Thiết Vi.

Tâm tham ít, vọng ít không sinh ra tội ác lớn, là năng lực thác sinh làm thân chúng sinh vô hình tại không gian cõi người. Điều này được chứng minh rõ qua con quỷ tại bờ sông Hằng mà ngài Mục Kiền Liên đã gặp và trả lời câu hỏi của nó, như đã nói ở trang trước, là loài quỷ do lòng tham, bỏn sẻn, không bố thí cho tha nhân. Còn các loài ngạ quỷ trong vô số địa ngục ở núi Thiết Vi, mà kinh Địa Tạng đã nói, là do tâm độc ác gây ra nhiều hành động tội ác lớn, chẳng hạn bà Thanh Đề được chứng minh rõ thực nhất không sai chạy khỏi định luật nhân quả.

Vì thế cho nên cái nhân do tâm khởi lên ý niệm ác, tham và vọng (chưa tạo ra hành động hình sự) sẽ là năng lực thác sinh làm thân chúng sinh vô hình tại không gian cõi người, một trong sáu giai tầng sau đây:

 

Giai tầng số một: Đây là cõi của loài Atula nhất đẳng. Loài Atula nhất đẳng này là hậu thân của hạng người nam, nữ trong mọi giai cấp xã hội, lúc còn sống trên đời có quyết tâm quay về đạo Phật, đạo Trời.

Về với đạo Phật vì mục đích tìm cầu cho mình con đường giải thoát sinh tử luân hồi, cho nên đã phát tâm quy y Tam Bảo có thọ giới và công phu tu tập các pháp môn mang thực chất nguyên lý giải thoát được phù hợp với căn cơ cao, thấp của mình, như Thiền Định, Tịnh Độ, Mật Tông hay các pháp khác như Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), Tứ Nhiếp Pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), v.v... và bên cạnh đó họ có thực hành các việc từ thiện như bố thí vật chất cho kẻ nghèo khó, khốn khổ, cũng như cúng dường Tam Bảo như mua chùa, đúc chuông, tạo tượng, in kinh sách là những pháp môn phụ có tính cách trợ giúp cho cái tâm mau tiến đến trí tuệ vô ngã. Được trí tuệ vô ngã như vậy, là khi tâm thực hành cả hai pháp môn chính và phụ đều phải thực hành đúng trên tinh thần vô ngã, thì tâm mới có thể an trú ở ngôi vị chân không, tánh không, chơn tâm, vô ngã do tu pháp Thiền Định. Hay là nhứt tâm bất loạn do tu pháp môn Tịnh Độ hay bất cứ pháp môn nào khác, cái tâm cũng không thể bị vọng động, luôn nhứt tâm bất loạn. Hai chữ nhứt tâm có nghĩa là một tâm. Một tâm là tâm Phật, không có tâm nào khác hơn, đó là năng lực giải thoát sinh tử (chứng quả Niết Bàn, Vãng sinh cực lạc)

Nhưng những hạng người quay về đạo Phật nói trên không được giải thoát ra khỏi lục đạo, không được vãng sinh, bị thác sinh làm kiếp Atula tại không gian cõi người, là do cái tâm còn mang nặng tính chất hữu ngã, vô minh, vọng động... Mặc dù diệt được tâm tham nên có phước báo hữu lậu do bố thí, cúng dường Tam Bảo rất nhiều việc, nhiều thứ. Nhưng phước báo hữu lậu chưa đủ năng lực giải thoát sinh tử, không thể vãng sinh cực lạc. Lại thêm cái tâm còn chứa đựng các tính chất Atula, đó là tâm sân, si, ngã mạn và hoài nghi, nên phải bị đọa vào loài Atula. Nếu tính chất Atula được thanh nhẹ, thì được thác sinh làm loài Atula ở bốn phía núi Tu Di. Ngược lại, bị làm loài Atula tại không gian loài người (Atula nhân) do vì những tính chất Atula còn quá ư nặng nề và ô trược trong tâm thức.

Về với đạo Trời. Đạo Trời ở đây là Thiên Đạo, một trong năm Thừa, mà đức Phật đã thuyết minh cho chúng sinh tại cõi người được biết về đời sống và sự thọ mạng của chúng sinh trên các cõi Trời là được sống lâu cả ngàn năm và được có một đời sống đầy sung mãn vật chất và hạnh phúc do lúc còn làm người có tu tập về mười giới thiện nghiệp và pháp bố thí. Nhưng chúng sinh tại các cõi Trời vẫn còn nằm trong sự chi phối của sinh tử luân hồi trong lục đạo do sau khi hưởng hết phước. Chứ không phải đạo Trời như các tôn giáo thờ Trời hiện nay.

Đạo Trời (Thiên Đạo) trong đạo Phật, là người tu tập phải hành trì mười giới thiện nghiệp và các việc phước thiện. Người tu hai pháp này sẽ được siêu thoát lên các cõi Trời do mức độ của tâm thanh tịnh ở cấp độ thấp. Nhưng lại bị đọa lạc vào kiếp Atula nhất đẳng tại cõi người, cũng là giai do cái tâm còn sân si ngã mạn, hoài nghi, mặc dù họ có bỏ cái tâm tham do bố thí, cúng dường là phước báo hữu lậu. Phước báo hữu lậu có thể sinh lên các cõi Trời, nhưng vì còn tâm sân, si, ngã mạn và hoài nghi, cho nên phải bị thác sinh loài Atula tại cõi người, được gọi là Atula nhân.

Hai hạng người tu về đạo Phật, Thiên đạo, không được siêu thoát lên mục tiêu mong muốn, bị làm loài Atula cõi người, đều được người đời tôn xưng bậc Thánh, như Thiên Y Thánh Mẫu, Thánh Chúa, Thánh Ông, v.v...

 

Giai tầng số hai. Đây là cõi của loài Atula nhị đẳng. Loài Atula nhị đẳng này là hậu thân của hạng người lúc còn sống trên đời, họ là những nhà lãnh đạo quốc gia (vua, tổng thống), tướng quân, quan chức, chí sĩ chính trị có đạo đức nhân từ, đạo lý trung, hiếu, ân, nghĩa. Vì thế cho nên họ sống cuộc đời liêm khiết, sẵn sàng hy sinh cho đại cuộc quốc gia để đem lại lợi ích cho toàn dân trên các cơ sở kinh bang tế thế, đánh đuổi ngoại xâm đem lại thanh bình cho dân tộc. Do vậy mà tâm hồn của họ không bao giờ được yên tịnh, luôn luôn suy tư, khó ngủ, hoài bão, nếu không nói là nhiều hoài vọng quốc gia bị nguy biến, suy vong... Đây là lúc tâm hồn họ bị sân hận, si mê, hoài nghi và ác kiến với người chung quanh. Và khi quốc gia hưng thịnh, chiến thắng ngoại xâm... Đây là lúc lòng họ tràn đầy ngã mạn. Những phiền não, ô trược đang hiện hữu trong lòng họ khi quốc gia được thịnh, hay suy. Đó là điều tất yếu không thể tránh khỏi đối với những hạng người nói trên trong vai trò của họ là không làm các điều ác, chỉ làm các điều thiện, nhưng tâm hồn không thanh tịnh, còn vọng động. Cho nên sau khi chết, họ bị thác sinh vào loài Atula bậc nhị đẳng. Atula nhị đẳng được người đời gọi là THẦN, đúng như người xưa nói: “Sống vi tướng, tử vi thần”.

Những hàng Atula nhị đẳng cũng thuộc Atula nhân, tức là các vị Thần Linh. Các vị Thần Linh còn được gọi là “Hồn Thiêng Đất Nước”. Như đã nói, các vị Thần Linh này được xuất thân từ các vị vua quan, tướng quân có tâm thanh liêm, đạo đức, vì vậy mà  khi còn sống họ biết lo hạnh phúc, ấm no cho dân tộc và biết thương yêu, mến chuộng người hiền lành có tấm lòng giúp đỡ tha nhân khi bị nghèo khó, khốn đốn. Cho nên bên kia cõi chết, những vị Thần Linh này cũng không quên hướng về trần gian để theo dõi quan sát người hiền lành khi bị nạn, khốn cùng, mà sẵn sàng ra tay cứu khổ.

Để chứng minh các vị Thần Linh giúp đỡ, cứu khổ người hiền lành bị nạn qua hai câu chuyện sau đây do các đương sự được Thần Linh cứu khổ, đã kể lại:

1.Ông Trần Văn Cao, cựu Trung tá QLVNCH, làm việc tại bộ Tổng Tham Mưu trước 1975, trong thời gian ở tại trại cải tạo Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Một hôm ông bị tiêu chảy suốt một ngày mà không có thuốc nào cầm được, do vậy ông đã tắt thở. Sau đó xác ông đã đưa vào nhà xác gần bệnh xá lúc chiều tối để chờ sáng mai là đem chôn. Đến giữa đêm, ông Cao thấy một vùng ánh sáng bao trùm cả căn phòng nhà xác. Trong ánh sáng ấy, ông Cao thấy có bốn vị Thần Linh với tướng trạng đội mão cánh chuồn, râu trắng dài thòng trước ngực, mặc áo trắng tay rộng. Bốn vị ngồi hai bên xác ông. Hai vị phía đầu, hai vị phía chân. Hai vị phía chân nắm hai chân, hai vị trên đầu nắm hai tay ông Cao, rồi lắc qua lắc lại thật mạnh. Trong lúc lắc như vậy, bốn vị đồng nói lớn “Ngươi chưa tới số chết, ta sẽ cứu ngươi sống. Vì ngươi vốn là người hiền có đạo đức, biết giúp đỡ tha nhân”. Sau đó ông Cao mở mắt ra, thấy mình nằm tại nhà xác trong ánh đèn dầu lờ mờ. Lúc bấy giờ ông cảm thấy khát nước, ông liền nói ra tiếng: “Tôi khát nước, cho tôi uống nước”. Tiếng đòi uống nước của ông Cao được vang vọng giữa đêm khuya thanh vắng, làm cho người công an tuần tra đi ngoài nghe được. Sau đó ông được người công an đem nước vào cho uống và đưa ông vào lại bệnh xá ngay giữa đêm khuya. Chỉ qua một ngày tịnh dưỡng tại bệnh xá, ông Cao được lành hẳn. Qua đến ngày mai ông về lại đội và đi lao động bình thường.

Ông Cao đang sống tại Seattle, Washington State. Đúng như lời bạn bè và thân quyến của ông đã khẳng định, ông Cao là người vốn có đức tính hiền lành, đạo đức, nên đã từng giúp đỡ bạn bè, xóm làng khi bị hoạn nạn, đói khổ lúc còn đi học, cho đến khi ra làm quan trong quân đội VNCH, không bao giờ quên nghĩa vụ cứu giúp tha nhân bị hoạn nạn. Do đó khi ông bị hoạn nạn, được các vị Thần Linh đến cứu nạn.

2.Ông Trần Long Đức, người dân Bình Định, Phù Mỹ, nguyên là đại đội trưởng ĐPQ. Sau ngày cải tạo về, ông vượt biên vào ngày 5 tháng 11 năm 1981 cùng với nhiều người trên tàu. Ông Đức phụ trách lái tàu, nhưng đến ngày 8 tháng 11 năm 1981, tàu bị hư bánh lái, nên phải dừng lại lênh đênh giữa biển để sửa. Sửa gần cả hai, ba ngày mà bánh lái vẫn không quay được. Thế là mọi người trên tàu, ai theo đạo nào lo tụng kinh đạo đó để chờ cái chết đến. Thì vào chiều nhá nhem, ông Đức đang ngồi trong buồng lái, bỗng thấy một luồng ánh sáng xẹt qua trước mặt ông, liền sau đó có tiếng nói từ trên không trung vọng xuống, nói rằng: “Tất cả mọi người hãy an tâm, sáng mai lúc 6 giờ có nước uống, đến 12 giờ có tàu rước”.

Sau khi nghe rõ lời nói của bậc Thần Linh, ông Đức liền tuyên bố cho mọi người trên tàu được biết, được nghe trước về lời hứa cứu khổ cứu nạn của các Thần Linh, chứ không phải “sự việc” đến rồi mới nói.

Quả thật, trời mới hừng đông, đúng 6 giờ, trên hư không có một đám mây đen quần vũ chừng mươi phút, thì đổ mưa xuống. Mọi người trên tàu đem vải ni lông ra hứng nước. Khi số nước được hứng khá nhiều và dư thừa, thì trời tạnh. Đến 12 giờ trưa đúng, có một chiếc tàu thủy lớn từ xa tiến đến chỗ tàu ông bị nạn. Sau đó tất cả mọi người trên tàu được các thủy thủ trên tàu lớn thả dây cáp xuống kéo lên và đưa về trại tỵ nạn.

Theo lời ông Đức kể với tác giả rằng: từ khi sinh ra và lớn lên thành người thanh niên giữa quê hương Phù Mỹ, ông Đức luôn luôn thương người, giúp đỡ tha nhân lúc bị đói khổ, bị hoạn nạn. Và ông cũng nói rằng: ông theo đạo thờ ông bà cho nên ông không quên bổn phận thờ phượng, cúng tế tổ quốc, tiền nhân, tổ tiên, ông bà. Vì vậy khi bị hoạn nạn, bị nguy khốn, đói khổ đều được bà con xóm làng đến giúp đỡ và khi bị ngộ nạn trong chiến tranh, bị nguy khốn lúc vượt biên đều được chư vị Thần Linh (anh linh đất nước) cứu khổ nạn cho ông.

Ông Đức hiện đang sinh sống tại Los Angeles, điện thoại số (818) 442-1188

 

Nơi cư trú nhất định của hai loài Atula nhất đẳng, nhị đẳng tại không gian cõi người là ở ven bờ biển, trên các đồi núi có tính cách biệt lập xa lánh xã hội bình dân nghèo khổ. Đó là bản chất cố hữu của họ ngay khi còn làm người, họ đã ở trong ngôi nhà cao rộng của họ tại các ven biển, núi đồi, cho nên sau khi chết họ cũng trú ẩn tại các nơi trên. Nhưng khi còn sống, trong việc mưu sinh hằng ngày, họ lại có mặt giữa các phố thị đông đúc đám bình dân tại cơ sở làm việc, dinh thự và phố riêng tại ngay giữa lòng xã hội dân nghèo từ sáng đến chiều. Sau đó thì về an trú nơi căn nhà riêng của họ ở ven biển, núi đồi. Vì vậy mà bên kia cõi chết họ thường lai vãng đến cơ sở cũ, mà khi còn sống họ đã làm việc ở đó. Chẳng hạn, tại tòa Bạch Ốc, người ta đã nhiều lần thấy cựu Tổng Thống Abraham Lincoln từ trên lầu đi xuống thang lầu vào giữa đêm khuya. Và người ta cũng nhiều lần thấy bà tổng thống Abraham Lincoln xuất hiện tại vườn hoa cũ do bà tạo ra bên cạnh tòa Bạch Ốc vào sáng sớm với bình tưới trên tay đang tưới nước lên những bụi hoa hồng.

Bên kia cõi chết, hai hạng Atula nhất đẳng nhị đẳng, nếu tiếp tục hành trì Phật pháp và 10 điều thiện với cái tâm không còn tham vọng, sân si, ngã mạn, hoài nghi nữa do thấy biết mình bị làm loài Atula. Rõ thực điều này họ có tu tập tại các chùa khi mang thân Atula. Tại vì mắt phàm của ta không thể thấy họ. Chỉ có chư Phật, Bồ Tát, chư vị tổ sư có chứng đạo mới thấy được họ đã và đang lai vãng đến chùa để nghe kinh, nghe pháp và kể cả bảo vệ chốn già lam được an ổn, trang nghiêm bằng cách ngăn chận các ngạ quỷ, âm hồn, cô hồn không được phá phách, gây náo loạn, phải trật tự khi đến chùa để được hưởng cam lồ thí thực.

Do đã thấy tận mắt, cho nên chư vị tổ đã làm ra bài văn tán tán hành động đến chùa nghe pháp, nghe kinh và hộ trì đạo pháp của họ. Bài văn đó lấy tên là “Tùy Sở Trú Xứ Thường An Lạc” (Thiện Atula Dược Xoa đẳng, lai thính pháp giả ưng chí tâm, ủng hộ Phật pháp sở trường tồn...).

Tuy nhiên, không phải tất cả loài Atula đều đến chùa, nghe kinh, nghe pháp, bảo vệ Đạo Pháp được trường tồn. Chỉ một số nào đó thôi. Còn lại, một số thì ưa thích nhập vào đồng cốt, lên cơ nói ra lời khoác lác tự xưng với người trần mình là đấng nọ, đấng kia từ trời nọ trời kia xuống. Thậm chí còn tự xưng Quán Thế Âm nữa, đúng như lời người đời nói: “Ở đâu cũng có anh hùng, ở đâu cũng có thằng khùng, thằng điên”. Còn một số khác thì chuyên đi đánh phá, ám hại người trần một khi vô tình lỡ lầm có hành động vô lễ trước mặt họ tại đền miếu, cây đa, v.v... Cho nên có những nơi đền, miếu, cây đa, đồi núi trước đây có tiếng là vị thần, thánh ở đó rất linh, thì nay không còn linh nữa! Điều đó chứng tỏ rằng họ đã được siêu lên cõi Phật, cõi Trời, được tái sinh lại làm người hay đã bị đọa vào địa ngục rồi.

Đích thực, riêng về lãnh vực Atula được tái sinh lại làm người rất là dễ thấy, dễ biết qua những hành động và ngôn ngữ đối đãi của họ trước mọi người, là biết ngay kiếp trước của họ là Atula. Bởi vì bản chất của Atula là sân hận, si mê, ngã mạn và hoài nghi.

Với loài Atula, như đã nói, họ có cội gốc về Phật đạo, Thiên đạo, Nhân đạo, nhưng vì lầm lẫn về pháp môn tu, nên đã đi ra khỏi chánh pháp, lạc vào tà đạo. Cho nên khi tái sinh lại làm người, họ sẵn sàng làm việc nhân nghĩa như bố thí cho kẻ nghèo tiền của rất là hăng say tích cực và hết lòng với Tam Bảo như mua chùa, cúng chuông, cúng tượng. Bên cạnh đó tâm tư ưa tin vào tà đạo về bùa chú và cũng thường hoài nghi kẻ khác về việc này, việc nọ một khi chưa biết rõ sự việc, tức là vội tin và đồng lõa với kẻ phá hoại cộng đồng hay đánh phá từng cá nhân. Vì vậy mà cộng đồng Phật giáo Việt Nam nói riêng ở hải ngoại đang bị chia rẽ, hận thù nhau, đấu đá nhau... giai do những loài Atula tái sinh làm người trở lại, rồi cũng quay về đạo Phật cho mục đích tìm cầu con đường giải thoát. Giải thoát đâu chưa thấy, chỉ thấy họ (loài Atula tái sinh) vừa tích cực ủng hộ Phật pháp, lại vừa gây ra sự bất an cho cộng đồng Phật giáo, cho từng cá nhân tăng thân phải chùn chân đến chùa, ở nhà tự tu niệm là thượng sách.

Tóm lại, loài Atula tái sinh làm người “gặp nhân nghĩa thì làm, gặp việc sai quấy cũng không tránh, vừa cương trực, mà cũng vừa độc ác. Mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tính tình hung hăng nóng nảy vẫn còn, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm Atula, gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ cũng nhiều. (Lời giảng của cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa – Phật Học Phổ Thông trang 89, quyển nhứt)

 

Giai tầng số ba: Đây là cõi của những vong linh khi còn sống trên đời họ là những kẻ sĩ. Kẻ sĩ được cắt nghĩa là hàng trí thức, tức là những người có sở học thế gian được chứng thực qua các loại văn bằng thượng đẳng, trung đẳng về văn hóa, chuyên nghiệp khoa học, kỹ thuật. Từ những văn bằng ấy họ được có một sự nghiệp lớn, chức vị lớn trong xã hội. Hai thứ lớn ấy đưa họ đến ngôi vị giàu sang phú quý, hạnh phúc vật chất tuyệt vời. Và cũng từ hai thứ lớn ấy là một lá chắn ngăn chặn sự phát triển Phật tánh của họ, là tảng sắt lớn đè nặng Phật tánh của bị chìm sâu dưới mảnh bằng của họ. Và cũng từ hai thứ lớn ấy là hai cánh đại bàng bản ngã của họ càng lúc càng đập mạnh rồi bay cao lên tận mây xanh nhìn xuống sa mạc thế gian đang bốc lửa với nụ cười thờ ơ.

Nói một cách khác, sự hiểu biết của các hàng sĩ thuộc về thế gian chứ không phải xuất thế gian, vì chỉ có biết một chiều, nếu không nói là ếch ngồi đáy giếng, tức là cực đoan, bảo thủ, kiến thủ kiến (bảo thủ kiến thức), gọi cho đủ là sở tri chướng. Con người có sở tri chướng, dù cho có học Phật đến đâu, tâm thức của họ cũng không thể liễu ngộ được chân lý, tức là không thấy được đạo. Từ chỗ này cho ta thấy rằng rất ít những ông bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ  chịu mặc áo tràng, ngồi vào với đám bình dân trong buổi tu học Phật pháp! Cho nên sự có mặt của họ tại chùa không phải để cầu an, cầu phước hay xin xỏ sự giải thoát nơi đức Phật, nếu không nói là sự đến chùa của họ như là sự trưng bày sự nghiệp giàu sang và trí thức của họ trước mọi người. Đó chính là bản chất của hàng sĩ. Cho nên giữa đám bình dân đang hội họp, đang tu học, thình lình có một ông bác sĩ, hay nha sĩ, dược sĩ đến làm cho gương mặt của mọi người thực tại trở nên rạng rỡ hẳn lên. Đó là một tập quán cổ hủ cả ngàn đời nay chưa xóa bỏ được.

Với những hàng sĩ đa số rất thích cái tập quán cổ hủ nói trên, vì thế cho nên qua bên kia cõi chết, những vong linh của các hàng sĩ đều mang theo tất cả văn bằng, chức vị, sự hiểu biết thế gian... Thật sự các hàng sĩ lúc còn sống trên đời, họ không làm các điều ác và cũng ít làm các việc thiện, còn tâm hồn luôn luôn sống trong cực đoan, bảo thủ về kiến thức, nên không bao giờ chịu phục tùng ai cả. Đó chính là tâm vọng, mà đã là vọng thì không bao giờ được siêu lên và cũng không đi xuống vì do không làm điều ác, nhưng tâm không thanh tịnh. Do vậy mà bên kia cõi chết, vong linh của họ vẫn cứ làm việc như lúc còn sống, tức là vong linh họ có đến sở, rồi về nhà, rồi lại đi đó đây đến cảnh cũ. Ngôi nhà nhất định của họ từ lúc sống và chết cũng ở tại ven biển, núi đồi như những ngôi nhà của các hàng Atula vậy. Nhưng loài Atula còn đến chùa để nghe kinh, hộ trì Phật pháp. Còn các vong linh của hàng sĩ thì không, bởi vì lúc sinh tiền họ đâu có chịu tu tập Phật pháp. Từ chỗ này cho ta thấy rằng các vong linh hàng sĩ khó có thể tiếp nhận giáo pháp cầu siêu từ các Tăng Ni khi hành lễ cho họ. Vì lúc sống họ đâu có chịu bái phục Tăng bảo. Bên kia cõi chết làm sao họ có thể bái phục Tăng bảo. Đúng là sống như thế nào, chết như thế đó.

            Về thời gian của các hàng sĩ bên kia cõi chết đang sống trong căn nhà cũ của họ, cơ sở của họ khó mà tính lường được bao giờ sẽ được thoát khỏi kiếp ma trí thức ngã mạn đó!

 

Giai tầng số bốn: Đây là cõi của những vong linh khi còn làm người trên cõi trần, họ là những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ, khoa học, bác học, sử học. Cả cuộc đời của họ, từ lúc trưởng thành giữa trường đời đều chú tâm vào nghiệp vụ sở trường để dâng hiến cho đời lời thơ, lời văn, khúc nhạc, lời ca, tiếng cười, công thức toán học, dòng lịch sử, v.v... Tâm tư hướng về duy nhất nghiệp vụ như vậy, không phải là quên đời, mà là nhớ đến đời, quan tâm đến đời để mua vui cho đời, nếu không nói là hoài vọng, hoài bão một cách tích cực từ thầm lặng đến sống động, không ngừng nghỉ. Sự không ngừng nghỉ của tư tưởng và hành động nghiệp vụ ấy, chính là tự tạo ra cái xiềng xích trói buộc tâm hồn họ vào không gian cõi người. Cho nên sau khi xác thân cũ đã chết đi, tâm hồn họ vẫn còn đây trong tấm thân sương khói, nhưng vẫn tinh anh ngọc ngà còn biết.

Họ còn từng bước đi nhẹ nhõm như thuở nào bên hiên nhà với đôi mắt nhìn xa xăm gợi ý vần thơ. Họ còn ngồi yên nơi bàn cũ ngày xưa đưa tay lật từng trang sách. Họ còn ôm cây đàn lên điệu nhạc. Họ còn cất tiếng hát ân tình. Họ còn cười ngất lên tiếng cười khả ái vang vọng... ra giữa ánh sáng, một thứ ánh sáng hoàng hôn, rồi chìm lặng vào không gian loài người thật dài, thật lâu, cả ngàn năm chưa dứt.

 

Giai tầng số năm: Đây là cõi của những vong linh những người lính chiến, những người bị xử chết oan, bị sát hại, bị hãm hiếp, tự tử, thiên tai, tai nạn, bệnh tật.

Tất cả những cách chết của những vong linh nói trên thuộc về cái chết chưa tới số, gọi là chết thình lình, chết oan, chết ức hiếp, chết tức tối. Vì vậy mà mỗi vong linh bên kia cõi chết có tâm trạng rung động khác nhau.

Với những người lính chiến nói chung, cái chết của họ là cái chết thình lình nơi vị trí tác chiến khi tâm tư và đôi mắt đang hướng về quân thù trước mặt, tay ôm chặt cây súng vào lồng ngực trong tư thế sẵn sàng nhả đạn, không còn hay biết gì cảnh vật chung quanh. Đây chính là cận tử nghiệp của người lính chiến. Cận tử nghiệp là cái nghiệp gần nhất với thời gian vài phút trước khi chết. Cái nghiệp là tâm tư con người nghĩ về điều gì, sau khi xác thân chết đi, tâm tư trong thân vô  hình hoạt động theo cái ý nghĩ cũ của nó. Thì cận tử nghiệp của người lính chiến là tâm tư chỉ hướng về quân thù, không nghĩ gì khác hơn. Nếu nghĩ gì khác, sẽ bị quân thù bắn mình trước.

Vì thế cho nên tấm thân máu thịt bị ngã gục bởi bom đạn quân thù, nhưng tâm tư trong thân vô hình cứ hiện hữu nơi vị trí cũ và tiếp tục hành động tác chiến trong vọng thức với thời gian của cõi chết, thời gian không có sáng sớm, chiều hôm, chỉ một màu mờ đục muôn đời.

Với những vong linh bị chết oan ức, tức tối, tai nạn, bệnh tật, đều có cái tận tử nghiệp, nhưng khác nhau do hoàn cảnh của mỗi cá nhân bị chết. Những vong linh trên, tâm tư rung động của họ rất là yếu đuối. Mặc dù yếu đuối, nhưng gặp phải đối tượng là người sống xâm nhập vào nơi cư trú của họ, họ liền chống đối một cách giận dữ cho đến nỗi phát ra nhiều âm thanh ghê rợn do sức mạnh của tâm hận thù của họ trỗi dậy. Chẳng hạn tại một ngôi nhà ma ở con đường Linda Vista, San Diego. Trong ngôi nhà đó có một vong linh phụ nữ (hình như người Lào) trong khi mang bầu ở nhà một mình, thì bị một gã đàn ông bản xứ vào hãm hiếp cho đến chết. Từ đó đến nay, hễ có người nào vào đó ở, là bị vong linh người phụ nữ đó hành hung một cách giận dữ.

Tâm tư và trạng thái của vô số lượng vong linh ở giai tầng số năm như là một xã hội nhiều chủng tộc, nhưng có trật tự, mặc dù không phải là ít. Sở dĩ nói nhiều chủng tộc và trật tự như vậy, là vì vô số lượng vong linh trong giai tầng số năm có những cách chết khác nhau, nhưng cùng một thể vọng. Vọng có nhiều trạng thái tĩnh và động.

Vọng mà tĩnh: đây là trạng thái của những người lính chiến từ lúc sống họ vọng tĩnh cho đến sau khi chết vẫn vọng tĩnh khi xác thân họ đã bị chôn vùi dưới lòng đất hàng mấy thập niên trở lên, mà họ vẫn cứ vọng hướng về quân thù và quyến thuộc một cách tỉnh táo. Chẳng hạn vong linh người lính Việt Minh (ông Trần Sơn) qua câu chuyện lấy hài cốt là điều chứng minh rõ ràng.

Vọng mà tĩnh, đây là tâm trạng của những vong linh do những cái chết thiên tai, tai nạn và tự tử. Cái chết do thiên tai, tai nạn thì thình lình như bão lụt, động đất, đắm tàu, lật ghe, lật thuyền, đụng xe, lật xe, v.v... Còn cái chết tự tử, tức là tự mình chết, cái chết có sắp đặt dự tính, trong đó có nhảy xuống sông, biển, ao, hồ. Tâm trạng của những vong linh ở ba thứ chết trên trong một vài ngày đầu đều cảm thấy mình đang ngủ. Đến ngày thứ sáu, tự tỉnh lại do ký ức trỗi dậy, hồi tưởng nhớ lại sự việc mình đang làm, sẽ làm gì? Đây chính là thời điểm của thân tử ấm chuyển sang trung ấm, nên có biết cách mình chết. Sau đó khởi lên tâm vọng hướng về thân nhân, nhà xưa, việc cũ, nhưng không tích cực, không điên đảo, giận dữ như cái chết bị xử oan, sát hại. Trên vận hành tâm vọng hướng về, trong đó họ có đi tìm đường tái sanh, nhưng không dễ gì được tái sanh. Bởi vì cái thể vía đang sống trong trầm vọng nặng nề và yếu đuối, dù có tỉnh, nhưng cái tỉnh không phải là tỉnh thức. Cuối cùng họ chấp nhận thực tại nơi họ chết làm quê hương, sống ở đó thật côi cút. Từ đây, thỉnh thoảng người ta nhìn thấy họ, một hình bóng, hai ba hình bóng ngồi trên bờ sông, căn phòng cũ, nơi vệ đường, gốc cây, nơi quanh co ở đèo núi. Khi bị người sống nhìn thấy như vậy, họ liền biến mất hay nhảy xuống sông, biển, ao, hồ, chứ không có hành động hù dọa, phá phách.

Phải nói rằng những vong linh ở ba thứ chết nói trên, họ rất là linh hiển. Có lẽ do cái tâm vọng mà tĩnh! Điều linh hiển được đa số người sống chấp nhận vì đã được chứng thực qua một số hiện tượng, mà người sống bị hay được các vong linh tại nơi họ chết trừng phạt hay ban cho ân huệ. Chẳng hạn, tại cái miếu ba cô ở nơi đồi núi nhỏ giữa đầm lầy bao la trước trại cải tạo Nam Hà, Phủ lý, rất là linh hiển. Theo lời kể của một số cán bộ cộng sản và dân Ba Sao, thì cái miếu ba cô đó do dân Ba sao, Phủ Lý lập nên trước 1954 rất lâu, do tìm thấy thi thể ba cô Hà Nội đi chùa Hương bị lật thuyền vào mùa nước lụt, rồi trôi giạt tấp vào chân núi, được dân Ba Sao chôn cất tại đó và lập miếu thờ. Sau đó một vài lần được chứng thật có linh hiển cứu giúp và trừng phạt. Như lời của một cán bộ cộng sản trại Nam Hà đã kể rằng: khi làm chuồng heo, vì túng thiếu cây gỗ và tre, do vậy đánh liều xuống miếu ba cô chặt cây, chặt tre đem về. Sau đó vài giờ, người chặt cây, chặt tre bị đau bụng khủng khiếp. Khi trực nhớ ra lời của vong linh ba cô dặn dân Ba Sao là không được đến miếu lấy gỗ, lấy tre. Sau đó người cán bộ cộng sản phải tự van vái, xin sám hối, nói lời xin chừa, và bảo vợ đem hương hoa xuống miếu mà cúng tạ lễ bái. Bụng người cán bộ liền hết đau.

Tại đèo Bảo Lộc, năm xưa, trước 1975, bốn cô gái Sài Gòn thuộc dân nhà giàu, lái xe đi Đà Lạt, sau đó trên đường về lại Sài Gòn, xe bị lật xuống đèo, cả bốn cô bị chết. Mặc dù thi thể được gia đình đem về Sài Gòn chôn cất, nhưng tại nơi chỗ xe bị lật, vong linh của bốn cô vẫn hiện hữu ở đó, chấp nhận nơi đó làm quê hương. Do vậy, vong linh bốn cô cứ hiện lên giữa trưa, giữa hoàng hôn rồi đưa tay vẫy chào các ông tài xế. Từ đó các ông tài xế hùn tiền lại thuê thợ hồ xây một cái miếu tại nơi bốn cô đã chết để thờ họ trong đó. Tất cả xe đò ĐàLạt – Sài Gòn trong thời đó khi chạy ngang qua miếu, đều dừng lại vài phút để thắp hương và thay hoa, quả.

Qua hai nơi người chết về thiên tai, tai nạn nói trên được xem là linh hiển đều là phái nữ. Và hình như từ xưa nay trên quê hương ta nói riêng, thế giới nói chung, nơi nào phái nữ bị chết về thiên tai, tai nạn, nơi đó được người sống phát hiện và chứng thật có linh hiển rất là phổ biến hơn phái nam. Nhất hạng là các cô gái tiết trinh linh hiển hơn. Lý do tại sao vậy? Có lẽ tâm tư phái nữ nhạy cảm hơn phái nam. Sự nhạy cảm này thường gọi là giác quan thứ sáu, tức là sự rung động của ý thức (thức thứ sáu) rất nhanh. Từ chỗ này cho ta thấy giữa hai đứa con trai và gái có cùng tuổi (13, 14, 15...) với nhau, nhưng đứa con gái khôn ngoan, lanh lẹ, nhạy bén, nhạy cảm. Còn con trai thì chậm chạp, không nhạy cảm. Và cũng do từ cái tâm khôn ngoan, nhạy cảm, lanh lẹ, phái nữ rất là mơ mộng, lãng mạn. Lãng mạn, mơ mộng từ lúc sống, cho đến bên kia cõi chết vẫn còn mơ mộng, lãng mạn. Vì thế cho nên vong linh các cô gái khó mà siêu thoát hơn phái nam. Bởi vì trong gia đình có tổ chức nghi lễ cầu siêu, cầu hồn, nhưng tâm thức họ không tiếp nhận lời kinh, cứ vọng mà tĩnh trong thầm lặng, lảng vảng nơi họ bị chết, không lai đáo về linh sàn cầu siêu, cầu hồn. Tuy nhiên, một ngày nào đó, vong linh của họ cũng sẽ được siêu thoát ra khỏí kiếp âm hồn do có nhận thức qua lời pháp triệu thỉnh của đại lễ Trai Đàn Chẩn Tế của Phật giáo. Từ đó những cái miếu nhỏ bên lề đường, ở các đèo cao quanh co, v.v... không còn sự linh ứng nữa.

Vọng và động: Đây là tâm trạng của những vong linh bị xử chết oan, bị sát hại bởi các loại vũ khí do các đối tượng khác nhau, bị ám hại bởi bùa chú qua thời gian bịnh hoạn, bị hãm hiếp bởi các tên dâm đảng, bị chôn sống bởi các bạo lực, bị trúng thuốc, v.v... Cho nên bên kia cõi chết, vong linh họ luôn luôn chất chứa nhiều hận thù, bực tức khó nguôi. Bởi vì trước khi chết, họ đã thấy, biết cái chết sẽ đến với họ, nghe lời phán quyết chết của quan tòa đối với họ, vật lộn chống trả, cãi vã với đối phương, nhưng vô hiệu. Do đó vong linh của họ bên kia cõi chết rất là sống động, luôn bám theo người sống để chờ dịp báo thù vì đã làm cho họ chết, hay ngồi sầu hận bên thác ghềnh, nằm than khóc nơi ngôi mộ, lảng vảng vất vưởng đó đây một cách khổ lụy qua thời gian rất lâu, có khi cả trăm năm trở lên. Cho đến khi nào họ được người sống giải oan hay đã báo thù được, họ mới thoát khỏi kiếp ma âm hồn.

 

Giai tầng số sáu: Đây là cõi của vô số lượng vong linh ngạ quỷ. Vong linh ngạ quỷ được xuất thân từ những hạng người trong mọi giai cấp xã hội không phân biệt nam, nữ, già, trẻ, trong đạo hay ngoài đời, lúc còn sống trên cõi trần tâm họ chứa đựng tính chất ngạ quỷ suốt trên vận hành cuộc sống, cho đến lúc sắp chết, mà tính chất ngạ quỷ vẫn còn trong A-lại-da thức. Dù chỉ còn một, là cái lực bị thác sinh làm loài ngạ quỷ, một trong vô số loại ngạ quỷ sau khi chết. Bởi vì tính chất ngạ quỷ luôn có trong tâm con người rất nhiều loại. Nó là lực dẫn nghiệp thác sinh ngạ quỷ đúng theo tính chất của nó.

Tính chất cội căn của loài ngạ quỷ chính là tâm tham. Tham ăn, tham uống, tham sắc, tham dâm dục, tham rong chơi, tham danh, tham chức tước, tham cầm quyền, tham lãnh đạo, tham lợi lộc về mình, gia đình mình, tham ca tụng về mình, tham nói trước quần chúng, v.v...

Tâm tham là mẹ đẻ ra tâm bỏn sẻn. Tâm bỏn sẻn là mẹ đẻ ra các thứ tâm ích kỷ, keo kiệt, bỉ thử, tật đố, ganh tỵ, tỵ hiềm, cực đoan, bảo thủ, biên kiến, kiến chấp, v.v...

Con người trong mọi giai cấp lúc còn sống trên cõi trần, nếu cái tâm chỉ có một tính chất ngạ quỷ trong tất cả tính chất ngạ quỷ nói trên, cũng đủ năng  lực thác sinh một loại ngạ quỷ tại mặt đất này, mà ngôi nhà của nó chính là địa ngục của nó, đúng như luận Bà Sa nói: “Trên mặt trái đất này còn có hai thứ địa ngục: ‘Biên Địa Ngục và Độc Địa Ngục’ “.

Hai thứ địa ngục của các loài ngạ quỷ tại cõi trần nói trên, không phải như là một ngục thất cô độc ở biên cương xa xôi, hẻo lánh, nghèo khổ của các sắc dân miền núi, thường gọi là biên địa hạ tiện, để rồi sáng ra đi kiếm ăn, tối về ngủ trong đó. Không phải như vậy, mà là cái bầu ánh sáng mờ đục âm u, trong đó hực lửa nóng bức, lạnh buốt như băng tuyết, nhức nhối như dao cắt, cái đói cồn cào thắt ruột, khổ não vô vàn v.v... Đó chính là địa ngục của mỗi cá thể ngạ quỷ tự biến hiện ra (độc địa ngục) và tự phong tỏa bản thân của nó, tự nó biên chế lấy nó một thành trì ngăn cách với cõi trần (biên địa ngục). Cho nên các loài ngạ quỷ, dù là quỷ vương (tài quỷ) có uy lực hay là quỷ hạ cấp bình dân (vô tài quỷ) ở những nơi công viên đầy muôn hoa sắc thắm, đường phố sáng rực muôn màu, trong cao ốc tráng lệ, dinh thự nguy nga, v.v... tại không gian cõi người. Nhưng tất cả các loài quỷ nói chung (ma quái, yêu tinh, cô hồn, âm hồn) không được hưởng lấy cái tươi mát, sáng sủa ở những nơi trên, chúng vẫn ở trong bầu địa ngục tối tăm của chúng, chúng vẫn luôn cảm thấy hực lửa nóng bức trong cổ họng, giá băng lạnh buốt bao trùm toàn thân, từng cơn đói khát trỗi dậy làm cho bản thân của chúng bị vật vờ ngả nghiêng... mỗi lần chúng lai vãng đến quán xá có mùi rượu thơm nồng, các nhà hàng đang bốc lên các hương vị ngon ngọt của các món ăn, nơi các lò sát sinh đang phơi bày những khối thịt tươi đỏ máu... với niềm hy vọng sẽ được ăn, uống, hít lấy hương thơm ở những nơi vật chất nói trên. Nhưng hoàn toàn chúng không thể ăn, uống, không hưởng lấy được gì, bởi vì những món ăn, món uống đó của loài người hữu vi có bản thân sinh lý, vật lý, không phải của loài ngạ quỷ, mặc dù chúng cố sức xáp lại gần các món ăn, những miếng thịt tươi, những ly rượu trên bàn, những đôi môi khách đang còn đọng lại nước rượu, v.v... một cách lì lợm và sỗ sàng để liếm, để lấy ăn. Nhưng bị cái biên địa ngục của chúng ngăn cách bản thân chúng không hưởng lấy được gì.

Những món ăn có tính chất ngạ quỷ thì các loài ngạ quỷ có thể ăn được, đó là phẩn trong các cầu xí, những nước cá thịt tanh hôi trên đường, bãi nước bọt hôi hám trên đất từ miệng người khạc nhổ ra, các con vật chết sình thối... Từ chỗ này, ta thấy trong giới luật của Tăng, Ni trong đạo Phật, Đức Phật có dạy bốn chúng đệ tử Phật không được khạc nhổ ra đất, hãy khảy móng tay ba lần trước cửa cầu xí để cho ngạ quỷ trong đó nghe mà đi ra, sau đó mới vào cầu, vì sợ rằng rót  phân lên thân hình chúng. Và Đức Phật cũng dạy các Tăng Ni chỉ ăn một bữa trưa giờ ngọ, không được nổi lửa nấu nướng vào buổi chiều, tức là không ăn chiều tối, bởi vì với lòng từ bi thương xót các loài ngạ quỷ, không muốn để cho chúng bị khổ đau, bực tức, sân hận khi nghe đến chén bát khua động rồi mò đến, nhìn thấy các món ăn, mà không ăn được, thì tội nghiệp cho chúng.

Vì vậy mà để cho các vong linh vô hình bên kia cõi chết, nói chung, được ăn, Đức Phật đã nói ra giáo pháp thần chú Đà La Ni, là phương pháp làm cho các chúng sinh vô hình được ăn bằng ý thức khi cúng thí cho chúng.

Sở dĩ Đức Phật nói ra giáo pháp cúng thí bằng thần chú Đà La Ni như vậy, là do chính Đức Phật đã thấy biết chúng sinh vô hình bên kia cõi chết luôn khởi lên ý niệm muốn ăn uống, muốn tìm chỗ ấm, tránh giá lạnh, tìm chỗ mát... do có tâm cảm nhận vô xúc. Và nhất hạng, sau khi tôn giả Anan trình lên Đức Phật về chuyện một con quỷ có thân hình tiều tụy hiện ra với miệng đầy lửa và đòi Anan cúng thí thực cho nó ăn, càng làm cho Đức Phật quan tâm nhiều hơn về đời sống chúng sinh vô hình và sớm thiết lập giáo pháp cứu bạt cúng thí thực.

Giáo pháp cứu bạt cúng thí thực ngạ quỷ, cô hồn... là bài kinh Diệm Khẩu, trong đó gồm có một số bài thần chú Đà La Ni và những câu triệu thỉnh chúng sinh vô hình bên kia cõi chết đến đàn tràng cúng thí để được khai tâm và yết hầu, thì mới có thể ăn được bằng tâm thức.

Bài kinh Diệm Khẩu được giới xuất gia trong thời Đức Phật tại thế và sau Phật nhập Niết Bàn mấy trăm năm vẫn áp dụng trong việc cúng thí cho các loài chúng sinh vô hình tại Ấn Độ.

Khi đạo Phật được du nhập vào các nước Á Châu, bài kinh Diệm Khẩu được hiện hữu trong đại tạng Mật giáo tại các nước đó. Dĩ nhiên tất cả kinh, luật, luận đều được chuyển ngữ theo tiếng của nước đó. Duy những bài thần chú Đà La Ni được giữ nguyên gốc hoặc dịch âm lơ lớ theo tiếng của dân tộc bản xứ, gần giống âm tiếng Phạn.

Với tâm đại từ bi của hàng xuất gia đối với chúng sinh hữu hình và vô hình, tức là người sống cũng như người chết đều được các bậc xuất gia quan tâm cứu bạt bằng giáo pháp giải thoát. Vì vậy mà bài kinh Diệm Khẩu trong đại tạng Mật giáo tại các nước theo đạo Phật, được giới Tăng sĩ của các nước đó đem ra áp dụng trong việc cúng thí thực cho chúng sinh vô hình. Trước khi áp dụng, các Tăng sĩ có chế tác thêm lời pháp phụng thỉnh chư Phật, Bồ Tát để chứng minh và lời triệu thỉnh các vong linh vô hình bằng tiếng bản xứ để cho chúng sinh vô hình trên đất nước mình nghe lời triệu thỉnh ấy mà đến đàn tràng. Còn tất cả các bài thần chú Đà La Ni bằng tiếng Phạn được để nguyên và đọc tụng theo âm Phạn. Các nước đọc theo âm Phạn là Tích Lan, Thái Lan, Campuchia, Lào. Còn các nước Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn, Tây Tạng, Mông Cổ đều phiên âm những bài thần chú Đà La Ni ra âm lơ lớ tiếng Phạn. Do vậy, bài kinh Diệm Khẩu được chư Tăng tại các quốc gia Á Châu đổi thành “Nghi lễ cúng thí thực”, tức là một nghi thức tổng thể có đầy đủ kinh chú, sám văn các loại theo thứ tự từng thời một khi đọc tụng, cho nên dù đặt tên nào khác cho nghi thức ấy, chẳng hạn NGHI MÔNG SƠN THÍ THỰC, cũng không ngoài các kinh chú, sám văn.

Nghi Mông Sơn Thí Thực do ngài Bất Động Thiền Sư đời nhà Đường Trung Quốc, tại núi Mông ở tỉnh Tứ Xuyên soạn thảo và chế tác ra. Nghi Mông Sơn gồm có ba cấp đại, trung và tiểu Mông Sơn. Đại, Trung Mông Sơn dùng cho các lễ Trai Đàn Chẩn Tế Siêu Độ, còn Tiểu Mông Sơn được dùng cho thời công phu chiều tại các chùa, tức là thời tụng niệm cúng thí thực cô hồn nói chung, thường gọi là cúng cháo cô hồn.

Vấn đề cúng thí thực cho chúng sinh ở cõi âm đã được các dân tộc Á Châu thực hiện cả ngàn năm qua bằng nghi lễ truyền thống hay địa phương tự chế tác , chứ không phải sau khi đạo Phật du nhập vào mới có cúng thí thực. Trong đó có dân tộc Việt Nam đã và đang thực hiện việc cúng thí rất phổ biến do ông bà tổ tiên truyền lại. Cho nên lễ cúng thí đối với dân tộc Việt Nam, không những chỉ riêng trong tháng bảy âm lịch, mà bất cứ tháng nào, ngày nào, khi cần cúng là cúng do  có khấn nguyện cầu xin bình an, hết bịnh tật sau khi thấy có kết quả linh nghiệm là cúng. Chẳng hạn một đứa trẻ bị bịnh lâu ngày được chữa trị nhiều thứ thuốc tây ngay trong thời đại có thuốc tây khả dĩ, nhưng đứa trẻ không bớt bịnh. Vì vậy bà mẹ đứa trẻ khấn nguyện, van vái thánh thần, các anh linh bản xứ xin phù hộ cho con họ được lành bịnh. Sau đó đứa trẻ liền hết bịnh. Bà mẹ đứa trẻ liền mua sắm lễ vật cúng thí thực. Lễ cúng này không giống như lễ cúng đất, cúng rằm tháng bảy hay cúng ông bà, mà lễ cúng đặc biệt, được gọi là “Cúng Ngựa”. Lễ này được cúng vào chiều, khi mặt trời chưa lặn.

Những con ngựa giả (năm con hay bảy con do khả năng gia đình có nhiều tiền hay ít tiền mua sắm) được làm bằng tàu chuối. Đầu tàu chuối được tạo thành đầu con ngựa, đuôi tàu chuối làm đuôi ngựa. Những con ngựa được để vào chung quanh một cái nia lớn, đầu nằm trong nia, đuôi ngoài đất. Bên cạnh mỗi con ngựa có cái roi dâu. Nơi mỗi đầu con ngựa có bánh, kẹo, khoai lang luộc, cốm, v.v... Trên đầu mỗi con ngựa có cắm cây nhang tỏa khói. Sau khi gia chủ quỳ khấn vái, lễ bái nhiều lần, thì những đứa trẻ lớn trong xóm đã đứng sẵn đó, được lệnh gia chủ cho phép, thì mỗi đứa lấy một con ngựa và cái roi, rồi cỡi đi bằng cách để tàu chuối dài dưới háng giữa hai chân, đầu ngựa quay về trước bụng. Vừa chạy vừa lấy roi quất vào tàu chuối ở phần đuôi. Hướng cỡi ngựa chạy đi là hướng ra đồng ruộng hay chỗ hoang vu có mồ mả, rồi bỏ những con ngựa tàu chuối và roi ở đó. Rồi các chú bé chạy vào lấy phần quà cúng nơi cái nia.

Cúng tế lễ bái nói chung của các dân tộc Á Châu không phải là việc làm mê tín, mà là một thứ tín ngưỡng, được xem như là một tôn giáo có đạo giáo thế gian (Nhân đạo). Bởi vì con người sống và người chết đều có liên quan mật thiết với nhau có tính cách nương tựa giúp đỡ nhau về tâm linh tinh thần và bản thân vật chất được phát triển và an bình, hạnh phúc và giải thoát khổ đau, mà tâm thức là năng lực chủ động, dù người sống hay chết, tâm là năng lực chủ động. Qua đây cho ta thấy rằng, vô số vong linh âm hồn, cô hồn, thân trung ấm, yêu, ma, ngạ quỷ bên cõi chết tại không gian loài người đều biết ăn uống, biết đòi ăn và trả thù, biết trừng phạt người sống để bảo vệ, biết khiếu nại do không ăn được, biết thưởng ngoạn vui chơi, biết chọc quê các ông có tính đa tình, biết nhiều mặt của các vong linh, biết tiếp thu giáo pháp giải thoát của Phật nên được giải thoát sau khi đến Đạo Tràng Trai Đàn Chẩn Tế Siêu Độ do nghe kinh Phật.

Để chứng minh cho thấy tâm thức của chúng sinh vô hình có biết, qua những câu chuyện có thật sau đây:

 

            1.- BIẾT ĂN UỐNG

Các món ăn, thức uống của loài người gồm có chay và mặn. Cả hai đều chứa đựng sắc vị thanh tao thơm ngon, cho nên các loài chúng sinh vô hình nhìn vào rất thèm khát muốn ăn uống, nhưng không thể ăn được, dù ăn uống bằng ý niệm. Bởi vì bị hai “biên địa ngục” ngăn cách, đó là yết hầu nhỏ xíu như cây kim và lòng tham, sân, si, hận thù, luyến ái thành lửa dữ luôn hừng hực nơi bản thân là hai lớp thành trì ngăn cản các hương vị của món ăn, thức uống không thông lưu vào ý thức được, một khi khởi lên ý niệm muốn hay đến gần đưa tay rờ vào, đều bị hai thứ biên địa ngục trên ngăn cản.

Tất cả loài chúng sinh vô hình ăn được thức ăn, uống được thức uống của loài người là khi nào tâm thức đầy vô minh ác trược của họ được chuyển hóa hết bằng giáo pháp Phật sau khi nhận thức, lắng nghe tại nơi đạo tràng cầu siêu, cúng thí; là lúc bản thân họ được nhẹ nhàng, thanh thoát, tươi mát và hanh thông y như bản thân lúc còn sống. Bởi vì sau khi không còn các vọng thức, tham, sân, si, ác trược trong tâm họ nữa, họ tự cảm thấy họ là người, hết bản chất ma, quỷ, yêu tinh, âm hồn, cô hồn. Từ đó họ khởi ý niệm thèm ăn, thèm uống khi nhìn vào thức ăn, thức uống, là họ cảm thấy no lòng và đả khát. Đó là ý tư thực. Hay là họ đưa tay rờ vào các món ăn, thức uống, thì cảm thấy no nê, đả khát. Đó là xúc thực. Xúc ở trường hợp này là vô xúc giác, chứ không phải hữu xúc giác. Cho nên tay mà họ rờ mó vào các thứ ấy là do thức biến.

Sự không ăn uống được hay ăn uống được của chúng sinh vô hình, thật giống y hệt tâm lý người sống bị thiếu chất dinh dưỡng, nên thường sinh khởi ý niệm thèm khát về ăn uống, cho nên trong giấc ngủ nằm chiêm bao thấy được ăn uống no say. Ngược lại, thấy các món ăn, thức uống trước mặt mà không ăn được.

Hai trường hợp nằm mơ thấy được ăn, uống và không được ăn uống dù cho thấy các món ăn, thức uống, là trường hợp của những người tù trong các trại tù cộng sản Việt Nam thường xảy ra trong giấc ngủ hằng đêm, mà tác giả là người đã hơn một lần có chứng thực hai trường hợp ăn được và không ăn được do tự mình thấy và các bạn đồng cảnh ngộ kể lại. Chẳng hạn một ông bạn đồng sàn kế bên luôn luôn có nỗi buồn, sầu hận, oán hờn cộng sản nhiều hơn những người tù  khác do không có thân nhân gửi quà cáp, lại thêm cơ thể bị suy yếu nhiều. Do vậy, người bạn đồng sàn ấy thường tâm sự với tôi về chuyện này chuyện nọ. Một hôm, ông bạn ấy kể cho tôi nghe về chuyện nằm ngủ thấy trước mặt có một nồi sắn luộc trắng phau đang bốc hơi tại một gốc cây. Lúc bấy giờ ông bạn ấy cảm thấy tay chân bị run lập cập, làm cho đôi chân không bước tới nồi sắn được, dù cố sức bước tới. Sau đó giựt mình tỉnh dậy với niềm luyến tiếc, dù là ảo giác chiêm bao.

Năng lực làm cho đôi chân ông bạn tôi không bước tới nồi sắn được là do tâm thức ông ấy luôn chứa đựng nỗi buồn, sầu hận, oán hờn quá ư cực độ trong ngày lẫn đêm. Điều đó được xem như là bức tường vô hình ngăn cách đôi chân thức biến trong chiêm bao không đến được nồi sắn. Nếu không nói là một thứ biên địa ngục trong bản thân người sống đang có do lòng nhiều tham, sân, si, hận thù, oán trách... tạo nên.

 

2.- BIẾT ĐÒI ĂN VÀ TRẢ THÙ

Tâm lý của các loài chúng sinh vô hình không khác với tâm lý của người sống, cho nên các ngạ quỷ, âm hồn, cô hồn, yêu, ma, thường đòi người sống cúng cho ăn bằng nhiều cách theo tính tình của từng cá thể vô hình mà có các hiện tượng hung hãn, tàn nhẫn, hình thái ghê rợn, tạo ra âm thanh... ở mỗi nơi đối với người sống. Chứ không phải duy nhất chỉ có hung hãn hay ghê rợn, tức là tùy theo đối tượng người sống mà tạo ra hiện tượng.

Chẳng hạn đối với các tên phù thủy thì hung hãn để đòi được ăn nhiều sau khi xét thấy bị phù thủy lợi dụng bắt làm việc nhiều mà cho ăn ít. Tàn nhẫn là phá phách các trẻ con cho đau bịnh để đòi cúng cho ăn dù không ăn được. Hình thái ghê rợn trước các bậc đạo sư để hy vọng được cúng cho ăn. Âm thanh như gõ cửa tại các chùa để đòi ăn, v.v...

Để chứng minh cho thấy một trong những cách đòi ăn của chúng sinh vô hình là gõ cửa chùa qua câu chuyện có thật sau đây:

Ngôi chùa Xuân An tại làng Xuân An – Chợ Lầu – Hòa Đa (BắcBình) – Bình Thuận, được giao lại cho ông anh họ tôi là thầy Bửu Tích ở làng Lạc Sơn lên nhận vào gần cuối năm 1947, vì thầy trụ trì chùa Xuân An thường gọi là thầy Hai Khương đi cất am mới ở bên động cát Lương Sơn để tu thiền. Vừa nhận chùa được một tháng thì giặc Pháp trở lại Việt Nam, chiến tranh Việt-Pháp bắt đầu, cho nên người dân trong tất cả làng xã phải tản cư vào núi, vào động cát để lánh nạn giặc Pháp. Vì vậy, chùa phải đóng cửa, ngưng tụng niệm công phu sớm, chiều.

Sau vài tháng lánh nạn, tất cả dân làng hồi cư về chốn cũ, cho nên chùa mở cửa lại. Nhưng việc sinh hoạt giáo vụ như công phu chiều, tịnh độ, cũng như quét dọn trong thời gian mới hồi cư về không phải là thầy Bửu Tích, mà lại là ông cụ tôi phụ trách tạm thời do thầy Bửu Tích mời.

Ngôi chùa Xuân An là ngôi chùa làng, chùa lớn nhất trong xã, cho nên có đủ các ngôi chánh điện, nhà tổ, nhà đông, nhà tây và nhà trù (nhà bếp). Chùa được tọa lạc nơi vùng đất có mồ mả ở phía tây nam, trông rất hoang vu. Phía sau chùa là xóm làng cách xa chùa vài trăm thước. Chung quanh chùa có những cây me cổ thụ thật lớn. Vì vậy khi mặt trời vừa tắt, cảnh chùa bị chìm ngập trong bóng tối đen thật âm u. Ấy thế vậy mà, một mình ông cụ tôi ở đó không sợ gì cả. Do vậy mà hằng đêm, cứ cỡ chừng chín, mười giờ, là giờ ông cụ tôi đang ngủ. Bỗng nhiên nghe có tiếng gõ cửa nhà tổ, nơi ông cụ tôi ngủ. Lúc đầu tưởng có ai đến gõ, nên ông cụ tôi ngồi dậy đi mở cửa. Nhưng không thấy ai. Sau đó ông cụ tôi đi một vòng bên ngoài, cũng chẳng thấy ai cả. Ông cụ tôi vào ngủ lại. Đến gần khuya, có tiếng gõ cửa nữa. Lần gõ này ở nơi cánh cửa sổ ngay phía trên đầu giường ông cụ tôi. Như thế là loài ma quỷ biết chùa đang có người.

Sau lần gõ cửa thứ hai đó, ông cụ tôi liền nói lớn: “Mồ tổ tụi bây, đừng gõ nữa, để tao ngủ, chiều mai tao sẽ cúng cho ăn”, do biết ma, quỷ, âm hồn, cô hồn gõ cửa đòi ăn. Thế là chúng ngưng gõ từ đó cho đến sáng.

Vì mới hồi cư, chùa không còn một thứ gì cả. Ngay bản thân ông cụ tôi còn phải ra xóm ăn cơm ở tại nhà ông cậu tôi là ông chủ Nhiều làm thầy coi mạch hốt thuốc bắc. Vì thế ông cụ tôi thất hứa với bọn ma, quỷ, cô hồn... là không cúng cháo cho chúng. Do vậy, đêm đó chúng lại đến gõ cửa, khi ông cụ tôi vừa vào giấc ngủ là đã nghe tiếng gõ. Lần gõ này ở khắp tất cả cửa nhà tổ, chánh điện, nhà tăng, nhà bếp, đều bị gõ đồng loạt nhiều lần. Sau đó ông cụ tôi vừa chửi bọn ma quỷ, cô hồn, vừa hứa sẽ cúng cho chúng ăn chiều mai.

Lần hứa này có giữ lời, nhưng chỉ cúng cháo được hai bữa thì ngưng do không còn gạo, dù mỗi lần nấu chỉ được một muỗng canh gạo, vậy mà không đủ đến ba bữa, huống là nhiều bữa, làm sao có. Bởi vì ruộng đồng bị ngưng làm suốt thời gian tản cư lánh nạn giặc Pháp.

Sau những lần ngưng cúng cháo, bọn ma, quỷ, cô hồn không gõ cửa như các lần trước. Nhưng chúng có hành động đòi ăn kiểu khác, nếu không nói là hành động trả thù đối với ông cụ.

Không còn nghe tiếng gõ cửa nữa, ông cụ tôi tưởng rằng bọn ma, quỷ, cô hồn có khởi tâm hoan hỷ nghe theo lời ông cụ tôi van vái với chúng rằng: chùa đang gặp khó khăn, thiếu thốn trong giai đoạn mới hồi cư... (sau khi tụng xong Mông Sơn Thí Thực có lời phục nguyện) là chúng hết gõ. Nhưng việc không gõ cửa được thay vào đó bằng hành động trả thù ông cụ tôi.

Hành động trả thù của bọn ma, quỷ, cô hồn đối với ông cụ tôi là, trong khi ông cụ tôi đang ngủ tận nơi nhà tổ, thì bọn chúng hè nhau khiên ông cụ tôi bỏ nằm tại sân khấu (loại sân nhỏ và vuông ở giữa nhà đông, tây bốn phía) cách nhà tổ gần năm chục mét, thông qua ngôi chánh điện. Vì vậy mà ông cụ tôi liền nghe lạnh lưng, thấy đầu không gối, bị kê lên gạch, mở mắt nhìn lên, thấy những chùm hoa giấy ở phía trên đang đứng yên giữa các vì sao trời. Ông cụ tôi liền ngồi dậy, biết mình bị bọn ma, quỷ, cô hồn chơi đòn trả thù.

 

3.- BIẾT TRỪNG PHẠT NGƯỜI SỐNG ĐỂ BẢO VỆ

Chùa Báo Ân ở Đà Nẵng là chùa của sở Tuyên Úy Phật Giáo Quân Đoàn I, đã được xây cất gần xong, chỉ còn lót gạch nền chùa chánh điện là hoàn tất. Cho nên sau ngày 30.4.1975, cộng sản chiếm lấy, rồi viện cớ chánh điện chưa có thờ Phật, liền sử dụng chánh điện làm xưởng cưa cỡ lớn. Nhưng bị các vong linh, âm hồn, cô hồn chung quanh chùa trừng phạt ngay bữa bắt đầu chạy máy là làm cho bốn máy cưa bị đứt lưỡi cùng một lúc. Sau đó bốn máy bị đứt lưỡi đến năm lần, sau mỗi lần thay lưỡi mới.

Trước những hiện tượng sự cố về bốn máy cưa bị đứt lưỡi đã làm cho người cộng sản phải tìm hiểu nguyên nhân từ đâu trong lúc ngưng hoạt động. Suốt gần nửa năm đi vào ngõ ngách để tìm hiểu, người cộng sản không tìm ra nguyên nhân, ngoài tư tưởng nghi ngờ người của chế độ cũ phá hoại. Cuối cùng được những người dân ở chung quanh chùa nói cho họ biết rằng: bốn máy cưa của họ bị đứt lưỡi là do những vong linh, cô hồn, âm hồn từ những hài cốt còn sót lại trong đất chùa hiện lên trừng phạt để bảo vệ chùa vì muốn chùa sinh hoạt giáo vụ lại để được ăn và được nghe kinh kệ, chứ không muốn nghe tiếng máy cưa chát tai, điếc óc. Bởi vì vùng đất chùa và chung quanh chùa là một nghĩa địa cũ dưới thời Pháp thuộc. Mặc dù nhiều mồ mả đã được lấy cốt để mở rộng thành phố trước 1975, nhưng vẫn còn sót lại.

Người dân ở gần chùa nhất đã kể rõ cho các cán bộ cộng sản trong tốp cưa nghe thêm rằng, chính họ đã nhìn thấy tận mắt, một hài cốt được đào lấy lên, là ở ngay trước cửa chánh điện, sau khi xây cất xong, chỉ chờ lót gạch bên trong. Như vậy chắc chắn đang còn một vài hài cốt ở đâu đó trong đất chùa. Có thể bên cạnh vách hay trong sân chùa v.v... Vì vậy mà họ hiện lên trừng phạt để bảo vệ chùa, bảo vệ nơi họ ở.

Để chứng minh hài cốt còn sót và các vong linh người chết đang có mặt tại vùng chùa Báo Ân trước 1975 qua lời kể của thầy Như Bửu là chánh sở Tuyên Úy Phật Giáo QĐ I.

Thầy kể cho chúng tôi nghe rằng, vào một chiều chạng vạng, thầy đang đi thật chậm giữa sân chùa trong tư thế đưa mắt nhìn những viên gạch lớn và vuông đã được lót ở sân. Bỗng nhìn thấy một cụ già mặc bộ quần áo bà ba màu xám, đang ngồi ở tầng cấp gần cuối bên cạnh đầu con rồng trước chùa. Với ý niệm muốn biết ông già đó ở đâu, thầy hỏi:

-Cụ ở đâu đến đây?

-Thưa thầy, con ở đây. Lời người ma trả lời.

Hai chữ ở đây của ông già trả lời, làm cho thầy Như Bửu nghĩ là ông ấy ở chung quanh chùa, nên không quan tâm cho lắm.

Vào một chiều nhá nhem khác, sau đó vài hôm, thầy Như Bửu cũng thấy ông già ma đó ngồi ở chỗ cũ. Thầy Như Bửu lơ đi vì nghĩ rằng, các cụ già hàng xóm thích đến ngồi ở tầng cấp chùa vào buổi chiều.

Lần thứ ba, cách lần thứ hai hai tuần, cũng vào buổi chiều tà, thầy Như Bửu lại thấy ông già ma đó vẫn mặc bộ quần áo bà ba màu xám đang đứng dựa lưng vào đầu con rồng tại vị trí cũ. Lần này thầy hỏi kỹ hơn:

-Cụ nói cụ ở đây là ở hướng nào, trước cổng chùa hay là cùng cánh phải với cổng chùa?

Ông già ma liền quay mặt qua trái, cùng lúc đưa tay trái chỉ thẳng lên hướng cửa chánh điện, nói:

-Thưa thầy, con đang ở đó.

Lời ông già vừa dứt, thầy Như Bửu biết ngay là ma, liền ngó ra chỗ khác. Khi ngó lại, ông già ma đã biến mất.

Quả thật, sáng hôm sau, những người thợ làm chùa tuân theo lệnh thầy Bửu, cùng nhau đào trước ngưỡng cửa giữa, thấy ngay một hài cốt, rồi đem chôn chỗ khác.

Theo thầy Bửu, vong linh ông cụ đó không dám ở trước điện Phật, nên chi ông ấy muốn đi chỗ khác bằng cách xuất hiện ba lần để chờ thầy hỏi mà nói lên ý muốn.

 

Một câu chuyện tương tợ, bị ma trừng phạt

Long Bình – Biên Hòa là vùng hoang vu đầy cỏ, cây và các gò đất cao, thấp. Do vậy, vào năm 1965, trước khi lập căn cứ, người Mỹ phải sử dụng những xe ủi đất khổng lồ chạy bằng dây sên để ủi. Qua một tuần ủi, những gò đất được phả bằng, những chỗ trủng được lấp đầy. Duy chỉ có một chỗ xe ủi vừa chạy tới là bị đứt dây sên, tắt máy. Hai ba lần đổi xe, mà lần nào xe cũng bị tắt máy, đứt sên, khi xe vừa đến chỗ đó. Chỗ đó không có gì cả, chỉ là một chỗ đất hơi gồ lên bằng gang tay được so với mặt bằng của đất, do vậy không thể gọi đó là cái mả, theo sự nhận định của các sĩ quan công binh Mỹ lúc bấy giờ. Tuy nhiên, chỗ ấy được giữ nguyên, không dám đưa xe đến ủi nữa.

Sau đó một tuần, có một người đàn ông, tuổi trên lục tuần, từ Nhà Bè Sài Gòn, đến văn phòng căn cứ Long Bình tạm gần đó để nộp đơn xin lấy hài cốt thân nhân. Trong đơn, ông ấy đã kể rõ vị trí và cái mả còn đầy cỏ, chưa có bị ủi đúng theo giấc chiêm bao nằm thấy vong linh người thân vè báo cho biết như vậy và yêu cầu khai quật đem hài cốt về Nhà Bè.

Đơn ông ấy được Bộ Chỉ Huy Quân Sự Mỹ Long Bình chấp thuận và cho ông ấy tự chọn ngày.

Hài cốt khai quật lên, là một tín đồ Thiên Chúa giáo, gốc miền nam dưới thời thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, cho nên nằm dưới lòng đất cả trăm năm, mà thi thể vẫn còn nguyên vẹn như người đang nằm ngủ.

Thi thể của bà được người làm đơn xin lấy cốt và một số bạn đạo ở Nhà Bè đem để nằm trong nhà kính nhỏ và được phục sức y phục theo kiểu Thánh nữ do thấy thi thể sao không bị mục rữa và có một vài hiện tượng linh thiêng. Sự linh thiêng đã được một số dân Sài Gòn nghe đến rất lâu trước năm 1975. Sau ngày 30.4.1975, dân Sài Gòn – Gia Định đến chiêm bái càng lúc càng nhiều, dù bị cộng sản ngăn cản, thiên hạ vẫn tìm cách đến. Người ta đến cho mục đích chính là cầu xin được may mắn, bình an cho việc ra đi vượt biên tìm tự do.

 

4.- BIẾT KHIẾU NẠI DO KHÔNG ĂN ĐƯỢC.

Trước 1975 tại Huế, trong giới Tăng, Ni và Phật tử ở tuổi 65 trở lên hiện nay ai cũng được nghe đến câu chuyện các âm linh, cô hồn, ngạ quỷ không ăn được thức ăn cúng thí, nên chi chúng đến khiếu nại với cố Hòa Thượng Thích Châu Lâm.

Câu chuyện có thật như thế này: Trai Đàn Chẩn Tế Siêu Độ cho chúng sinh vô hình được chư Phật tử tổ chức tại chùa Diệu Đế, Huế. Ban kinh sư lúc bấy giờ là do một số chư Tăng tại Huế có sở trường về Nghi Mông Sơn Thí Thực, mà vị chủ sám nghi lễ và tụng niệm là cố Hòa Thượng Thích Châu Lâm ngồi ghế chủ đàn.

Từ những phần lời kinh, sám thỉnh chư Phật, Bồ Tát, Tiêu Diện, lời triệu thỉnh các loài ngạ quỷ, âm linh, cô hồn đến đàn tràng, cho đến các chơn ngôn thần chú khai mở tâm thức tỉnh ngộ, yết hầu mở rộng cho chúng sinh vô hình để sẵn sàng được hưởng cam lồ thí thực... Tất cả đều được an trú trong tâm thanh tịnh của chư tăng và vị chủ sám đang đọc. Nhưng đến những câu thần chú làm cho các món ăn, thức uống được biến ra chất cam lồ vị, thì tâm thức của Hòa thượng Châu Lâm làm chủ sám bị tư duy suy nghĩ đến chùm chìa khóa bị bỏ quên ở ngoài bàn nước, chưa đóng được cửa tủ trước khi đi hành lễ. Tức là miệng tụng thần chú biến thực, biến thủy chơn ngôn, nhưng tâm ngài suy nghĩ về chùm chìa khóa. Do vậy mà các món ăn, thức uống bị biến ra thành sắt hết. Cho nên các loài ngạ quỷ, âm linh, cô hồn không ăn được đúng theo quy luật thức biến (nhứt thiết duy tâm tạo).

Quả thật, sau khi nghi lễ Trai Đàn chấm dứt gần nửa đêm là thời điểm mệt mỏi, nên chư tăng ai nấy đều ngủ nghỉ thật an giấc nơi tự viện của mình. Riêng Hòa thượng Châu Lâm, giấc ngủ của ngài chưa an còn trong mơ màng, do vậy ngài nghe nhiều tiếng lao xao chung quanh chùa, làm cho ngài tỉnh ngủ, mở mắt ra để nhận rõ là tiếng gì. Ngài liền thấy trước mặt ngài có hàng hàng, lớp lớp con người với hình thù khác nhau, gương mặt quái dị đang chen chúc nhau trong trạng thái di động hướng mặt đến ngài. Trong giây phút đó, đôi mắt của ngài nhìn chăm chăm bất động cả toàn thân, nhưng vẫn biết, như cái biết trong chiêm bao. Tức là nửa tỉnh nửa mê theo quy luật hai tâm thức âm dương gặp nhau đưa đến trạng thái mơ màng bất động. Nhưng tâm thức phía cõi dương có chủ động. Cho nên giữa cái thấy, ngài còn nghe rõ âm thanh trầm bổng thật bi lụy, than thở rằng: “Thầy ơi, thầy! Sao thầy bố thí cho chúng con toàn là sắt, làm sao chúng con có thể ăn được!”

Sau khi vô số chúng sinh cõi âm biến mất, cũng đôi mắt nhìn đó, bỗng nhiên tỉnh lại, ngài Châu Lâm ngồi dậy, liền nhớ rõ là mình có thoáng nghe qua một niệm rất ngắn về chùm chìa khóa trong lúc tụng thần chú “biến thực, biến thủy chơn ngôn”.

Với bậc Tăng bảo có đại bi tâm thương xót chúng sinh hữu hình và vô hình trong vai trò cứu bạt, ngài Hòa thượng Thích Châu Lâm tự phát nguyện bỏ ra một số tiền cả chục ngàn để tổ chức lại lễ Trai Đàn Chẩn Tế sau đó tại chùa Diệu Đế.

 

5.- BIẾT THƯỞNG NGOẠN VUI CHƠI

Con người tại các quốc gia phương Đông, phương Tây v.v... trên thế giới từ ngàn xưa và hôm nay không còn ngạc nhiên, lạ lùng gì nữa về những chuyện các vong linh ngạ quỷ, yêu ma, âm linh, cô hồn đã và đang hiện hữu ngay trên xứ sở mình một cách đa dạng từ thành phố ra đến ngoại ô tại các nẻo đường phố chợ, đồng quê, v.v...

Một dạng trong đa dạng đó, là dạng đứng đón xe cùng tuyến đường để xin quá giang. Qua trạng thái đón xe và cách ngồi xe, cũng như cách xuống xe của các loài ngạ quỷ, yêu ma, âm linh, cô hồn... là biết ngay chủ đích và mục tiêu của chúng. Người biết rõ, đó là tài xế xe hay người đi xe gắn máy cho chúng quá giang. Chẳng hạn, một bác tài xế xe Lam ba bánh gốc ở Gò Vấp chạy tuyến đường từ Quang Trung – Hạnh Thông Tây – Gò Vấp đến chờ Bà Chiểu đã nhiều lần kể rằng, thỉnh thoảng  xe Lam của bác chạy qua nghĩa trang Quang Trung vào lúc bảy giờ rưỡi hay tám giờ tối, thấy một vài chú lính đứng bên lề đường đưa tay đón xe. Bác tài ngừng xe lại, được các chú lính ngỏ lời muốn đi xuống chợ Bà Chiểu. Sau lời mời lên xe của bác tài, các chú lính lên xe một cách mau lẹ, đó là trạng thái nhanh của lính. Nhưng xe không bị lay động, nhúc nhích gì cả, mặc dù xe vào giờ tối rất ít khách, còn trống chỗ. Khi xe chạy, bác tài không thấy xe nặng, liền nhìn ra sau vẫn thấy hai người khách cũ, không thấy các chú lính đâu cả! Bác tài liền hỏi lớn: “Mấy chú lính đâu, không thấy, chắc là nhảy xuống?” Liền có tiếng trả lời từ phía sau: “Tụi cháu còn đây, sẽ xuống chợ Bà Chiểu”.

Xe đang tiến vào bến, bác tài nói trước: “Mấy anh em lính khỏi trả tiền”. Liền sau đó cũng có tiếng đáp lại “Dạ cảm ơn bác”.

Khi xe ngừng hẳn vào bến, bác tài không thấy các chú lính xuống xe. Để cho biết các chú lính xuống lúc nào và đi đâu, bác đưa mắt nhìn quanh, thấy ngay ở đằng xa bốn chú lính đi một cách vội vã hướng đến rạp xi-nê, như thể cho kịp xuất chiếu phim được bắt đầu lúc 8 giờ 30

Không riêng gì một bác tài xế xe Lam ở Gò Vấp, mà có cả hai bác xe Lam khác, một ở ngã tư Nguyễn Văn Học, một ở ngã tư Phú Nhuận, cũng thỉnh thoảng gặp các vong linh ở nghĩa trang Quang Trung chận xe lại, nhã ý muốn đi chỗ này, chỗ kia.

Bác tài xế ở ngã tư Phú Nhuận thì kể rằng, thỉnh thoảng xe của bác được chở các vong linh người lính từ ngã ba Chú Ía đến nghĩa trang Quang Trung, lúc 9 giờ hơn là chuyến chót. Hoặc đôi khi xe bác rước các vong linh người lính từ nghĩa trang Quang Trung đến ngã tư Phú Nhuận lúc 7 giờ tối.

Bác tài xế xe Lam ở đường Nguyễn Văn Học cũng kể rằng, đôi khi xe của bác cũng được chở các vong linh người lính từ rạp xi-nê Đông Nhì ở đường Lê Quang Định, Gò Vấp đến nghĩa trang Quang Trung lúc 9 giờ hơn là chuyến chót.

Cả ba bác tài xế xe Lam nói trên đều nói rằng, lúc đầu các bác còn ngạc nhiên về trạng thái chận xe, lên xe, xuống xe, lúc hiện lúc ẩn của các vong linh người lính. Nhưng sau đó, không những không ngạc nhiên mà còn cố ý muốn đón rước họ. Do vậy mà các vong linh người lính ở nghĩa trang Quang Trung biết được lòng hoan hỷ của ba bác xe Lam, nên hiện hữu để chờ xe của ba bác chạy qua mà chận đón để đi thưởng ngoạn và về lại chốn cũ. Từ chỗ này cho ta hiểu rõ thêm cụm từ “ma bắt coi mặt người ta”.

Chữ bắt là động từ, được cắt nghĩa là hiểu thấu, biết rõ... Hiểu tâm ý của người sống đối với họ là thương, ghét, trách móc, hoan hỷ muốn giúp và không sợ họ. Nếu ghét hay sợ họ, thì họ tránh. Nếu thương, hoan hỷ và không sợ, thì họ nương vào để nhờ vả, đòi hỏi xin ăn. Còn biết, là biết trước rất hạn hẹp duy nhất về sự chết của người sống sắp xảy ra trong vài ngày tới, rồi dựa vào đó để đòi hỏi quyền lợi sau khi đặt điều kiện với người sống.

Để rõ thêm cái biết của loài ngạ quỷ, yêu ma, đối với người sống qua câu chuyện dưới đây.

 

CON QUỶ QUỲ XUỐNG TRƯỚC NGƯỜI ĐÀN ÔNG BẤT KHUẤT

Tại thành phố Phan Rang, từ cầu Ông Cọp trở ra hướng đông có một ngôi nhà khá lớn, sau khi cất xong, chủ nhà không ở được vì có nhiều hiện tượng ma quỷ thật ghê rợn thường xảy ra giữa ban ngày lẫn ban đêm, nên phải bán, đi ở chỗ khác. Người mua được nhà, khi vào ở mới vài hôm, cũng lại nghe, thấy những hiện tượng ma quỷ hiện lên quấy phá, bèn dọn ra lẹ, đi ở chỗ khác và treo bảng bán nhà rất rẻ. Người mua nhà lần thứ hai này mới dọn vào buổi sáng, đến chiều tối liền nghe tiếng rên, hú trong nhà cầu, chén bát bị đổ xuống sàn nhà, giường bị xê dịch, cửa sổ bị đóng mạnh vào rồi lại mở mạnh ra. Thấy những hiện tượng như vậy, vợ chồng con cái đi ra khỏi nhà tức khắc trong buổi tối đó, không mang theo được thứ gì cả ngoài bộ áo quần đang mặc trong người.

Sáng hôm sau, ông và vợ con ông đến để đem những đồ đạc cần thiết về nhà bà con. Khi vào dọn đồ đạc như vậy suốt buổi sáng, không có hiện tượng gì xảy ra, thật là yên ổn. Thấy vậy, vợ ông ấy bèn nói với chồng: “Đâu có ma quỷ gì đâu, yên lặng quá mà! Đừng dọn ra nữa, nên ở lại đi anh. Nhà đẹp thế này bỏ đi uổng lắm!”

Sau lời của bà vợ, ông chồng kề tai vợ nói nhỏ: “Ma quỷ nó biết ý mình quyết định không ở, nên nó để yên cho mình dọn đó. Nếu mình đổi ý muốn ở lại, nó hiện ra quậy phá cho bà thấy. Đừng giỡn mặt với ma quỷ, chúng biết hết ý đồ của người sống”.

Có lẽ muốn cho bà vợ ông ấy đừng sanh lòng tiếc rẻ ngôi nhà và cũng như để dứt khoát không cho và nhắn nhủ người sống nào đó đừng tiếp tục vào mà quấy rầy nó. Cho nên con quỷ đã tạo ra hình ảnh chót thật ghê rợn. Vì vậy bà vợ ông ấy vừa mở cửa nhà xí, bà liền hét lớn tiếng, rồi ngất xỉu xuống sàn. Nghe tiếng vợ hét, ông ấy liền chạy vào, đỡ vợ lên và dìu thẳng ra đường, nơi hai chiếc xe ba gác đã được tràn ngập đồ đạc do hai đứa con chất lên từ sáng.

Thấy không cần thiết một vài thứ nhỏ còn lại trong nhà xí, cũng như khỏi cần đóng chốt cửa bên trong, ông chồng trở lui, đứng ngoài khép hết cánh cửa lại, rồi cùng nhau đẩy xe đi.

Trên đường, ông chồng vừa đẩy xe vừa hỏi vợ thấy hình ảnh gì trong nhà xí, mà hét lớn tiếng như vậy? Bà ấy vừa đẩy xe, vừa kể rằng, thân con quỷ ốm và cao, tóc tai bù xù lòng thòng chấm đất, tay chân xanh lè, mặt nó đỏ ngầu, đôi mắt trắng sát nhìn lên trần, cái lưỡi cũng đỏ ngầu và le dài tới giữa cái bụng to như trái cầu. Nó đứng im lìm không nhúc nhích. Ông chồng tiếp lời: “Có lẽ nó chỉ hù nhát mình bà, vì bà còn sanh lòng tiếc rẻ ngôi nhà, cho nên khi tôi vào đỡ bà đứng dậy, tôi chỉ thấy nhà xí trống rỗng, chả thấy nó đâu cả!”

Từ đó toàn dân thị xã Phan Rang và lân cận đều biết đến ngôi nhà ma đó. Do vậy ngôi nhà bị bỏ hoang hằng bao nhiêu năm, không ai dám vào ở.

Một ngày nọ, vào giữa mùa xuân 1951, có một gia đình gốc người Phú Yên, gồm có ông chồng, bà vợ và đứa con trai đến để hành trang tạm trước cửa ngôi nhà hoang nói trên trong lúc đang đi tìm việc làm nơi xứ lạ quê người không bà con, quyến thuộc, bạn bè. Qua vài ngày ngủ nghỉ, sinh hoạt ăn uống trước cửa nhà, mà không thấy cửa mở, không nghe tiếng sinh hoạt nào trong nhà, nên cứ ngỡ là người trong nhà đi chơi đâu xa, do vậy lấy làm yên tâm ở thêm cho đến khi chủ nhà về sẽ dọn qua chỗ khác. Nhưng từ ngày này qua ngày khác, với thời gian gần cả tháng, mà chưa thấy chủ nhà về.

Với sự tò mò để xem thử bên trong ngôi nhà ra sao, có thực thể vật dụng của người ở hay không, ông chồng đưa tay mở thử cánh cửa lớn sát bên nơi đã ngủ nghỉ qua gần cả tháng. Thấy cửa không bị khóa, nên ông mở toạt ra luôn cả hai cánh. Sau đó ông nói với vợ con ông rằng: nhà này bị bỏ hoang, vậy mình vào ở, nếu ai đến nói gì, mình sẽ dọn đi, trả nhà lại cho họ.

Mới đêm đầu, bản thân ông, và vợ con đã bị con quỷ nắm chân lắc mạnh, giựt tóc. Ông ta bèn đốt đèn lên, cầm con dao xắc thịt, vừa đi vừa nói: “Quả thật ma quỷ trong nhà này phải không? Tao không sợ”. Rồi bảo vợ con hãy ngủ, để ông canh ma quỷ, nếu hiện lên, ông sẽ chặt nó.

Qua một tiếng đồng hồ ngồi, rồi lại đi khắp nhà để tìm ma quỷ, thấy yên tịnh, không có hiện tượng quấy phá nữa, ông tiếp tục nằm ngủ. Chưa tới 20 phút ngủ, ông tỉnh dậy bởi những tiếng đóng cửa sổ rất mạnh, một đống đen to nhúc nhích trên sàn. Ông liền nhảy đến, dùng con dao chặt xuống, nhưng chỉ nghe một tiếng “cạch” lay động cả cánh tay. Ông nhìn chung quanh, nhìn lên trần nhà, lại thấy nó thòng đầu xuống giữa suối tóc đen dài như liễu rũ bên hồ, rồi lắc qua lắc lại như con dơi trong ánh sáng lờ mờ của cây đèn bóng hột vịt càng làm rõ thêm hiện tượng vốn đen ấy, càng thêm đen. Ông bình tĩnh, vào bếp lấy cây đòn gánh, bước tới trong tư thế đánh kiếm với địch thủ, rồi lấy sức bình sinh quất ngang thật mạnh. Nhưng vì thân quỷ vô hình nên làm cho người ông lướt tới, đánh đòn gánh vào tường, người ông ngã ra sau, ngồi ịch xuống sàn nhà, gần sát bên bà vợ và đứa con trai đang ngủ.

Nghe sự va chạm vào chân, vợ ông tỉnh ngủ, ngồi dậy bảo ông nên dùng lời ngọt dịu nói với con quỷ, xin nó thông cảm cho hoàn cảnh không bà con, chưa có việc làm, nên chưa có chỗ ở, xin nó ở tạm vài ngày nữa sẽ đi, trả lại nhà cho nó.

Lúc đầu ông chồng không tin loài ma quỷ có tâm hiểu biết, nghe lời người sống nói, vì ông theo đạo Trời, nên bác bỏ ý kiến của bà vợ. Nhưng sau lời ông bác bỏ, liền có một tiếng ngáp dài ghê rợn từ nhà xí vọng ra làm cho hai người nhìn nhau im lặng. Trong không gian im lặng dễ sợ ấy, bà vợ phất tay ra dấu cho chồng nằm xuống cùng với lời nói nhỏ: “Con quỷ nó ra hiệu bảo mình nằm xuống ngủ và nó bằng lòng cho mình ở tạm đây rồi”. Nghe lời vợ nói, ông ấy nằm xuống ngủ một giấc ngon lành thẳng giấc cho đến sáng, lúc mặt trời lên cao mới thức dậy. Từ đó ông ta mới tin loài ma quỷ có biết nghe lời người sống, biết ý của người sống muốn gì, nên con quỷ không tiếp tục đánh phá, để ông được ngủ yên. Chẳng những được yên giấc của phần tư đêm còn lại sau mấy trận chiến đấu với con quỷ ở đêm đầu mới đến, mà còn được tiếp tục yên ổn sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ hơn mười ngày đêm là thời gian thất hứa với con quỷ là chỉ vài ngày. Do vậy bà vợ mới bảo ông chồng là nên dọn ra, đến một vỉa hè phố mà ở được tiện lợi hơn về mọi mặt: làm nghề gánh mướn, khuân vác, chạy bàn nhà hàng và sự ngủ nghỉ dù không nhà vẫn an giấc, vì trời Phan Rang ít mưa, nóng bức đêm ngày, chứ tiếp tục ở trong ngôi nhà ma này sẽ bị ma quỷ đánh phá tiếp. Ông chồng bằng lòng ra lời, nhưng mà ý cứ muốn ở tiếp để xem con quỷ đối xử ra sao nữa. Cho nên sáng ra chợ, tối về ngủ, cứ như thế được ba hôm. Đến đêm thứ tư, con quỷ hiện lên, nó đứng đối diện cách khoảng vợ chồng ông ấy vài thước với hình bóng người đàn ông mặc áo trắng, đứng trong tư thế nghiêm nghị, rồi nói bằng tiếng người rõ ràng: “Tôi cho gia đình ông được ở thêm ba ngày nữa, phải dọn đi. Bằng không ta sẽ bắt vợ ông chết”.

Quả thật, qua ngày thứ tư bà vợ ông ấy lên cơn sốt rét, rồi qua đời. Sau mấy ngày chôn cất vợ xong, do đồng bào giúp đỡ, ông ấy cũng không chịu dọn ra, vì ông ta cho rằng đời người trong tầm tay của thiên mệnh, nên cái chết của vợ ông là do thiên mệnh gọi về trời, do vậy ông ta tiếp tục ngủ ở đó với người con, sau một ngày làm việc ở chợ. Một hôm nọ con quỷ lại hiện lên với hình bóng cũ và thái độ như trước, nó nói: “Tôi cho ông và con ông được ở đây ba ngày, sau đó phải dọn ra khỏi nhà. Bằng không ta sẽ bắt con trai ông chết”.

Quả nhiên, qua ngày thứ tư, đứa con trai ông lên cơn sốt rét vào buổi trưa ngay ngoài chợ, rồi qua đời. Qua mấy ngày chôn cất con ông, cũng do đồng bào giúp đỡ. Nhưng ông vẫn ở tiếp tục trong căn nhà ma, không thèm dọn ra, vì giữ vững lập trường là do thiên mệnh cho sống trên đời hay gọi về trời.

Một buổi tối nọ, sau khi ông ta đi làm về, vừa bước vào nhà, con quỷ hiện lên, cũng y phục như trước và thái độ nghiêm nghị như cũ. Nhưng lần này nó quỳ xuống và thưa rằng: “Thưa ông, tôi không có quyền bắt vợ con ông chết, mặc dù tôi có khả năng. Nhưng sở dĩ tôi nói bắt vợ con ông chết, chỉ là lời hù dọa để ông dọn đi, trả nhà lại cho tôi, để tôi được tự do, vì tôi bị ông, vợ con ông đè lên người tôi, đi trên đầu tôi. Thật sự vợ con ông bị chết là do bệnh sốt rét kinh niên tái phát, mà tôi có biết trước vài hôm, nên dựa vào đó tự xưng có quyền để ông sợ mà đi ra khỏi nhà thôi!

Nay tôi biết ý ông còn muốn ở đây, nhưng rồi ông cũng phải ra đi, vì ông không chịu nổi sự tiếp tục đánh phá của tôi đối với ông. Tuy nhiên, để ông và tôi cùng có lợi, tức là ông được ở, tôi được siêu thoát khỏi kiếp quỷ. Vậy ông hãy giúp tôi, là lấy hài cốt của tôi đang nằm dưới sàn nhà, đem chôn chỗ khác, ông sẽ được ở yên muôn đời, không còn ai đánh phá ông nữa.

Để xem thử lời yêu cầu của quỷ có thật không, ông ta đến chùa tỉnh hội Phật giáo Phan Rang gặp thầy trụ trì, trình hết sự việc và lời yêu cầu của vong linh con quỷ trong căn nhà, được thầy trụ trì chấp nhận lo liệu lấy hài cốt lên, đem chôn chỗ khác và làm lễ cầu siêu. Vì ngoài thầy ra không còn ai để giúp ông ấy thực hiện lời yêu cầu của con quỷ.

Trong dịp gặp gỡ, thầy trụ trì không quên hỏi người đàn ông bất khuất trước con quỷ ở đâu đến và nguyên nhân nào vào ở trong nhà ma? Người đàn ông ấy kể rằng gốc Phú Yên theo đạo thờ Trời, vì không chịu nổi cảnh đói khổ và sự hà khắc ác nghiệt của Việt Minh cộng sản Liên khu năm (1946-1954) cũng như bom đạn của thực dân Pháp thường xuyên thả xuống ruộng đồng gây cho người dân nhiều thứ khổ, trong đó ngày ngủ, đêm làm. Vì thế phải tìm đường vượt biên qua đèo Cả, rồi được vào Nha Trang cuối mùa thu 1950. Sau đó vào Phan Rang theo lời người ta mách bảo ở Phan Rang dễ tìm việc làm đúng theo khả năng. Tại Phan Rang không có bà con, bạn bè, nên tạm trú từ hè phố cho đến nhà ma.

Như đã hứa với người đàn ông ở nhà ma về việc lấy hài cốt, thầy trụ trì cùng với một số Phật tử đến và bắt đầu khởi công. Qua gần một tiếng đồng hồ đào giữa sàn nhà. Quả nhiên có dấu hiệu gỗ mục rồi đến hài cốt. Hài cốt chỉ còn một nửa, có màu trắng đục và nặng, đó chính là hài cốt đàn ông.

Kể từ sau đó, người đàn ông gốc Phú Yên kia, từ chỗ không nhà lại được nhà, mất tự do được tự do, không tin ma quỷ, phải tin ma quỷ. Nhưng cũng thật cô đơn!

(Viết phỏng theo lời của vị Hòa Thượng gốc Phan Rang, nay đang sống và hành đạo tại Đài Loan).

 

6.- BIẾT CHỌC QUÊ CÁC ÔNG CÓ TÍNH ĐA TÌNH

Trước 1975, người dân hai tỉnh Pleiku (Gia Lai) và Kontum đều nghe đến chuyện các ông có tính đa tình đi xe gắn máy, lái xe bốn bánh từ Pleiku đến Kontum, Kontum đến Pleiku, thỉnh thoảng bị con quỷ cái giả dạng phái nữ cõi trần đứng bên đường đón xe xin quá giang để chọc quê bằng gương mặt ghê rợn.

Về câu chuyện này đã hơn một người kể cho tác giả nghe trong thời gian vừa dạy học vừa nghiên cứu siêu hình tại thị xã Pleiku. Thiên hạ kể rằng: tại một số nơi, như ngã ba Quân Cảnh, bên vệ đường đối diện trại giam tù phiến cộng, trước trường Bán công, bên đường gần cổng thành Pleime (Tổng hành dinh Quân đoàn II), ngã ba vào sở trà Biển Hồ, bên đường lộ gần trại Lôi Hổ B.15 Kontum, bên kia cầu Đấp La.

Tất cả những nơi trên, thỉnh thoảng vào buổi trưa tròn bóng, lúc chiều lên tắt nắng, có xuất hiện một hình bóng người nữ; khi thì một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp, khi thì một mệnh phụ nửa chừng xuân đậm đà. Cả hai với vóc dáng cao cao, được phục sức áo dài trắng quần trắng, hoặc có khi áo cụt trắng dài tay bỏ ra ngoài, phủ xuống cái củm đen, thường được gọi với tên (quần đùi một ống), hay có lúc quần tây trắng, áo sơ mi đen bỏ trong quần, tay cầm ví, có lúc mang vai. Đầu, đội nón lá xứ Huế, hay có lúc đội mũ lòng tròn, vành bo theo kiểu nón của nữ hoàng Anh Quốc, hoặc có khi đầu không nón để lộ ra mái tóc uốn quăn tròn, uốn cao, cắt ngắn bum bê và có khi một suối tóc dài ngang lưng. Còn về giày dép mang ở chân, không được người kể chuyện nói đến. Có lẽ các ông gặp quỷ nữ đón xe, chỉ có nhìn phần trên mà quên nhìn phần dưới bởi tinh thần vị tha cao độ!

Con quỷ cái giả dạng gái cõi trần tại các nơi nói trên, không đón xe đò, xe có hai người trở lên dù toàn là đàn ông, chỉ đón xe các ông đi một mình bằng xe nhà, Jeep, xe GMC hay xe gắn máy, kể cả xe đạp nữa.

Vì vậy mà người kể chuyện với tác giả nói rằng: có lần ông và hai người bạn ông đi xe Jeep từ Pleiku về Kontum, vào trưa tròn bóng, thấy từ xa có một cô gái mặc áo dài trắng đứng ở ngã ba sở trà Biển Hồ trong tư thế đợi xe. Cả ba người trong xe ai cũng đắc ý muốn dừng xe đón cô ấy, nên bắt đầu giảm tốc độ rồi rà xe, dừng lại sát lề, hỏi cô ta có về Kontum, sẵn sàng cho đi. Cô ta quay mặt khi xe rà tới, phất tay từ chối lời hỏi của ông, làm cho cả bọn tiếc rẻ.

Khi về đến Kontum, ông đem câu chuyện trên kể cho các bạn cùng sở nghe. Thì, một trong số những người nghe liền nói: “Đúng rồi con quỷ cái giả dạng gái cõi trần, nó chỉ thích đón xe các ông đa tình háo sắc đi xe một mình thôi. Ông nào mà háo sắc, sau khi cho nó lên xe, chạy một đoạn đường, đưa lời ve vãn, tức thì nó cho thấy cái mặt xanh lè, lưỡi đỏ le dài của nó, chừng đó hồn xiêu, vía lạc, xe chạy đâm xuống hố, vào bụi, vào rừng. Khi tỉnh lại, người đẹp ác quỷ không còn, thấy mình nằm ở bệnh viện. Nhiều ông ở Kontum này và Pleiku đã bị gãy chân do té xuống xe, đưa vào bệnh viện rồi, bởi cái mặt xanh lè, nhe răng của nó sau khi rước nó lên xe. Chẳng hạn ông Tr. ở Pleiku là công nhân thợ máy, từ Pleiku về thăm gia đình ở Kontum vào chiều thứ bảy bằng xe gắn máy Honda 67 hai ống bô gồ ghề chổng lên phía sau. Khi ông gần tới cổng thành Pleime, thấy một phụ nữ đứng bên lề đường với tướng trạng phục sức áo sơ mi trắng bỏ vào quần tây đen, tóc uốn cao, đưa tay vẫy vẫy xin quá giang. Ông ta liền giảm tốc độ, rà xe vào lề, dừng lại tươi cười, mời người phụ nữ ngồi lên yên phía sau. Từ đó trên đường về Kontum, ông ta bắt chuyện, hỏi người phụ nữ phía sau hết chuyện này sang chuyện khác. Người phụ nữ khi thì trả lời, khi thì im lặng thật lâu. Sự im lặng làm cho ông ta giảm tốc độ, nghiêng mặt nhìn ra sau, thấy ghế trống, liền thoáng qua ý nghĩ là bà ta đã rớt xuống xe ư! Tức thì phía sau có tiếng trả lời “em còn đây mà!”. Ông ta yên chí, tiếp tục chạy. Khi xe gần đến trại Lôi Hổ B.15, ông ta quay lui với góc độ 45o làm cho đầu xe bị chệnh choạng trong ý tưởng để hỏi người ngồi sau xuống đâu, nhưng chưa hỏi, thì cùng lúc người phụ nữ phía sau chường tới trước với cái mặt trâu xanh lè, răng nanh cong quắp, lưỡi đỏ lòng thòng, mắt lồi ốc bưu trắng xóa trợn ngược, tóc xõa phủ tai... làm cho ông ta ngất xỉu, không còn biết gì đến thực tại, liền bị ngã xuống đường, chiếc xe cỡi lên mình ông, làm cho ông bị gãy hai xương sườn, phải vào nhà thương.

(Viết phỏng theo lời kể của một sĩ quan QLVNCH thuộc Tiểu Khu Pleiku, đang tại ngũ vào năm 1970).

 

7.- VONG LINH BIẾT NHIỀU MẶT

Bản thân và sự nghiệp của con người đang sống như thế nào, chính là quả báo nghiệp của đời trước đã tạo ra. Còn các nghiệp hôm nay mà con người đã và đang hành động sẽ được thức A-Lại-Da của con người mang theo sau khi chết, chính là chất liệu kiến tạo bản thân của kiếp kế tiếp. Bản thân kế tiếp nếu bị lưu lại tại không gian cõi người do cận tử nghiệp, nếu không nói là tâm tư chứa đựng nhiều thứ vọng. Cho nên các vong linh vẫn biết thực tại về bản thân họ và thực tại về bản thân, tâm tư, hành động của thân nhân, bạn hữu ở cõi trần và cõi âm. Cũng như vẫn còn nhớ rõ những việc ở quá khứ lúc còn sống mà họ đã tự làm và cùng làm với quyến thuộc, với các đồng đội. Kể cả đếm được thời gian, nhớ rõ năm tháng của cõi trần trong khi họ đang ở cõi chết.

Do bởi tâm vọng ấy ngay giờ phút chết, cho nên tâm tư của các vong linh chỉ biết về vật chất nói chung, nào là bản thân họ, thân nhân, quyến thuộc, bạn bè, chức tước xưa, sự học hành, trường sở, kể cả tâm tư tự hào về cấp bậc, v.v... Trong khi đó các vong linh không hề biết gì về đời sống tinh thần, cho nên khi được giao tiếp với những nhà ngoại cảm, các vong linh không nói gì về chuyện tu niệm, Phật, Trời, mà chỉ nói toàn là vật chất. Trong tư tưởng vật chất đó chủ yếu là trách móc người sống về nhiều chuyện vui, buồn, thương nhớ thân nhân. Vì thế cho nên một khi các vong linh được tiếp nhận tần số âm của các nhà ngoại cảm, là dịp họ thổ lộ ra tâm tư tình cảm, vui, buồn, thương nhớ, trách móc đối với thân nhân, quyến thuộc và bạn hữu, v.v... Chẳng hạn tại hiện trường lấy hài cốt những người lính Vệ Quốc Quân của Việt Minh ở núi Non Nước (Bắc Việt), các vong linh lính Việt Minh đã nói lên nhiều tư tưởng được thông qua người ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Một trong các vong linh nói lên nhiều tư tưởng, đó là vong linh Vệ Quốc Quân Nguyễn Anh Tâm.

Những tư tưởng mà vong linh Nguyễn Anh Tâm đã nói ra được Phan Thị Bích Hằng thông ngôn lại, đó là lời than trách các đồng đội đang có mặt tại hiện trường lấy hài cốt. Vong linh Nguyễn Anh Tâm nói: “Chúng tôi là người có tên tuổi, có gia đình, có quê quán. Chiến đấu hy sinh vì tổ quốc, mà nay không có được một mộ phần, một tấm bia!”. Một lời than trách khác: “Đến nay là đã 41 năm 11 tháng thiếu 3 ngày, gia đình và đồng đội mới đến thăm tôi!”.

Sau lời than trách của vong linh Anh Tâm, ông Báu (anh ruột của Anh Tâm) và ông Tạ Doãn Địch đang đứng tại nơi lấy hài cốt hôm đó là ngày 24-4-1993, liền cùng nhau nhớ lại ngày Anh Tâm chết là ngày 25-4-1953 cho tới ngày 25-4-1993 là đúng 41 năm 10 tháng 27 ngày. Sau đó ông Địch và ông Báu nhìn nhau im lặng vài giây, rồi nói lời khen: “Như vậy các đồng chí nằm ở đó đếm từng ngày”.

Vong linh Nguyễn Anh Tâm còn nói lên ý muốn sống chung với đồng đội ở cái nghĩa huynh đệ chi binh: “Cứ để em ở lại cùng với đồng đội, anh em đã ở với nhau hơn 40 năm rồi, không muốn xa rời nhau”, sau khi ông Báu có ý muốn đem hài cốt về quê nhà, chứ không muốn cải táng hài cốt Anh Tâm tại nghĩa trang liệt sĩ.

*

*   *

Một số vong linh khác tại hiện trường, khai quật hài cốt ở La Tiến cũng nói lên nhiều tư tưởng.  Chẳng hạn vong linh ông Trần Sơn là anh ruột ông Trần Phương đã nói lời than trách ông Phương rằng: “Chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu. (Ông Phương đã nói lời xin lỗi ông Sơn và nói lý do.) Lần sau chú báo cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Người trên này (người ở cõi dương) có tâm đấy, nhưng mò kim đáy biển, biết chỗ nào mà đào. Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ có hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong, xác em mình giạt vào, nếu không thì đã trôi tuột đi rồi.”

Vong linh ông Sơn có hành động theo dõi người sống để chỉ dẫn và giúp đỡ người sống, được Phan Thị Bích Hằng thông ngôn lại: “Hôm chú (tức ông Phương) đi tìm mộ em Khang, anh cũng có theo dõi. Chú đào xuyên cả lớp đất nguyên thủy. Em mình đâu có nằm sâu đến thế. Chỉ hơn một mét là đến lớp cát đen rồi. Em mình cũng chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào đất đánh gãy vất lại đó. Vô tình như đánh dấu cho mình”.

Về hành động giúp đỡ người thân trên cõi trần, ông Sơn nói: “Người âm không giúp được gì nhiều, nhưng cũng có lúc đỡ được. Có lần chỉ cần anh đến chậm một tý, thì cháu Trang (cháu nội ông Phương) đã gặp nguy hiểm rồi.” Tức là vong linh ông Sơn đến nhanh, cho nên kịp thời đỡ được cháu Trang khỏi bị nguy hiểm. (Nguy hiểm như thế nào, ở đây không thấy ông Trần Phương nói đến).

Về dẫn đường, vong linh ông Sơn nói: “Anh không thể nắm tay chú, (vì thân vô hình) nhưng anh sẽ tìm một con vật nào đấy – con ong, con bướm chẳng hạn – sai khiến nó (khả năng bằng thức) để dẫn đường cho chú. (Sau lời ông Phương hỏi vong linh ông Sơn bằng cách nào để dẫn đường)

Qua sự tiếp xúc giữa nhà ngoại cảm Bích Hằng và các vong linh Việt Minh được thể hiện ra trạng thái đối đãi và ngôn ngữ vui, buồn của các vong linh đối với Bích Hằng và những thân nhân của họ. Cho ta biết rõ thêm về tâm tư của tất cả vong linh nói chung bị lưu lại không gian cõi người; từ chỗ không biết mình chết do tâm mang nhiều tham vọng, đến chỗ đã biết mình chết do có nhận thức.

Khoảng thời gian từ không biết đến biết mình chết do có nhận thức, là tùy theo căn tính của mỗi vong linh vốn có lúc còn sống, mà biết mình chết mau hay chậm, nhất định phải biết. Hơn nữa, thời gian cõi âm dài hơn cõi dương, một ngày của cõi dương bằng năm cõi âm. Do vậy, bản thân và tâm tư của các vong linh được khôn lớn và già nua. Khôn lớn về tư tưởng, già nua về bản thân, dù là vô hình vẫn già nua, đúng như lời Bích Hằng đã xác định thân tướng vong linh ông Sơn ngay hiện trường lấy hài cốt là già hơn và gầy hơn được so với tấm ảnh mà ông Sơn đã chụp năm 1948 (thời gian kháng chiến chống Pháp) do ông Trần Phương đem theo để nhờ cháu Bích Hằng nhận diện nếu ông Sơn hiện về tham dự việc lấy hài cốt cô Khang.

Quả thật đúng như lời ông Phương nói: “Tôi đưa cho cháu Hằng bức ảnh (ông Sơn) đã thủ sẵn trong túi, định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn về người này, nếu linh hồn không nhận ra thì hẳn sẽ rõ là chuyện tào lao. Cháu Hằng xem ảnh, bảo đúng, nhưng trông bác (Sơn) già hơn và gầy hơn trong ảnh. Thực vậy, bức ảnh chụp năm 1948, trong tư thế rất ‘bảnh trai’, khi anh tôi đang công tác ở Sơn Tây.”

Vì chỗ biết được qua nhận thức ấy, mà mỗi trạng thái buồn, vui và ngôn ngữ trách móc, than thở của các vong linh bên cõi chết, thật y hệt không khác với người sống ở cõi trần. Tức là tất cả vong linh đều có tâm tư duy, suy nghĩ về đủ thứ chuyện ở quá khứ thực tại cõi âm về thân phận mình. Để rồi sau đó khởi lên ý niệm hỷ lạc (vui), buồn tênh, mong đợi, trách móc, vinh dự, tự mãn, thương nhớ và kể cả tâm từ bi đối với người thân được hiển lộ ra hành động theo khả năng của họ.

Tâm tư hỷ lạc và buồn tênh được thể hiện ra hành động và lời nói, đúng như Bích Hằng đã xác định về vong linh ông Sơn: “Bác Sơn, bác ấy vui tính lắm. Hễ bác nói là thấy không khí vui và phấn khởi. Còn cô Khang thì trông có vẻ hơi buồn”. Cũng như vong linh Nguyễn Anh Tâm rất vui mừng khi vừa thấy những lưỡi xẻng, lưỡi mai sắp sửa va chạm vào hài cốt của mình và đồng đội,  liền bắt nhịp cho đồng đội ở dưới đó hát bài “Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi...”

Do cái tâm còn chứa đựng tính chất nhân bản, cho nên các vong linh thường thương nhớ, giúp đỡ quyến thuộc và cũng thường trách móc thân nhân, quyến thuộc. Chẳng hạn vong linh ông Nguyễn Anh Tâm trách móc đồng đội: “Đến nay là đã 41 năm 11 tháng, thiếu 3 ngày, gia đình và đồng đội mới đến thăm tôi!”

Các vong linh khác cũng vậy, trong đó vong linh ông Sơn trách ông Trần Phương: “Chú đi tìm hài cốt em Khang mà chẳng nói với anh một câu.” Và trách cháu An, con trai của ông Phương, lời trách: “Ô kìa, cái thằng An nó vào mà không chào bác”.

Vì do tâm còn có tính chất nhân bản, cho nên ngoài tâm trách móc, còn có tâm thương yêu, giúp đỡ thân quyến và cũng lấy làm vinh dự, tự hào về mình dù là bản thân vô hình vẫn có tính nhân bản phàm phu. Bởi vì bản thân vô hình chính là tổng thể của tích lũy nghiệp tạo thành. Do vậy bên cõi chết, các vong linh đang bị tồn tại ở không gian cõi người, đều nói lên những tư tưởng trên, chẳng hạn vong linh cô Khang lặp lại lời của mẹ cô cùng ở bên cõi chết đối với cô cho ông Trần Phương nghe: “Mẹ thì khóc thương em nhiều lắm, cứ muốn em về bên mẹ để mẹ ôm ấp.”

Về vinh dự, cô Khang nói: “Còn anh (ông Sơn) thì khuyên em về nghĩa trang liệt sĩ. Vì đây là vinh dự của em mình, của gia đình mình cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời được người ta thắp hương cho mình...”

Vẫn còn bản ngã ở bản thân vô hình về vinh dự những chiến công của mình, vong linh cô Khang yêu cầu ông Quỳnh (em út ông Phương): “Cậu Quỳnh còn giữ những giấy tờ, bằng khen của chị không?” Ông Quỳnh đáp lời: “Bằng khen và huân chương của chị, em vẫn giữ”. Sau lời ông Quỳnh xác định còn giữ, vong linh cô Khang bảo ông Quỳnh: “Hôm làm lễ truy điệu chị ở nghĩa trang liệt sĩ,  cậu nhớ mang theo”.

Sau lời cô Khang bảo ông Quỳnh đem giấy tờ, bằng khen đến nghĩa trang liệt sĩ, được Bích Hằng thông ngôn lại, thì ông Phương nói: “Không ngờ người chết đã 50 năm mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần thế”.

Những vong linh bên cõi chết, không những quan tâm về vinh dự cho mình, mà còn quan tâm đến người thân ngay thực tại ở cõi âm, như mẹ cô Khang quan tâm đến cô Khang là muốn gần cô Khang để ôm ấp. Và cũng quan tâm đến thực tại của người sống ở mọi hoàn cảnh, trong đó có ra tay giúp đỡ, hộ trì theo khả năng, như vong linh ông Sơn đã thổ lộ: “Người âm không giúp được gì nhiều, nhưng có lúc cũng đỡ được. Có lần, chỉ cần anh đến chậm một tý, thì cháu Trang (cháu nội ông Phương) đã gặp nguy hiểm rồi.” Tức là cháu Trang gần suýt bị lâm nguy được vong linh ông Sơn vội đến đỡ. Đúng như lời ông Phương nói lại cho mọi người nghe sau khi cô Bích Hằng thông ngôn lại, ông Phương nói: “Tôi kinh ngạc khi anh nhắc lại đến tên “Cháu Trang, con của An”

(Viết phỏng theo tài liệu Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ – Một hành trình đầy bí ẩn do giáo sư Trần Phương ở Hà Nội thực hiện vào tháng 12 năm 1999).

 

 

LUẬN GIẢNG

 

Trong bài SỰ LƯU CHUYỂN VÀ HÀNH ĐỘNG ở phần tổng luận có nói đến sự lưu chuyển đó đây của các thân tử ấm, trung ấm, ma quỷ... rất là xuyên suốt không bị chướng ngại, một khi khởi lên ý muốn đến ai, ở đâu, liền đến ngay, không nương tựa phương tiện nào khác. Nhưng tại sao vong linh những người lính ở nghĩa trang Quang Trung không tự đi đến các rạp hát cho việc thưởng ngoạn bằng khả năng vô hình của họ, mà lại phải đón xe Lam làm phương tiện? Xin nói rằng: các loài vô hình nói chung, đều có cả hai năng lực tự lưu chuyển và nương tựa phương tiện của người sống.

 

a.- Tự lưu chuyển ở trường hợp tâm tư con người đang sống khởi lên ý niệm không dứt tư tưởng muốn gặp người thân, người tình, người oán, người thù v.v... Bỗng nhiên tử thần đến thình lình, thì cái tư tưởng thương nhớ, oán hờn về người thân, người oán vẫn tồn tại và hằng chuyển không dứt trên dòng thần thức của thức A-Lại-Da ở thân tử ấm, trung ấm, v.v... Từ đó họ ra đi hiện hữu bên đối tượng một cách mau lẹ và xuyên suốt bởi năng lực của tư tưởng nhớ hay giận hờn. Bởi vì họ không biết họ chết bởi tâm thức mê vọng, nên vẫn thấy thân vô hình y như thân lúc đang sống, do quên mất hoàn cảnh, môi trường cũ, như đang bệnh tật. Chẳng hạn câu chuyện bà Trợ ở Diên Khánh từ Suối Dầu đi ra Đèo Cả thăm em trai... đã nói ở trước, được điển hình rõ nét về sự lưu chuyển của chúng sinh vô hình.

 

            b.- Nương tựa vào các phương tiện (tàu, xe, thuyền bè) của người sống. Trường hợp nương tựa này, cũng do không biết mình chết. Đa số những người lính chiến, sau khi bị tử trận, vong linh họ đều nương tựa vào phương tiện người sống để đi đến các mục tiêu... mà tư tưởng họ đã hoài bão mong muốn từ lâu trước khi chết.

Tư tưởng và hoài bão mong muốn của những người lính là gì? Tư tưởng và hoài bão của những người lính chiến là mong sao được nghỉ phép hay được về thành phố nhân dịp nào đó để đi thưởng ngoạn, dù một ngày hay vài giờ cũng lấy làm thỏa mãn ý tưởng mong ước.

Ý tưởng mong ước đó cứ luôn hiện hữu trong tâm tư những người lính chiến. Do vậy được vắng đi một vài giờ ngay thực tại lúc tác chiến với quân địch là luôn đề cao cảnh giác về lằn đạn của địch để bảo vệ mạng sống, nên tâm ý và đôi mắt luôn hướng đến quân địch. Tuy nhiên cái niềm mong ước được nghỉ phép, về hậu phương để được thưởng ngoạn vẫn thường thoáng qua trong tâm thức, rồi lại mất, rồi lại hiện hữu. Bởi vì nó (tư tưởng mong ước) là nền tảng sống, vui sướng và hạnh phúc của người lính chiến. Với người lính chiến chỉ ước mơ như vậy thôi. Thì đang vừa hướng đến quân thù, lại cũng vừa ước mơ nghỉ phép về hậu phương…... lẫn lộn với nhau, bỗng nhiên bản thân hữu hình bị chết đi bởi bom đạn của quân địch. Nhưng thần thức người lính chiến không biết mình chết, thấy thân mình hiện hữu ở thực tại. Thực tại ở đây là tại quê nhà hay nghĩa trang quân đội sau khi thần thức thoát ra khỏi xác, thì xác đó đã chôn vào lòng đất, cho nên họ thấy thân trung ấm của họ, mà cứ ngỡ là bản thân hữu hình, vì vẫn thấy mình đang mặc quần áo trận, đội mũ lính, đi giày lính. Từ đó ý niệm ước mong được đi thưởng ngoạn đang hằng chuyển trên dòng sóng thần thức trong thân trung ấm là năng lực ra đi đón xe. Với cung cách của người lính chiến VNCH vẫn là cung cách đàng hoàng, lễ độ, nhã nhặn với mọi người dù ở trạng thái sinh động và linh hoạt, mau lẹ lên xe, xuống xe, nói cười với nhau thôi, chứ không bao giờ sách nhiễu hay bất nhã với mọi người. Do vậy mà đã làm cho các bác xe Lam nhớ từng khuôn mặt, lời nói của các vong linh người lính khi đón xe, lên xe, xuống xe Lam của các bác, dù cho sau khi các bác biết các chú lính đón xe tại bên đường nghĩa trang Quang Trung là các vong linh vô hình, chứ không phải thân lính hữu hình. Biết các vong linh người lính đón xe, nhưng các bác xe Lam không hề sợ hãi. Sở dĩ các bác xe Lam không có cảm giác sợ các vong linh người lính đón xe, là vì thân tướng và thái độ nhã nhặn dễ thương của họ không khác gì như người lính hữu hình, không có một hiện tượng ma quỷ ghê rợn nào, dù có lúc các bác nhìn lui không thấy chú nào ngồi ở ghế, nhưng khi xe ngừng thì thấy có bước xuống xe, nói lời cám ơn và chào tạm biệt các bác tài sau khi nghe nói “mấy anh em lính khỏi trả tiền”. Thật sự các bác xe Lam biết các vong linh người lính đâu có tiền thật mà trả, nên nói lời miễn phí cho họ.

Chẳng những các bác xe Lam không sợ, mà còn cảm thấy nhớ những vong linh người lính suốt trong thời gian dài không còn thấy họ đón xe sau mỗi lần tại nghĩa trang Quang Trung có hành lễ Trai Đàn Siêu Độ do Nha Tuyên Úy Phật Giáo đảm trách theo sự vụ văn thư của Tổng Cuộc CTCT – QLVNCH. Sự vắng bóng lâu nhất và cuối cùng được kể từ khi nghĩa trang Quang Trung được chấm dứt an táng vào khoảng năm 1967.

Qua sự vắng bóng các vong linh người lính không còn đón xe Lam nữa sau mỗi lần lễ cầu siêu của Phật Giáo, cho ta được biết rõ thêm những vong linh người lính ở nghĩa trang đã được siêu thoát kiếp ma. Siêu thoát ở đây chỉ là hết làm kiếp ma, được đi lên. Sự đi lên có thể được thác sinh làm người trở lại, đến các cõi trời hay có thể thác sinh vào cõi Cực Lạc do mức độ tỉnh thức của các vong linh sau khi được khai mở tâm thức u tối mê muội thành trong sáng bởi giáo pháp cầu siêu tại đàn tràng. Từ đó các vong linh được ăn uống no nê và sau đó được siêu thoát, đúng như lời sám văn: “... nhứt tâm triệu thỉnh chư hương linh lai đáo đàn tràng, thính pháp văn kinh, thọ tài hưởng thực, tức khắc siêu sinh tịnh độ” do chư vị tổ sư chứng ngộ thấy được các vong linh trung ấm, ma quỷ, yêu tinh, cô hồn, âm hồn được khai mở tâm thức, được ăn uống và siêu thoát sau mỗi lần hành lễ cầu siêu.

Chư vị tổ sư không những chỉ thấy các loài chúng sinh vô hình được tỉnh thức thảnh thơi, ăn uống tại đàn tràng và sau đó được siêu thoát, mà còn thấy rõ chúng sinh vô hình trước khi đến đàn tràng, chúng bị đói khát, tiều tụy, khổ lụy, vật vờ, nghiêng ngả chơi vơi tại không gian cõi người lúc chiều lên tắt năng. Vị tổ sư thiền tông đã thấy rõ những trạng thái trên của chúng sinh vô hình, đó là ngài thiền sư Bất Động tại núi Mông, Trung Quốc, vào đời Đường. Vì vậy mà với đại bi tâm thương xót chúng sinh vô hình, ngài Bất Động đã chế tác ra nghi Mông Sơn Thí Thực Cô Hồn nói chung đối với tất cả vong linh bên kia cõi chết.

Về phần Mật tông, một số danh tăng Lạt Ma Tây Tạng cũng đã mất nhiều năm công phu Pháp Mật Tông cho mục đích nghiên cứu khảo sát về trạng thái của những vong linh trung ấm bằng cách du hành qua cõi chết để theo dõi hình thái vong linh. Gọi sự du hành này là xuất thần, tức là đi bằng tâm thức có chủ động định hướng đi và về lại bản thân thực tại. Sau đó quý ngài đã viết ra một số phương pháp cứu bạt chư vong linh trung ấm, trong đó có những cách thức hướng dẫn chư vong linh quay về ánh sáng chư Phật, v.v... Chẳng hạn cuốn sách Bên Kia Cửa Tử.

Trong tất cả bài sám văn, ngoài lời triệu thỉnh đến đàn tràng, trật tự trang nghiêm, mời ngồi (an linh), lắng nghe, khai tâm, v.v... còn có sám văn  nhắn nhủ, nhắc nhở các vong linh trung ấm, âm hồn, cô hồn, ngạ quỷ sau khi được thức tỉnh, ăn uống, siêu thoát, thì hãy nên nhớ quay về hộ trì cho gia quyến đang sống trên đời luôn được vạn sự khương thái, hàm triêm lợi lạc.

Tại sao chư tổ lại có lời nhắc nhở, nhắn nhủ các vong linh đừng quên hộ trì cho gia quyến họ như vậy? Bởi vì chư tổ sư mong muốn chư vong linh nói chung được có cái tâm thức tỉnh trong sáng dù rất ít sau khi được pháp Phật khai tâm, đừng để mất, hãy duy trì, vì nó là năng lực đưa vong linh siêu thoát. Cách duy trì đó, là quay về gia quyến mà khởi lòng giúp đỡ hộ trì cho thân bằng quyến thuộc được bình an khương thái. Nếu đánh mất cái tâm thức tỉnh ấy, tức là quên hộ trì gia quyến hay là sinh lòng oán hận gia quyến. Quên hộ trì gia quyến thì có thể được siêu thoát, chứ sinh lòng oán hờn gia quyến, thì nhất định không thể siêu thoát được, cho nên về phía chư vong linh không oán hận gia quyến, chư tổ nhắc nhở. Còn về phía chư vong linh vốn có lòng oán hận, chư tổ nhắn nhủ đừng nên oán hận, vì lòng oán hận, thù hằn là một loại phiền não cực mạnh làm cho bản thân vô hình bị chìm ngập trở lại vào bầu ánh sáng tối tăm.

Tâm hận thù, oán hờn của vô số vong linh bên kia cõi chết đối với gia quyến tộc họ nói riêng được tựu trung có hai hạng. Thứ nhất, khi còn sống trên đời bị chồng (vợ) thân quyến bên chồng (bên vợ) đối xử bất nhân, tồi tệ, hất hủi, bỏ rơi, tước đoạt tài sản, đánh đập, đày đọa, sát hại, v.v... Sau khi chết, mang theo tất cả những kỷ niệm thương đau khó quên đó trong tâm thức của bản thân vô hình, để rồi ôm hận, oán hờn... không bao giờ dứt. Mặc dù được thân nhân bên chồng (vợ) mời chư Tăng Ni hành lễ cầu siêu, nhưng vẫn không nguôi những kỷ niệm đau thương, càng thấy rõ cảnh cũ thương đau hơn lúc nào hết sau khi được chư tăng ni khai mở tâm ô nhiễm u tối thành trong sáng thức tỉnh bằng Phật pháp.

Do bởi cái tâm được trong sáng ấy, mà các vong linh thấy rõ cảnh cũ đau thương, mặt mũi người xưa đối xử bất nhân ác đức với mình nên càng oán hận hay là vì quá quyến luyến con cháu, do vậy mà không siêu, cứ hiện về hằng đêm trong căn nhà cũ. Sự việc vong linh không siêu cứ hiện về được ông LQT kể cho tác giả và một số bạn như ông LTT, ba nữ sĩ HLT, HHL và HY nghe về vợ ông chết tại Mỹ, được an táng tại Mỹ và được hành lễ cầu siêu hai nơi là Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng tại sao không siêu, mà cứ hiện về hằng đêm đi tới đi lui trong nhà bên Việt Nam, được thân nhân bên Việt Nam thấy rõ, rồi gọi điện thoại qua cho ông, kể rõ tất cả hiện tượng hiện về của vợ ông.

Sau khi ông LQT kể xong chuyện vong linh vợ ông hiện về, bà nữ sĩ HY kể về chuyện vong linh ông thân của bà đã chết từ năm 2002 đến nay 2004 là ba năm tại Huế và được cầu siêu đủ bảy thất, nhưng ông cụ chưa siêu cứ hiện về qua tận bên Hoa Kỳ nơi bà đang ở để báo tin là gói tiền 150 ngàn đồng Việt Nam trên bàn thờ của bà mẹ đã bị các chị em trong nhà tại Huế đánh cắp. Sau đó HY liền gọi điện thoại về Huế nói rõ chuyện trên cho các chị em bà biết. Các chị em bà liền nhận chịu là có lấy và hỏi lại bà tại sao bà biết, bà liền trả lời: “ba hiện về báo tin cho tôi biết như vậy”. Trường hợp hai vong linh trên không siêu, là vì do cái tâm quá sâu nặng thương yêu con cái. Vong linh thứ nhất (vợ ông LQT) đã bỏ lại đứa con gái. Vong linh thứ hai (cha cô Hy) vì quá thương người con gái mình là Hy đang ở Mỹ, nên cứ hiện qua Mỹ.

Với những vong linh được tâm trong sáng sau những lần cầu siêu mà không siêu, không phải là ít. Và cũng nhiều vong linh nghe lời nhắn nhủ của chư vị tổ sư qua lời đọc tụng của Tăng Ni, là nên xả bỏ oán hờn gia quyến bằng cách khởi lòng hộ trì cho gia quyến được bình an khương thái hàm triêm lợi lạc, đó là năng lực siêu thoát.

Vấn đề các vong linh không xả lòng giận hờn, oán trách con cháu, gia quyến, nên không được siêu thoát, mà lại còn trừng phạt con cháu, gia quyến là việc thường tình phổ biến trong xã hội, ai cũng nghe đến. Câu chuyện “Quan tài nặng ngàn cân” làm cho 12 người khiêng không thể nhấc lên nổi, dù đã cố sức hơn một lần.

Trước hiện tượng quan tài quá nặng không khiêng lên nổi làm cho mọi người trong gia quyến thắc mắc, không biết nguyên nhân từ đâu. Sau đó mới biết được những đứa con hai ba dòng chửi bới nhau trong việc tranh giành tài sản một khi quan tài còn đó chưa chôn. Vì vậy mà số người trong tộc họ nói lời khuyên giải những đứa con nên hòa thuận và giữ lòng thanh tịnh, cũng như đến trước di ảnh người chết nói lời van xin tha thứ cho những đứa con bất hiếu, không biết điều. Sau đó quan tài trở nên nhẹ bổng, lễ di quan được tiến hành.

Qua câu chuyện “Quan tài nặng ngàn cân” cho ta thấy rõ tất cả con người lúc còn sống trên đời dù có tâm cứng rắn đến đâu, qua bên kia cõi chết, thần thức vong linh của họ cũng phải bị bi lụy, yếu đuối, dễ xúc động. Do vậy mà chư vị tổ sư thường nhắc nhở, dặn dò thân nhân của người quá cố là đừng nên khóc, đừng cãi vã với nhau, luôn giữ tâm thanh tịnh và tụng kinh cầu nguyện, cũng như hãy xả bỏ tha thứ mọi lỗi lầm của người quá cố khi còn sống trên đời đã gây ra cho mình đúng với lời người xưa đã nói “nghĩa tử là nghĩa tận”.

Hạng thứ hai, khi còn sống trên đời, vô tình đã tạo cho mình một kiếp cô hồn, tức là mặc nhiên để cho con cháu bị lún sâu vào những hố thẳm vô thần chủ nghĩa, vô nhân bản, duy vật chủ nghĩa, vô đạo lý thánh hiền, vô đạo lý thờ cúng tổ tiên, ông bà. Vì thế cho nên qua bên kia cõi chết, vong linh họ không được con cháu quan tâm chăm sóc đến việc thờ cúng, do đó họ bị cô đơn, đói khát, vất vưởng lang thang, khổ lụy. Từ đó họ quay về oán hận con cháu. Chẳng những oán hận, mà còn trừng phạt con cháu bằng nhiều cách; trong đó thờ ơ, không hộ trì giúp đỡ, mặc tình cho con cháu lâm vào nhiều cảnh khốn cùng khác nhau. Đích thực điều này không riêng gì những người nguyên gốc đạo thờ ông bà thuở xưa, nay chạy theo chủ nghĩa vô thần, chủ thuyết vô thờ cúng, nên bị tổ tiên ông bà bên cõi chết trừng phạt, mà có cả một số người trong Phật giáo, từ Phật tử đến cao tăng đã không thờ phượng cúng tế tổ tiên ông bà, chư vị tổ sư, do quan niệm rằng chư vị tổ sư đã vào Niết Bàn, tổ tiên ông bà đã siêu sanh tịnh độ, nên chi đã bị trừng phạt. Chẳng hạn một vị cao tăng (xin giấu tên) tại hải ngoại có sở học đạo và đời rất là cao, cho nên ngài có ngôi chùa rất lớn, nhưng không có bàn thờ tổ, chỉ có thờ Phật. Cũng như không bao giờ thờ phượng cúng tế tổ tiên ông bà suốt thời gian từ lúc còn là một học tăng, cho đến khi lên hòa thượng. Vì thế cho nên ngài đã bị một thứ bệnh thật ngặt nghèo kéo dài hai ba năm mà không có thuốc nào chữa được. Đến khi được chư tôn giáo phẩm khuyên ngài nên thờ phượng chư vị tổ sư và cúng tế tổ tiên ông bà là sẽ khỏi cơn bệnh, vì đã được chứng nghiệm qua các bà con trong xóm làng bị bệnh ngặt nghèo mà được khỏi bằng lời van vái xin tổ tiên, ông bà phù hộ được thể hiện qua sự cúng tế, cũng như qua sách vở thánh hiền có chứa đựng đạo lý thờ phượng cúng tế tổ tiên ông bà cha mẹ quá cố, nên chi đem thần linh dược đó mà mách bảo cho vị hòa thượng trên được biết.

            Vì thế cho nên sau đó, ngài hòa thượng trên đã cấp tốc cho người về Việt Nam đặt làm bài vị thờ chư tổ và cho người về quê nhà xây mồ mả ông bà cha mẹ quá cố. Sau đó mời chư tăng địa phương đến tận nhà cử hành lễ Trai Đàn Cầu Siêu Tế Độ cho cửu huyền thất tổ.

Sở dĩ ngài hòa thượng trên có khởi tâm hiếu đễ và báo ân tổ tiên ông bà qua sự việc xây mồ mả và cầu siêu để mong cho được hết bệnh như vậy là do qua hai nguồn tư tưởng về đạo lý thờ phượng cúng tế tổ tiên, ông bà; đó là lời khuyên của chư tôn giáo phẩm và nhất là sau khi trực tiếp nghe một nam Phật tử gốc Huế đến thăm và trình bày rằng; sau khi cải tạo về được định cư ở Hoa Kỳ, nay đang ở Los Angeles. Sau đó ông bị một căn bệnh ngặt nghèo y như căn bệnh của vị hòa thượng. Tuy rằng mới phát, nhưng các bác sĩ cho biết tử thần đang đến với ông. Bỗng một đêm nọ, trong giấc ngủ, ông thấy mồ mả ông bà, quyến thuộc ở Huế bị lỡ, bị sụp và hình bóng ông bà hiện ra cùng với lời than trách ông, sao không thờ phượng cúng tế tổ tiên ông bà. Ông tỉnh dậy, liền nhớ rõ từ lúc khôn lớn lên, ra làm quan cho đến nay, ông không hề hay biết gì đến việc cúng tế ông bà, tổ tiên, đều phó mặc cho cha mẹ. Sau đó ông khởi lòng muốn báo ân ông bà tổ tiên, ông liền về Huế thực hiện hai việc: xây mồ mả ông bà, quyến thuộc và cung thỉnh chư tăng cử hành lễ Trai Đàn Siêu Độ cho vong linh ông bà tổ tiên nội ngoại hai bên.

Hai việc trọng đại trên được hoàn mãn, thay vì ông bị mệt mỏi, nhưng ông lại cảm thấy thân ông khỏe ra, ăn ngon, ngủ nhiều ngay sau đó từ Huế cho đến qua tới Mỹ một cách liên tục suốt hai ba tháng vẫn được tiếp tục. Trước sức khỏe được phục hồi liên tục như vậy, làm cho ông phải lo lắng, sợ hãi và tự hỏi hết bệnh thật hay là tử thần cho một khoảng huy hoàng để rồi sau đó bắt đi. Nếu được hết bệnh, do nguồn lực nào, cho nên để nắm chắc thật hay tạm, ông đến bác sĩ, nhờ bác sĩ khám lại căn bệnh cũ. Qua hai lần khám tổng quát thật kỹ và thử máu. Sau đó ông đến để xem kết quả. Trong lúc ngồi đợi, lòng ông thật hồi hộp lo lắng. Khi ông được bác sĩ gọi vào, hai chân ông như đi trên hư không, cùng nhịp đập thình thịch của con tim suốt trong khoảnh khắc nhìn bác sĩ đang lật hồ sơ qua từng trang. Đang sống trong giây phút hồi hộp như vậy, được bác sĩ nhìn đến, nở nụ cười và nói lời chúc mừng ông được thoát khỏi căn bệnh nan y, không còn tái phát nữa, lặn mất vĩnh viễn. Bác sĩ còn hỏi ông có uống thuốc bắc, thuốc nam gì không? Ông trả lời không uống một thứ thuốc nào cả. Sau lời khẳng định không của ông, người bác sĩ nói: “như vậy là ông được thần dược của các bậc tổ tiên, ông bà, thánh thần trên quê hương ông cứu ông”.

Đúng thật, ông ấy được khỏi căn bệnh nan y là do khởi lên tâm quay về thờ phượng, cúng tế tổ tiên, ông bà, mà chư thánh hiền, tổ tiên ta đã từng dạy con cháu vì đã từng thực hành đạo lý nhân bản đó qua bốn nghìn năm văn hiến.

Chính tôi được ông ấy kể rõ điều trên sau khi hết bệnh, về thăm Huế lần thứ hai, được một vài vị cao tăng ở Huế và Sài Gòn khẳng định với ông rằng: “ai thường phát tâm bố thí vật chất cho kẻ nghèo khổ khốn cùng, cúng dường Tam bảo, người ấy sẽ được nhiều phước đức. Nhờ phước đức đó mà được tai qua nạn khỏi, trường thọ sinh mệnh. Ai có tấm lòng giữ đạo lý dân tộc bằng hành động cụ thể qua việc thờ phượng, cúng tế tổ tiên, chư anh linh tổ quốc, ông bà, cha mẹ qua đời, thì nhất định được tật bệnh tiêu trừ, sự nghiệp hanh thông, con cháu được đề huề hạnh phúc gia thất. Ngược lại không thực hiện hai điều trên, nhất định sẽ gặt hái nhiều quả xấu... không hiện tại, cũng mai sau không xa, không ở đời con, cũng ở đời cháu sẽ chịu nhiều quả xấu”.

Qua lời khẳng định của chư tăng trong Phật giáo về vấn đề thờ phượng cúng tế tổ tiên, ông bà, anh linh tổ quốc, thánh thần, nói chung chúng sinh vô hình sẽ được tật bệnh tiêu trừ, hanh thông sự nghiệp, gặp nhiều điều tốt... cho ta được biết rõ thêm một cách chính xác rằng; tất cả giai cấp vong linh bên cõi chết có về chứng giám, thọ hưởng tài thực cúng tế và luôn sát cánh bên người sống để hộ trì cho người sống bởi do cái tâm thanh tịnh người sống thuộc phàm phu thế gian có theo đạo lý thờ cúng ông bà, dù chỉ chừng vài mươi phút đứng chắp tay khấn vái được xuất phát từ cái tâm thanh tịnh ấy, mà ngưỡng vọng đến chư vong linh vô hình, cũng đủ năng lực làm cho chư vong linh được ăn uống, an vui. Chứ không phải chỉ riêng cái tâm thanh tịnh nhiều giờ của chư tăng đọc tụng kinh chú lúc cầu siêu, chư vong linh mới được ăn uống. Từ chỗ này cho ta thấy rằng mọi hình thức cúng tế như cúng rằm tháng bảy, cúng đất, cúng ngựa, cúng giỗ (cúng kỵ), tế lễ thánh thần, cúng tế anh linh tổ quốc (Đàn Nam Giao dưới các triều vua nhà Nguyễn), cúng đầy tháng, cúng thổ thần, v.v... do người đời từ bình dân đến trí thức sắm lễ vật và tự cúng, không mời thầy trong Phật giáo, đều được vong linh vô hình chứng giám và hưởng thực, cũng như hộ trì. Tất cả là do cái tâm thanh tịnh của con người, dù chỉ một vài giây phút thanh tịnh thôi. Qua đây cho ta thấy rằng tâm thanh tịnh của người đời trong mọi thứ cúng tế được chư vong linh vô hình hưởng thực, được ví như mời khách đến nhà ăn bữa cơm đạm bạc. Còn tâm thanh tịnh hằng giờ của chư tăng trong mọi thứ cúng tế có đọc tụng kinh chú, được ví như mời khách đến nhà ăn bữa cơm thật thịnh soạn có nhiều món ăn.

Nếu người đời biết sử dụng thêm nghi thức cúng linh cô hồn (nghi mông sơn thí thực) của Phật giáo, lại càng làm cho chư vong linh được ăn nhiều, ăn ngon hơn, hạnh phúc hơn và siêu thoát.  Vì vậy mà nghi thức cầu siêu, cúng tế trong Phật giáo, cùng với tâm thanh tịnh của chư tăng suốt bốn hay sáu tiếng đồng hồ đọc tụng kinh chú tại đàn tràng Chẩn Tế Siêu Độ hay vài mươi phút, một giờ tụng kinh cầu siêu tế độ là năng lực lớn, càng làm cho chư vong linh vô hình, chẳng những được ăn uống ngon lành, an vui hạnh phúc nhiều, mà còn được siêu thoát lên các cõi trên và hết lòng quan tâm quay về hộ trì cho người sống sau khi người sống tổ chức trai đàn cúng tế siêu độ cho họ. Đây là một sự thật không hư dối. Chẳng hạn Thượng Tọa Thích Quảng Thanh ở  Quận Cam – Hoa Kỳ đã tổ chức nhiều lần Trai Đàn Siêu Độ trên biển để cứu bạt chư vong linh nói chung, người Việt nói riêng đã bị vong thân trên bước đường tìm tự do. Sau đó thầy được một vài vong linh người Việt hiện về gặp thầy với trạng thái an vui, thảnh thơi, lễ độ, rồi tự xưng tên, nói lời cảm ơn, cũng như cho thầy biết là họ đã được siêu thoát.

(Tác giả được Thượng tọa Thích Quảng Thanh kể cho nghe về chuyện các vong linh hiện về nói trên).

 

Qua hình thức thờ phượng cúng tế đối với chúng sinh vô hình bên cõi chết của các dân tộc nói chung trên thế giới, nói riêng dân tộc Việt Nam, cho ta thấy rằng, giữa chúng sinh hữu hình và vô hình trong ba cõi (tam giới) và sáu đường (lục đạo) đều tương quan, liên hệ, đối đãi, chằng chịt với nhau về thương yêu, trợ giúp, ơn nghĩa... là một quy luật tương quan nhân quả.

Và cũng do từ quy luật tương quan nhân quả này, mà chư vong linh bên cõi chết quay về trừng phạt, không hộ trì người sống là gia quyến, con cháu đang sống trên đời đã vô tình phản bội họ qua tâm tư và hành động hủy bỏ cái đạo lý thờ cúng tổ tiên, ông bà... là chơn lý thế gian, nó là nền tảng để tiến lên ngôi vị Phật, Bồ Tát và sinh mệnh Thiên thể trên các cõi TRỜI.

 

Ý kiến bạn đọc
17/06/201915:15
Khách
Hay nhưng cần tóm tắt hơn
18/09/201603:37
Khách
Quá hay, tác giả đã nghiên cứu nhiều, giúp mọi người hiểu được thân trung ấm là sự chuyển tiếp giữa cõi trần và cõi cao hơn. Từ đó người sống có sư ứng xử phù hợp với người đã khuất. Chứ không thể lấy cái lý luận của cá nhân mình mà ứng xử sai quấy được.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 9569)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
04/01/2011(Xem: 5082)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
03/01/2011(Xem: 15331)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
29/12/2010(Xem: 3031)
Chết là một tài sản chung, có sẵn nơi mọi người, không lìa một ai. Ông bà mình cũng đã thấy như thế, rằng từ cao nhất thế gian như một vị vua cũng phải chết và thấp nhất tới người mang nợ tứ phương cũng phải chết.
28/12/2010(Xem: 12405)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giới mà gần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
21/12/2010(Xem: 3585)
Những vần kệ về Bardo từ Sáu Phương pháp Kỳ diệu để đạt được Giác ngộ mà Không cần Tu tập Ở đây ta sẽ giải thích ý nghĩa sâu xa về sự giải thoát nhờ việc lắng nghe cho người đã tới giờ chết. Trong ba loại bardo, loại thứ nhất là thời gian bardo của sự chết.
19/12/2010(Xem: 8739)
Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma được chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Ngài. Sách gồm VI chương, dày 192 trang và sau đây là chương VI của quyển sách mang tựa đề "Cõi Ta-bà : sống, chết và tái sinh".
17/12/2010(Xem: 20626)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
15/12/2010(Xem: 18008)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
12/12/2010(Xem: 6076)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567