Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những vấn nạn của Phật tử Tây phương về nghiệp và tái sinh

02/05/201214:22(Xem: 5478)
Những vấn nạn của Phật tử Tây phương về nghiệp và tái sinh

hoasen1NHỮNG VẤN NẠN
CỦA PHẬT TỬ TÂY PHƯƠNG
VỀ NGHIỆP VÀ TÁI SINH

Quán Như Phạm Văn Minh

Trong khi những tinh yếu của giáo lý Phật giáo như bất bạo động, duyên khởi (sinh môi), vô ngã (tâm lý học hiện đại), vô thường (Thuyết tương đối)… được Tây phương tiếp nhận niềm nở vì khế hợp với những khám phá khoa học hiện đại, những giải thích về nghiệp báo và tái sinh gây ra những khó khăn về nhận thức luận cho các Phật tử Tây phương.

Trong Banguyên tắc để kiểm chứng ‘chánh pháp’, thường gọi là ‘Tam Pháp Ấn’ không có ‘nghiệp’ và ‘tái sinh’, tuy nhiên đối với Phật tử Á châu, nghiệp và tái sinh đồng nghĩa với ‘Phật giáo’. Không thể ‘có’ Phật giáo nếu không có ý niệm nghiệp. Nghĩa là không ai có thể tự gọi mình là Phật tử nếu không chấp nhận hay tin lý thuyết ‘Nghiệp’.

Trong khi về Vật lý, định luật do Newton khám phá ra được khoa học chấp nhận như định luật khách quantất địnhcủa vũ trụ. Tuy nhiên cho đến nay khoa học vẫn ‘chưa khám phá’ ra những đạo luật ‘luân lý’ khách quan và tất địnhban thưởng hay trừng phạt những hành vi thiện ác. Có một cơ chế ‘khách quan’ nào ban thưởng những người làm lành và trừng phạt những người ác? Trong khi các tôn giáo độc thần đưa ra hình ảnh một ‘thượng đế’ cầm sổ ‘ghi chép’ những hành vi thiện ác và ban thưởng người này lên Thiên đàng hay trừng phạt người khác xuống hỏa ngục, giáo lý duyên khởi của Phật giáo phủ nhậntoàn triệt một nhân vật như thế. Ai là ‘phán quan’ giữ sổ “đậu đen đậu trắng’ để thưởng phạt? Triết lý khai sáng và khoa học đã khai tử nhân vật gọi là ‘Thượng đế’ từ thế kỷ 18. Nietsche đã khai tử thượng đế và kết tội Thượng đế là một ý niệm ‘lừa bịp vĩ đại nhất từ 2000 năm qua’. Các thành phần tôn giáo quá khích chỉ còn một cách nói ‘đó là lòng tin của tôi’ và dĩ nhiên ‘lòng tin’là vấn đề cá nhân không ai có thể ‘truyền thông’ cho người khác được, trừ khi có ‘diễm phúc’ được ‘Chúa’ chọn lựa!

Một số người Tây phương cuồng tín (fundamentists) do đó hoặc là ‘bám víu’ vào ‘lòng tin’ phản khoa học này, hoặc chấp nhận thái độ ‘bất khả tri’ (agnostics), như Khổng Tử ngày xưa né tránh trả lời những câu hỏi về siêu hình ‘yên sự sinh, năng sự tử’, ‘quỷ thần kính nhi viễn chi’, hay quyết liệt hơn chấp nhận thái độ vô thần (atheists). Thành phần ‘bất khả tri’ và ‘vô thần’ hiện nay trong xã hội Tây phương nếu không bằng thì cũng nhiều hơn những người ‘tin’ mù quáng vào Chúa hiện hữu bằng xương bằng thịt, nghĩa là xã hội Tây phương càng ngày càng bị thế tục hóa.

Những giải thích về Nghiệp

Giải thích thông thường về Nghiệp là nếu ‘đời này’ chúng ta hạnh phúc hay đau khổ là do kết quả của những hành động của chúng ta trong quá khứ (đời trước), biệt nghiệp - hay định nghiệp của mỗi người. Kinh điển Pali giải thích điểm này không giống nhau. Các kinh điển Pali đầu tiên phần lớn nghiêng về cách giải thích theo tính cách tất định của nghiệp. Một trong những hậu quả do lối giải thích này là hố ngăn cách giữa Tăng già và cư sĩ trong các nước Phật giáo Á Châu. Tăng già ‘kiếp trước’ tích lũy đầy đủ nghiệp ‘tốt’ để kiếp này được sinh làm tỳ kheo, theo bước chân Phật; còn cư sĩ ‘kiếp trước’ tạo nhiều nghiệp ‘chướng’ nên kiếp này còn bận bịu thê nhi và bổn phận của cư sĩ là hỗ trợTăng già trên con đường hành trì và sẽ được tích tụ ‘công đức’, may ra ‘kiếp sau’ được ‘tái sinh’ vào một giai cấp khá hơn hay có đủ thiện nghiệp và công đức để thành ‘trưởng tử như lai’ trong kiếp sau. Kinh điển Pali chỉ ghi lại bằng chữ viết 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, cách giải thích này thuận lợi cho giáo đoàn tăng già ‘nguyên thủy’ nên có lẽ họ không bận tâm đưa ra những giải thích khác. Trong giai đoạn suy thoái của Phật giáo Thái, nhiệm vụ chính của các nhà sư là ‘bán công đức’ cho các gia đình giàu có, dù không ai chắc rằng các vị sư này thật sự có công đức để ‘cho’ hay ‘bán’ hay không và hậu quả là Phật giáo bị kết tội là ‘chủ nghĩa tâm linh vật chất’, nghĩa là các tăng già loại này đem giáo pháp của Đức Phật ra buôn bán lấy tiền. Công đức giống như ‘tiền’ gởi nhà băng, khi nào cần thì đem ra xài hay mua thêm công đức! Phật giáo Đại thừa rộng rãi hơn, khi làm công đức thì không cần tích lũy hay đem ‘bán’ hay cho người khác, mà hồi hướng cho tất cả chúng sinh để tất cả đều thành ‘Phật Đạo’.

Tình trạng lẩn quẩn là các tăng sĩ buôn bán công đức kiểu này ở Thái đi các xe mắc tiền và càng đi xe mắc tiền chừng nào, chứng tỏ họ ‘ăn khách’ vì ‘có nhiều công đức’ để cho hay bán và thay vì dùng thì giờ để ‘pháp’ thí, các nhà sư ‘thời hội nhập’ này tìm mọi thủ đoạn ‘tiếp thị’ để bán công đức cho các đệ tử ‘giàu có’, đổ xô cúng dường để mua công đức! Tình trạng mà cư sĩ Sulak Sivaraksa gọi là từ ‘hoa sen’ sang ‘bàn tay quỷ’ của kinh tế thị trường.

Định nghĩa nghiệp theo kiểu này có thể dùng để biện chính cho chế độ đẳng cấp khắc nghiệt ở Ấn (như Gandhi đã dùng trong cuộc tranh luận với Ambedkar), bất công kinh tế, giàu nghèo, xấu đẹp, đều đem nghiệp ra để biện chính, Nghiệp thành một nguyên tắc ‘đạo đức tất định’ và định nghĩa nghiệp theo kiểu này đúng với tinh thần của Ba La Môn giáo hơn là Phật giáo. Có gì bất hạnh xảy ra chỉ cần chép miệng hay xoa tay: ‘Nghiệp mà!’. Vì chuyện xảy ra ở kiếp khác nên không ai kiểm chứng được, cũng giống như lòng tin được Chúa rước lên Thiên đàng hay đẩy xuống Địa ngục, chỉ có người trong cuộc mới biết mà thôi!

Cộng nghiệp thì càng dễ ‘đổ thừa’ hơn nữa vì có lịch sử ghi lại! Tôi đã từng nghe một tỳ kheo phê bình trong một vụ bão lụt miền Tây Việt Nam trong thập kỷ trước là ‘tại vì dân mình nhiều ác nghiệp quá’. Thay vì lấy lòng từ bi để quyên góp tiền bạc giúp đỡ nạn nhân bão lụt, hạ thủ một câu như thế chẳng khác nào đổ lỗi hết cho nạn nhân. Vụ sóng thần gần đây xảy ra ở Nhật cũng có vài vị tăng già lập luận tương tự! Giáo sư David Roy có nhắc đến một nhà sư Phật giáo phê bình biến cố diệt chủng do Đức Quốc Xã gây ra cho dân Do Thái trong thế chiến II là: “Người Do Thái có quá nhiều nghiệp chướng” Thay vì lên án Đức Quốc Xã thì dùng ý niệm ‘nghiệp’ đổ tội cho nạn nhân. Nếu một tỳ kheo tu hành mấy chục năm mà còn hiểu nghiệp như thế thì huống gì Phật tử sơ cơ!

Kinh Kalama, thường được xem như là hiến chương tự do tư tưởng của Phật giáo, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tuệ giác trong việc nghiên cứu. Đức Phật dạy chúng ta đừng vội tin theo truyền thuyết, hay truyền thống, chỉ chấp nhận cho đến khi nào chúng ta tìm ra kết luận đúng theo tuệ giác. Điều này không có nghĩa là phủ nhận định nghĩa ‘truyền thống’ về nghiệp, nhưng chú trọng đến nhu cầu trí thức của Phật giáo và Phật tử hiện đại, nhất là các Phật tử Tây phương, với tinh thần khai sáng, khi tìm hiểu giáo pháp. Nếu quan niệm truyền thống tương phản với tuệ giác của đạo Phật, chúng ta phải có can đảm đặt vấn đề. Đó là tinh thần lời xác nhận của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài nói: “Nếu khoa học chứng minh những điểm nào trong giáo lý phản khoa học, người Phật tử phải có can đảm từ bỏ”.

Kinh điển Pali giải thích nghiệp như thế nào?

Trong Trung Bộ Kinh (135)CulakammaviblangaSutra dùng nghiệp để giải thích khác biệt kể cả thể hình xấu đẹp, bất bình đẳng về kinh tế. Tuy nhiên trong các Kinh khác Đức Phật phủ nhận tánh cách tất định về đạo đức của nghiệp, như trong kinhTinhaSutra (Tăng Chi Bộ Kinh 3.61) Đức Phật cho rằng quan điểm tất định về nghiệp phủ nhận khả năng tu tập tâm linh:

Có những giáo sĩ quan niệm rằng ‘Tất cả những gì một người trải nghiệm hiện nay - lạc thọ, khổ thọ hoặc xả thọ là do những việc làm trong quá khứ.. ”Nếu một kẻ sát nhân…, trộm cắp, bất lương, nói dối, tham lam… là do những việc làm trong quá khứ chính yếu gây ra, người này sẽ không mong muốn tu tập tâm linh “nên làm việc này, không nên làm việc này” Nếu không biết đâu là việc thiện nên làm, việc ác không nên làm, người đó sẽ hoang mang và không được bảo vệ. Những người chủ trương như thế không thể được xem như người giáo sĩ.”

Trong một kinh ngắn khác (Nipata36.21) có một nhà tu khổ hạnh Shivaka đến chất vấn trực tiếp Đức Phật: “nếu có người chủ trương là một người trải nghiệm lạc thọ, hay khổ thọ hay xả thọ là do những việc làm của họ ở quá khứ. Đức Cồ Đàm nghĩ như thế nào về giáo thuyết này?;

Đức Phật trả lời như sau:Nếu những người tu khổ hạnh hay giáo sĩ Bà La Môn chủ trương rằng bất cứ một người nào trải nghiệm lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ là do những hành vi trong quá khứ gây ra, những người này đã đi quá mức mà trí tuệ của họ cho phép và không đúng với sự thực. Cho nên ta nói là quan điểm này của những tu sĩ khổ hạnh hay giáo sĩ Bà La Môn đã sai lầm.*(dẫn theo David Loy, Notes for a Buddhist Revolution, tr 59)

Câu trả lời này rất gần với thái độ ‘bất khả tri’ của Khổng tử và tuy không đủ yếu tố cho chúng ta so sánh với các kinh Pali đầu tiên để có một giải thích chính xác về nghiệp.

Nghiệp trong Sanskrit hay Pali có nghĩa là hành động. Định nghĩa nghiệp có ba phần: Ý nghiệp (Động lực) khẩu nghiệp (biểu lộ động lực bằng lời nói) và thân nghiệp (biểu lộ ý định bằng hành động). Một hành động đưa ra thế nào cũng gây ra hậu quả. Thiền sư Jack Kornfield nói đùa là “ nghiệp có thể hiểu một cách giản dị là không ai có thể ăn quỵt được!” Hay nói như một ngạn ngữ Việt Nam là “có vay có trả”.

Nhà Tâm phân học Erich From có một nhận xét về Freud là, dù Freud là một nhà tư tưởng sáng tạo vĩ đại, nhưng Freud không thể tự mình đứng lên vai mình. Các nhà tư tưởng này muốn truyền đạt cho người đồng thời họ cũng phải suy nghĩ bằng ngôn ngữ, lô gích, những nề nếp tư duy, những cách diễn đạt trong văn hóa của mình. Kết quả là tư tưởng do nhà tư tưởng phối hợp những nét ‘truyền thống’ với những nét sáng tạo của chính mình, Khổng tử cũng chỉ dám nói tư tưởng mình là ‘tập đại thành’, một thứ ‘bình cũ rượu mới’. Nguyên tắc duyên khởi cũng không nói gì khác hơn: nếu không có tư tưởng truyền thống Ấn độ cũng không có giáo pháp Phật. Giáo pháp của Đức Phật là phản ứng lại triết học Ấn độ đương thời, không thể tự trên trời rơi xuống. Kính trọng Đức Phật không có nghĩa là dùng ý niệm trong các tôn giáo độc thần khoác lên vai Phật, như Chân, Thiện, Mỹ, toàn trí, toàn năng.

Ý niệm nghiệp và luân hồi có sẵn trong triết lý Bà La Môn và các tôn giáo Ấn khác lúc bây giờ, nếu hiểu theo ý hướng ‘tất định’, giáo pháp không còn là tư tưởng sáng tạo (hay có thể nói là ‘cách mạng’ so với Ấn giáo). Những câu như tự mình thắp đuốc lên mà đi còn có ý nghĩa gì nếu con người trôi giạt trong cái vòng nghiệp bất tận, không có cơ hội giải thoát và chỉ còn trong những giai điệu yếm thế trong Cung Oán Ngâm Khúc. Chưa kể nghiệp còn gắn liền với tái sinh, một ý niệm mà người Phật tử Tây phương, sau thời kỳ khai hóa, đã tỏ ra rất dè dặt và thường chọn thái độ bất khả tri, nếu không chế diễu là ‘lòng tin’ tương tự như tin vào thiên đàng hay hỏa ngục. Các nhà khoa học thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng bày tỏ sự nghi ngờ này dù là đã hợp tác với Ngài trong chương trình nghiên cứu khoa học về mối liên hệ Thân Tâm hiện nay ở MIT. Phật giáo Tây tạng cũng ít nhắc đến các câu chuyện huyền bí của các vụ ‘đầu thai’ của các Đức Đạt Lai Lạt Ma như lúc giáo đoàn của Ngài vừa thoát khỏi Tây tạng (sau năm 1949 và vào thập kỷ 50s hay 60s). Trong vài cuộc phỏng vấn, Ngài còn đưa ra một viễn tượng là Ngài có lẽ là Lạt Ma cuối cùng. Đây có phải là dấu hiệu là Ngài đã bị các nhà khoa học thuyết phục?

Một đề nghị giải thích Nghiệp đúng theo tinh thần tuệ giác của Đạo Phật

Kinh Pháp Cú là một bộ kinh được dịch ra tiếng Trung Quốc sớm nhất, có nhấn mạng đến vai trò của tâm:

Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tất cả.
Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo con vật kéo xe.
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tất cả.
Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, sư vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng với hình (bản dịch của Trí Đức, trang 9)

Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp). Hành động nào cũng gây ra một (hay nhiều) hậu quả (vikapa). Các hiểu nghiệp tất định nhấn mạnh đến ảnh hưởng của hậu quả chúng ta nhận được trong tương lai (tái sinh) do những hành động chúng ta làm trong quá khứ (mà chúng ta không biết). Thay vì nói chuyện kiếp trước hay kiếp sau, chúng ta có thể nói chuyện ở đây hay bây giờ, nghiệp nhắc nhở chúng ta không có một hành động nào mà không gây ra hậu quả, và chúng ta không những quan tâm đến hành động mà còn đến ý nghiệp- thủ phạm chính đưa đến mọi hành động(như kinh Pháp cú xác nhận- như ‘bóng với hình’). Chỉ có giáo lý đạo Phật mới đưa ra những thí dụ về động lực hành động. Luật pháp Tây phương dựa trên triết lý khai sáng của Kant để xác nhận tình trạng nặng hay nhẹ của một hành động phạm pháp (thí dụ như giữa ngộ sát và cố sát). Cách định nghĩa về nghiệp cũng phù hợp với các triết lý đạo đức: Triết lý thực dụng(utilitarian) nhấn mạnh đến hậu quả, nguyên tắc đạo đứcnhấn mạnh đến nguyên tắc tổng quát (deontology) và động lựcđến xác định giá trị một hành động và lý do hành động (virtue theories). Phần lớn tôn giáo như đoàn thể Tăng già chú trọng đến nghi lễ (Ritualistic procedures- như Giới trong đạo Phật).

Triết lý vô ngã của đạo Phật được các nhà tâm lý hiện đại tiếp nhận niềm nở vì tương hợp với ký thuyết cơ cấu hậu hiện đại: ngã thực ra chỉ là một tâm hành tái cấu trúc từ thói quen, tập quán và tùy theo hoàn cảnh có một “I” và nhiều cái tôi nho nhỏ khác (me, me, mes). Quá trình cấu trúc ngã được tóm gọn trong một bài kệ nhỏ như sau:

Gieo một ý nghiệp thì gặt một thân nghiệp
Gieo một thân nghiệp thì gặt một thói quen
Gieo một thói quen thì gặt một bản chất
Gieo một bản chất thì gặt được một số phận.
Những gì tôi do ý nghĩ của tôi thúc đẩy (ý nghiệp)
Phản ứng, hành động lập lại nhiều lần trở thành một thói quen
Thói quen suy nghĩ, hành động, cảm thọ sẽ được xem như là ‘bản tính’
‘Bản tính’ sẽ được tôi xem là ‘ngã’ (loại người của tôi) (hiền, dữ, hay giận, hiền hòa, hướng nội, hướng ngoại…)

Những gì tôi làm không hoàn toàn quyết định những gì sẽ xảy ra cho tôi, những gì xảy ra trong cuộc đời tôi tùy cách phản ứng của tôi trong hoàn cảnh khác nhau. Đó là ý nghĩa câu nói của Sartre: Tôi là tổng hợp những gì tôi làm. Không có cái gọi là bản tính bẩm sinh (ngã) mà ngã chỉ là kết hợp bởi những hành động của tôi. Nếu kết luận :”Tính tôi như thế” là một thái độ ù lì và sẽ không có chuyện ‘tu tâm dưỡng tánh’. Sự hiểu biết về nghiệp không nhất thiết liên hệ đến một kiếp khác sau khi thân thể bị hủy hoại. Tu tâm sửa tánh để thành một loại người khác chúng ta sẽ trãi nghiệm thế giới một cách khác. Khi tâm tính thay đổi thế giới bên ngoài sẽ phản ứng với chúng ta một cách khác.

Giáo pháp của Đức Phật phần lớn nhấn mạnh đến động lực (motivations- ý nghiệp). Tinh yếu đạo đức của người theo đạo Phật chỉ gồm có có Bađiều: làm điều thiện, tránh làm điều ác,thanh lọc tâm ý.

Gần đây có một nhan đề trên Giác Ngộ mà tôi rất vừa ý: Đem nhân gian vào Đạo Phật. Biến đạo Phật thành một tôn giáo của người sống. Tạm thời quên chuyện kiếp trước hay kiếp sau như thái độ của những người agnostic ở Tây phương. Trong kiếp này chúng ta chỉ cần thực hiện 3 điều căn yếu: làm điều thiện, tránh làm điều ác và nhất là thanh lọc tâm ý.

Quán Như Phạm Văn Minh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2020(Xem: 5838)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể. Có nhiều học thuyết đã lý giải vấn đề con người nhưng rất tiếc họ chưa có kinh nghiệm thông suốt chiều sâu cho nên vẫn còn nằm trong hý luận của lý luận mà chưa khả dĩ đem lại được một chút thỏa mãn nào của nghi vấn; còn đối với các Tôn Giáo phần đông quan niệm quá cổ điển thiển cận mê tín mà ở đây chúng ta không cần phải bàn đến.
06/03/2020(Xem: 5860)
Nhà khoa học cao tuổi nhất Úc, Giáo sư David Goodall, đã qua đời bình yên ở Thụy Sĩ theo đúng nguyện vọng của ông. Vị Giáo sư 104 tuổi là người Úc đầu tiên thực hiện việc chết tự nguyện bằng cách chích thuốc. Ông đã có một cuộc sống viên mãn, và cách ông chọn cái chết cho mình đã một lần nữa đưa câu chuyện đầy tranh cãi - chết tự nguyện - trở lại các mặt báo trên toàn thế giới.
04/03/2020(Xem: 38342)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
23/01/2020(Xem: 7992)
Lịch Hoằng Pháp và các khóa tu của Th Tánh Tuệ 2020: Xin thông báo cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử lịch trình Hoằng Pháp và sinh hoạt tu học với sự chia sẻ của Th Tánh Tụê trong tháng 5, 6, 7, 8, 9, 10 11, 12- 2020 Tháng 3 ngày 8 2020 Lễ vía Bồ tát Quan Âm (19/2AL) Chùa Vạn Phước 7909 New Salem St Mira Mesa, San Diego, CA 92126 Liên lạc: (858)-201-8726 Do TT. Thích Huệ Phúc hướng dẫn Tháng 4 : Một tháng tiền An cư Kiết hạ Tháng 5- ngày 10-2020 Đại Lễ Phật Đản chùa Phật Bảo Chicago 1495 Prospect Ave Des Plaines, Illinois 60018 Phone (847) 827-4599 Tháng 5- ngày 15 & 16 -2020 Khóa tu một ngày & Đại Lễ Phật Đản Chùa Liên Hoa Minesota (6333 Hwy 14 E, Rochester, MN 55904) Tháng 5- ngày 23 thứ 7 -2020 Khóa tu một ngày tại Đạo tràng Kiều Đàm Di Fountain Valley 9057 La Crescenta Ave, Fountain Valley CA 92708. Liên lạc (714) 363-8029, (714) 697-9627.
17/12/2019(Xem: 6966)
Đầu tháng 11, Laurent Simons, 9 tuổi, hoàn thành chương trình Kỹ thuật điện tại Đại học Công nghệ Eindhoven và sẽ là người trẻ nhất thế giới tốt nghiệp đại học. Sinh năm 2010 tại thành phố Ostend, Bỉ, Laurent theo bố mẹ đến Hà Lan sinh sống. Cậu bé bắt đầu học trung học từ năm 6 tuổi và, trở thành thành viên một dự án nghiên cứu tại Trung tâm Y tế Học thuật (thành phố Amsterdam, Hà Lan).
28/11/2019(Xem: 5022)
Đài Truyền Hình số 7 của Melbourne, Úc Châu vừa đưa tin buồn một phụ nữ người Anh sống ở Perth, Tây Úc đã tự kết liễu đời mình sau khi bạn trai qua đời trong một vụ tai nạn giao thông. Cô Alice Robinson, 26 tuổi và bạn trai Jason Francis, 29 tuổi, đến Perth sống và làm việc vào năm 2018 từ Shropshire, UK và 2 bạn đang chuẩn bị kết hôn thì bi kịch xảy ra. Vào ngày 22 tháng 12 năm ngoái, Francis, một cầu thủ bóng đá bán chuyên nghiệp, đang đi bộ về nhà sau một ngày đi chơi với bạn bè từ câu lạc bộ bóng bầu dục của mình thì anh ta bị một tài xế giao hàng Dominos Pizza đụng phải. Trước đó anh đã gởi cho bạn gái một tin nhắn nói rằng mình sẽ về nhà "trong vài phút nữa", trước khi anh ta bị tai nạn. Một cuộc điều tra cho biết người bạn Alice quá đau lòng và quẫn trí khi chạy vào bệnh viện nhận xác bạn trai. Bác sĩ, y tá khuyên cô ra ngoài hít thở không khí một lát rồi vào lại, nhưng cô gái đã lặng lẽ bước đi nhưng người vô hồn, vì quá đau đớn, sau đó cô lái xe đi và nhắn tin vào số phone củ
26/11/2019(Xem: 8054)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
29/06/2019(Xem: 6910)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
15/06/2019(Xem: 5737)
Đức Phật dạy rõ có nhân quả luân hồi nghiệp báo, thế nhưng có không ít kẻ vô minh không tin về điều nầy nên đã đặt ra rất nhiều câu hỏi tưởng chừng như có lý. Ví dụ như họ hỏi rằng: Hỏi: Nếu quả thực ai đó có phước chết rồi sanh lên cõi trời, tại sao họ không hiện về báo tin mừng cho thân nhân biết để thân nhân họ vui mừng?
09/05/2019(Xem: 6190)
Tỷ phú Đan Mạch đau buồn tiễn đưa 3 con thiệt mạng vì vụ đánh bom ở Sri Lanka, Ngày 4/5 (giờ địa phương), ông Povlsen đã cùng gia đình tiễn biệt 3 người con Alfred, Alma và Agnes, những nạn nhân vô tội đã qua đời vì chuỗi đánh bom liên hoàn diễn ra ngày 21/4, vốn khiến 253 người chết tại Sri Lanka.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567