Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Từ quyển: Bình phẩm về cuộc sống Quyển một, Chương 18

01/07/201100:59(Xem: 3526)
9. Từ quyển: Bình phẩm về cuộc sống Quyển một, Chương 18

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Bình phẩm về cuộc sống
Quyển đầu tiên, Chương 18.

Những cái bóng chiều đổ dài trên những dòng nước đứng yên, và sau một ngày con sông trở nên yên lặng. Những con cá đang tung tăng vọt khỏi mặt nước, và những con chim to lớn đang bay đến để trú đêm trong những cây to. Không một đám mây trong bầu trời, màu xanh bạc. Một con thuyền đầy người đang trôi qua dòng nước; họ đang vỗ nhịp ca hát, và một con bò rống lên ở xa xa. Có mùi hương của chiều tối. Một vòng hoa màu vàng rực đang lung linh theo cùng dòng nước lấp lánh trong ánh hoàng hôn. Tất cả đều sinh động và đẹp làm sao – con sông, những con chim, cây cối và dân làng.

Chúng tôi đang ngồi dưới một cái cây, nhìn ra con sông. Gần cái cây là một ngôi đền nhỏ, một vài con bò dơ xương đang lang thang. Ngôi đền sạch sẽ và được quét dọn đều đặn, và những bụi hoa được tưới nước và chăm sóc cẩn thận. Một người đàn ông đang thực hiện nghi lễ buổi chiều của ông ấy, giọng đọc kinh của ông ấy nhẫn nại và buồn thảm. Dưới những tia nắng cuối cùng của mặt trời, dòng nước là màu sắc tinh anh của những đóa hoa vừa nở. Lúc này một ai đó tham gia cùng chúng tôi và bắt đầu nói về những trải nghiệm của ông ấy. Ông ấy nói rằng ông ấy đã hiến dâng nhiều năm của cuộc đời để tìm kiếm Thượng đế, đã luyện tập nhiều khổ hạnh và từ bỏ nhiều sự việc quý báu. Ông ấy cũng đã giúp đỡ khá nhiều trong công việc từ thiện, trong xây dựng một ngôi trường, và vân vân. Ông ấy quan tâm đến nhiều sự việc, nhưng quan tâm lớn lao nhất của ông ấy là tìm được Thượng đế, và bây giờ, sau nhiều năm, tiếng nói của Ngài đang được nghe, và nó đã hướng dẫn ông ấy trong những sự việc to tát lẫn nhỏ nhoi. Ông ấy không có ý muốn riêng, nhưng tuân theo tiếng nói bên trong của Thượng đế. Nó không bao giờ lừa dối ông ấy, dù ông ấy thường làm hư hỏng sự minh bạch của nó; lời cầu nguyện của ông ấy luôn luôn dành cho sự tinh khiết của con tàu bao la, mà nó có lẽ xứng đáng nhận được.

Liệu cái không đo lường được có thể được tìm ra bởi bạn và tôi? Liệu cái không thời gian có thể được tìm ra bởi cái bị quy định trong thời gian? Liệu một kỷ luật được rèn luyện nghiêm ngặt có thể dẫn dắt chúng ta đến cái không biết được? Liệu có một phương tiện chỉ đường vào cái không khởi đầu lẫn không kết thúc? Liệu sự thật đó có thể bị trói buộc trong mạng lưới của những ham muốn của chúng ta? Điều gì chúng ta có thể nắm bắt là sự chiếu rọi của cái đã được biết; nhưng cái không biết được không thể bị nắm bắt bởi cái đã được biết. Cái có danh tính không là cái không danh tính, và qua danh tính chúng ta chỉ đánh thức những phản hồi bị quy định. Những phản hồi này, dù cao quý hoặc thanh tao, không thuộc về sự thật. Chúng ta phản hồi đến những kích thích, nhưng sự thật không dâng tặng những kích thích: Nó là.

Cái trí chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết, và nó không thể vươn ra ngoài vào cái không biết được. Bạn không thể suy nghĩ về cái gì đó mà bạn không biết; điều đó không thể được. Điều gì bạn suy nghĩ, xuất phát từ cái đã được biết, quá khứ, dù rằng quá khứ đó ở thật xa, hay một giây vừa trôi qua. Quá khứ này là tư tưởng, bị định hình và bị điều kiện bởi nhiều ảnh hưởng, tự bổ sung chính nó theo những hoàn cảnh và những áp lực, nhưng luôn luôn vẫn còn là một qui trình của thời gian. Tư tưởng chỉ có thể phủ nhận hay khẳng định, nó không thể khám phá hay tìm được cái mới mẻ. Tư tưởng không thể bắt gặp cái mới mẻ, nhưng khi tư tưởng yên lặng, vậy thì có lẽ có cái mới mẻ – mà ngay tức khắc bị chuyển đổi thành cái cũ kỹ, thành cái đã được trải nghiệm, bởi tư tưởng. Tư tưởng luôn luôn đang định hình, đang bổ sung, đang tô màu tùy theo một khuôn mẫu của trải nghiệm. Chức năng của tư tưởng là truyền đạt nhưng không ở trong trạng thái của đang trải nghiệm. Khi đang trải nghiệm chấm dứt, liền đó tư tưởng đảm đương và định hình nó bên trong bảng phân loại của cái đã được biết. Tư tưởng không thể thâm nhập cái không biết được, và vì vậy nó không bao giờ có thể khám phá hay trải nghiệm sự thật.

Những kỷ luật, những từ bỏ, sự tách rời, những nghi lễ, sự rèn luyện đạo đức – tất cả những việc này, dù cao quý như thế nào, đều là qui trình của tư tưởng; và tư tưởng chỉ có thể làm việc hướng về một kết thúc, hướng về một thành tựu, mà luôn luôn là cái đã được biết. Thành tựu là an toàn, một chắc chắn tự bảo vệ của cái đã được biết. Tìm kiếm an toàn trong cái không danh tính là phủ nhận nó. Sự an toàn có lẽ được tìm ra chỉ ở trong sự chiếu rọi của quá khứ, của cái đã được biết. Vì lý do này cái trí phải thăm thẳm và tuyệt đối tĩnh lặng; nhưng tĩnh lặng này không thể được theo đuổi qua hy sinh, thăng hoa, hay đè nén. Tĩnh lặng này đến khi cái trí không còn đang tìm kiếm, không còn bị trói buộc trong qui trình của trở thành. Tĩnh lặng này không tích lũy được, nó không được phép vun đắp qua luyện tập. Tĩnh lặng phải hiện diện không biết được cho cái trí giống như cái không thời gian; bởi vì nếu cái trí trải nghiệm tĩnh lặng, vậy thì có người trải nghiệm mà là kết quả của những trải nghiệm quá khứ, mà là sự công nhận của một tĩnh lặng quá khứ; và cái gì được trải nghiệm bởi người trải nghiệm chỉ là một lặp lại tự chiếu rọi. Cái trí không bao giờ có thể trải nghiệm cái mới mẻ, và vì vậy cái trí phải tuyệt đối tĩnh lặng.

Cái trí có thể tĩnh lặng chỉ khi nào nó không đang trải nghiệm, đó là, khi nó không đang định hình hay đặt tên, đang ghi lại hay đang lưu trữ trong ký ức. Đang định hình và đang đặt tên này là một qui trình liên tục thuộc những tầng khác nhau của ý thức, không chỉ thuộc cái trí tầng ý thức bên ngoài. Nhưng khi cái trí bên ngoài tĩnh lặng, cái trí sâu thẳm hơn có thể đưa ra những hàm ý của nó. Khi ý thức tổng thể tĩnh lặng và yên ổn, tự do khỏi tất cả trở thành, mà là tự phát, vậy thì chỉ lúc đó cái không thể đo lường mới hiện hữu. Ham muốn duy trì tự do này trao tặng sự tiếp tục đến ký ức của người trở thành, mà là một ngáng trở sự thật. Sự thật không tiếp tục; nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, luôn luôn mới mẻ, luôn luôn trong sáng. Cái gì có tiếp tục không bao giờ có thể là sáng tạo.

Cái trí bên ngoài chỉ là một dụng cụ của truyền đạt, nó không thể đo lường cái không thể đo lường được. Sự thật không dành cho diễn đạt; khi nó được diễn đạt, nó không là sự thật.

Đây là thiền định.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2012(Xem: 5118)
Chủ đề của sách này chính là ‘không’. Nói đơn giản: cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp. Cái không của Bát-nhã là ‘nghĩa sâu sắc’ của sự thể ngộ. Cái không của Long thọ là là giả danh, tánh không của kinh Bát-nhã, và sự thống nhất trung đạo và duyên khởi của kinh A-hàm.
28/12/2012(Xem: 8998)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
12/12/2012(Xem: 5578)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánh – Phật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo.
25/11/2012(Xem: 6156)
Tôi đã trình bày cấu trúc căn bản của đạo lộ Phật giáo căn cứ trên lời giảng về ba chương trọng yếu: Quán mười hai chi duyên khởi, Quán ngã và vô ngã, Quán bốn thánh đế trong Trung Luận của ngài Long Thọ. Bây giờ chúng ta sẽ tiến vào phần thứ hai, làm cách nào đem tất cả các lí hội thông hiểu với cấu trúc này vào công cuộc tu tập Pháp thật sự. Tôi sẽ giảng giải điều này trên căn bản của một bản văn ngắn của ngài Tsong Khapa, “Ba phương diện chính yếu của đạo lộ” (“Three Principal Aspects of the Path”). Ba phương diện mà Ngài Tsongkhapa đề cập trong bản văn của ngài là xuất li siêu việt, tâm bồ đề, và tri kiến đúng về tính không.
22/11/2012(Xem: 13714)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
19/11/2012(Xem: 11639)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
19/11/2012(Xem: 8205)
Nhân minh học là gì? Môn học này của Phật giáo ở phương Tây thường gọi là logic học hay là Luận lý học. Viện sĩ Nga Th.Scherbatsky, trong bản dịch Anh ngữ cuốn "Nyaya bindu" của Luận sư Ấn Ðộ Dharmakirti (Pháp Xứng) cũng dịch đầu đề cuốn sách là "A short treatise of logic" tức "Một bộ luận ngắn về logic".
16/10/2012(Xem: 7436)
Nghiệp (Karma) là một đề tài nghiên cứu lớn của các nhà triết học và tôn giáo Ấn Ðộ, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Nó luôn luôn là đề tài thảo luận sôi nổi của con người,con người từ đâu sinh ra và sẽ đi về đâu sau cuộc sống này, là câu hỏi muôn thuở và mãi mãi về sau...
03/10/2012(Xem: 7136)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức. Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó.Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?
20/09/2012(Xem: 5257)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567