Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gà gỗ gáy vào buổi tối

15/01/201214:42(Xem: 6637)
Gà gỗ gáy vào buổi tối
GÀ GỖ gáy vào buổi tối
Chân Hiền Tâm

Phật đã bỏ loài người…(1)

Điệp khúc ấy lâu lâu lại thấy đâu đó trên những đoạn đường đi qua. Nó đếnvà đi như bao chuyện khác trong đời. Chuyện phiếm trong đời quá nhiều, đâu đángbận tâm. Cho đến cái ngày, nó được thổi vào trong thơ của một ai đó như một bài“Thiền ca”…

Ta bà đau khổ si mê, rên rỉ, đổ thừa là chuyện thường tình. Thiền ca sángngần, nguồn tâm soi tỏ đường đi lối về. Phật đó muôn đời, có lên thiên đường hayxuống địa ngục thì Phật vẫn đó, có lìa đi đâu mà nói Phật bỏ. Chỉ tại chúngsinh vô minh, bất giác nhất thời, tham ái theo đó mà quên, quên đó rồi xa… nàophải Phật bỏ loài người. Vậy mà sở tri nổi lên: “Trong thế nhị nguyên, chưabiết Phật bỏ loài người hay loài người bỏ Phật. Chỉ có tham thiền mới hiểu đượchết cái gọi Phật bỏ loài người mà Trịnh đã nói”. Mô Phật! Trịnh là nhạc sĩ,khuynh hướng Phật giáo tuy có, nhưng phải Thiền sư mô mà lấy làm mô phạm.Mê!

Tham thiền soi tột nguồn tâm, mới hay “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứdiệt” không chút dấu vết, lấy gì để nói bỏ hay không bỏ. Trong thế nhị nguyên,duyên khởi là lý. Nói trái nói phải, đều theo duyên khởi mà biện. Duyên trâuthì nói con trâu, nói đó con bò người nói mình mê. Thánh nhân, cái “tưởng chấptrước” không còn, vẫn còn “thế lưu bố tưởng” là đó(2). Ngôn ngữngười đời nói như thế nào, Thánh nhân cứ theo thế ấy mà biện. Thuận hợp nhânquả đưa đến quả lành, không trái với lý pháp tánh thì nêu. Chỉ khác tập khíkhông còn, không gì ràng buộc, tâm liền vô trụ, trí tuệ soi tỏ ngọn nguồn. Đâuphải thấu tột nguồn tâm rồi trâu thành bò, bò lại thành nai, mọi thứ loạn xạ,chưa biết thứ nào là phải.

Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đốiduyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hyvọng ngay đó người nhận ra “chân”, để rồi cái “thật” hiển bày. Còn không thì thànhcông án cho người dồn tâm, phá đi cái dòng suy tưởng cứ theo thói thườngchấp trước mà sinh liên miên. Nào phải ngộ rồi, tôn ti trật tự mất hết mà thànhtrong thế nhị nguyên, chưa biết ai đã bỏ ai. Nghĩ loạn, đời sống buông lung,giới luật bỏ phế, nhân quả thế gian coi thường, khổ càng thêm khổ. Pháp Hoathường nói: “Pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ”. Thiền ca không khácca thiền, đều cùng một thể mà ra, nhưng thiền ca là thiền ca mà ca thiền là cathiền. Ngộ!

Chang, là một trong các học trò của Ma-tsu(3). Ông là một cưsĩ thuần thành, ngày ngày hai lần lễ Phật tụng kinh, và thường xuyên viếng thămMa-tsu. Khi nào đến thăm thiền sư, ông cũng dẫn theo cô con gái nhỏ bên mình,Sul.

Sul còn mộ đạo hơn cả cha mình. Cô tham gia các buổi tụng kinh của cha,và thật hạnh phúc khi được đến thăm Ma-tsu. Cô luôn mong đợi điều đó.

Một lần, Ma-tsu nói vầy với Sul:

- Con là một cô gái tốt. Ta sẽ cho con một món quà. Đó là danh hiệu “KwanShi Yin Pusal” (Quán Thế Âm Bồ tát).Con hãy niệm liên tục danh hiệu ấy khinào con có thể. Con sẽ tìm thấy hạnh phúc lớn lao cho mình.

Về nhà, Chang tặng thêm con gái nhỏ bức hình Kwan Shi Yin Pusal.Sul ngồi nhiều giờ trước bức hình và bắt đầu niệm danh hiệu Bồ tát. Niệm bất cứkhi nào cô có thể. Rồi dần dần, cô niệm được suốt ngày, khi ăn cơm, tắm rửa,giặt đồ, nấu ăn, chơi đùa và ngay cả khi ngủ. Cha mẹ Sul rất tự hào về cô.Nhưng từ lâu, bạn bè đã xem Sul như một nhỏ điên. Sul thì chẳng quan tâm, vẫntiếp tục công việc tụng niệm của mình.

Nhiều năm trôi qua…

Một ngày,khi đang dùng thanh củi nhỏ để giặt đồdưới sông, thình lình tiếng trống từ đền Ma-tsu vọng về. Và rồi…tiếng đập và tiếng trống quyện vào nhau. Sul cảm thấy dường như toàn bộ vũ trụđang nhảy múa cùng với Kwan Shi Yin Pusal. Kwan Shi Yin Pusal là đất, làmây, là tiếng trống vọng về từ đền của Ma-tsu, là đống áo quần đang giặt dướisông...(4)Sul trở về trong sự an lạc vô bờ và không bao giờ cònniệm danh hiệu Kwan Shi Yin Pusalnữa.

Suốt những ngày kế đó, sự thay đổi của Sul khiến cha mẹ phải chú ý. Thayvì ngoan ngoãn và yên lặng như thường lệ, Sul thường bật cười không có lý do.Cô trò chuyện rất lâu với những đám mây và cây cỏ. Cô chạy xuống dốc làng vớitốc độ chóng mặt. Cha Sul cảm thấy lo lắng và quyết định theo dõi con gái qualỗ khóa cửa, để xem cô làm gì khi ở một mình trong phòng.

Ông thấy bức tranh của Kwan Shi Yin Pusalvẫn ở trên tường. Dướinữa là bàn thờ, nơi mà kinh Pháp Hoavẫn được đặt đó cùng với hương hoa.Nhưng hôm nay, kinh Pháp Hoakhông có. Phía góc nhà, Sul đang quay mặtvào tường và kinh Pháp Hoathì đặt dưới… mông. Chang không thể tin vàomắt mình. Sau phút bàng hoàng, ông xông vào phòng và hét lớn:

- Con làm sao vậy hả Sul? Con điên rồi hả? Có biết kinh là vật thiêngliêng, sao lại ngồi lên trên đó?

Như không có gì xảy ra, Sul hỏi:

- Cha! Trong đó có gì thiêng liêng?

- Đó là lời của Phật. Nó chứa đựng chân lý vĩ đại nhất của Phật giáo.

Sul hỏi lại:

- Chân lý có thể nằm trong ngôn từ sao?

Câu trả lời khiến Chang chưng hửng. Hình như những gì đang xảy ra với Sulđã vượt ngoài tầm hiểu biết của ông. Tức giận chuyển sang bối rối, ông hỏi lại congái:

- Vậy con nghĩ sao về chân lý?

- Nếu con cố giải thích về nó, cha sẽ không hiểu. Hãy đến gặp Ma-tsu vàxem Đại sư nói gì.

Chang đến gặp Ma-tsu và kể lại toàn bộ câu chuyện. Kể xong, ông thỉnhcầu:

- Thưa thầy, xin cho con biết Sul có điên không?

Ma-tsu trả lời:

- Sul không điên, là ông điên.

- Vậy con phải làm gì bây giờ?

Ma-tsu mỉm cười, đưa cho Chang một bức thư pháp viết trên giấy gạo vàdặn:

- Hãy đặt nó ở phòng Sul và coi xem việc gì xảy ra.

Chang trở nên bối rối hơn bao giờ hết. Ông đi bộ về nhà như kẻ mất hồn,không hiểu việc gì đang xảy ra, chỉ biết làm theo những gì Ma-tsu đã dạy.

Khi bạn nghe
Gà gỗ gáy vào buổi tối
Bạn sẽ biết được quê hương
Nơi sinh ra tâm trí bạn
Bên ngoài nhà của tôi
Trong vườn
Liễu màu đỏ và hoa màu xanh.

Khi Sul đọc được bức thư pháp, cô gật đầu và nói với chính mình: “Oh, mộtthiền sư là vậy”. Sau đó cô đặt kinh Pháp Hoa trở lại bàn thờ,chung quanh là hương và hoa.

Gà gỗ gáy vào buổi tối, chuyện thế nhân không nghe được. Liễu đỏ hoaxanh, người đời cũng không thấy vậy(5). Nhưng bạn đã nghe được gà gỗgáy vào buổi tối. Điều đó không khác việc trong vườn tôi, liễu màu đỏ và hoamàu xanh. Đó là chỗ chúng ta gặp nhau, là bàn đạp để bạn nhận ra cội nguồn chânthật không biên tế của vạn pháp. Bạn sẽ biết được quê hương thật của mình, từđó phát sinh sơn hà đại địa cùng với thế giới chúng sinh. Ở đó, không nói bỏhay không bỏ, không có tốt cũng không có xấu, không một cũng không khác, khôngđến cũng không đi, không thánh cũng không phàm, không tôn quý cũng không hạtiện. Kinh Pháp Hoađặt trên bàn thờ không khác đặt dưới mông của Sul bébỏng.

Ma-tsu đã ấn chứng. Sul không điên, chỉ là Sul đã vượt khỏi cái thế nhịnguyên thường tình mà người đời đang vin vào đó cho là chân lý, rồi sinh lầmlẫn. Ma-tsu đã ấn chứng. Không cần để kinh Pháp Hoadưới mông nữa. Trongthế nhị nguyên, duyên khởi xoay vần, nhân quả rành rành, pháp thân vốn khôngsinh diệt, ứng duyên ở cõi Ta bà cũng sinh cũng diệt. Phật cũng sinh lão bệnhtử, trả quả như ai. Chỉ là người khổ mà Phật không khổ. Người theo nghiệp lựcmà đi, Phật theo nguyện lực mà ứng. Chánh hay tà, bỏ hay không bỏ, nên haykhông nên… trong thế nhị nguyên cần phải tỏ tường mà không chấp trước. Tùyduyên mà bất biến, sao cho thuận hợp với lý pháp thân vốn sẵn đầy đủ trong mìnhđể còn thể nhập. Cho nên, kinh luận vài ngàn, giới luật mấy trăm, bởi tùy duyênmà đặt, cũng tùy duyên mà giữ, đâu thể loạn xà ngầu. Không phải “vô phân biệt”là sao cũng được, rồi rượu chè túy lúy, thuốc hút ngợp trời, tham dục không từ.Thiền sư, rượu có hủ chìm thì cuối đời vẫn kiết già phu tọa mà đi. Bởi uốngkhông phải là tập. Rượu cùng nước bình đẳng. Cuối đời tự tại đương nhiên. Mìnhmột đời chập chững, mọi thứ vẫn còn trong chữ nghĩa chưa thông, sao dám khôngnghiêm trì giới luật? Khuôn phép cần có để mà nương theo, mình an mà người cũngvui, cho đời dứt khổ.

Hoàng Bá, người đã chứng đến chỗ tột cùng, vẫn bền lòng tôn kính ĐứcPhật, hỏi Ngài cầu gì nơi Phật và tìm gì nơi đạo? Ngài trả lời “Không có Phậtđể cầu, không có đạo để tìm. Chỉ kính lễ thế thôi”(6). Pháp Hoa,thể đã thấu rồi, Pháp Hoavẫn là Pháp Hoa. Cần sự tôn kính. Dingôn của Phật, không có tâm tôn kính thì việc tụng đọc tu tập không thể hếtlòng, đường về ngút ngàn càng thêm thăm thẳm. Cho nên, Sul đã đặt kinh trở lạibàn thờ với hương và hoa như vẫn thường làm. Thể không, ứng duyên mà thành sự.Sự thành rồi, sự lý phải tương dung, sự sự mới viên dung.

Sul không còn niệm danh Bồ tát, nhưng vẫn tiếp tục công phu thiền địnhchăm chỉ. Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ(7).

Một ngày, Sul đến gặp Ma-tsu tại chùa của Ngài. Đúng vào lúc Thiền sư HoAm cũng đến viếng thăm. Sul được mời cùng uống trà. Khi Sul rót trà vào táchmình, Thiền sư Ho Am hỏi Ma-tsu:

- Nghe nói cô gái nhỏ này công phu rất chăm chi.

Ma-tsu cười và trả lời:

- Ah, không có gì!

Ho Am quay sang Sul và nói:

- Ta sẽ kiểm nghiệm con.

Sul đồng ý và ông hỏi:

- Kinh nói “Núi Tu Di chứa trong hạt cải”, một người nào đó đã đến và phátan núi đá thành những mảnh vụn. Điều đó có nghĩa là gì?

Sul nhấc tách trà và ném thẳng vào tường.

Ma-tsu vỗ tay cười lớn:

- Rất tốt! Rất tốt! Giờ đến ta kiểm tra con.

Sul gật đầu đồng ý.

- Trong Phật giáo, từ nghiệp được dùng rất nhiều. Con có nghiệp Phật giáorất tốt. Ta hỏi con nghiệp là gì?

- Thứ lỗi cho con Đại sư! Ngài có thể giải thích lại câu hỏi một lần nữakhông?

- Trong Tam thừa của Phật giáo, khái niệm nghiệp có thể được hiểu theocách này hay cách khác. Ta muốn hỏi con, với con, nghĩa đích thực của nghiệp làgì?

Sul nói cám ơn rồi im lặng.

Ma-tsu cười lớn:

- Một cú lừa rất tuyệt! Con đã hiểu về nghiệp.

Ta nói nhiều về nghiệp. Giải thích rất hay về nghiệp. Đó là một chi trongTứ thánh đế khiến đưa đến quả khổ cho con người. Nghiệp là thói quen. Nghiệp làsự tích tụ… Chỉ một chữ nghiệp, ứng duyên mà thấy có sai khác, nhưng không saikhác về nghĩa. Tùy duyên mà bất biến. Vô vàn hiện tướng để nói về nghiệp, nhưngbản chất thật của nghiệp thì ít ai biết. Nếu có biết, cũng nhờ thông qua kinhluận, ít do trải nghiệm.

Ma-tsu muốn biết, với cái tâm của Sul, Sul đã chứng nghiệm thế nào về bảnchất của nghiệp. Nghiệp là Bồ tát, là mây, là gió… như những gì Sul từng chứngnghiệm trước đây? Nếu Sul lặp lại như thế, Ma-tsu đã chẳng cười mà nói với Sul“con đã hiểu về nghiệp”.

Bản chất của nghiệp, bạn nói gì về nó? Tôi nói gì về nó? Những gì chúngta nói được chỉ là những tướng theo duyên. Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.Kinh Kim Cangnói: “Những gì có tướng đều là hưvọng”. Kinh nói hư vọng, mình lặp lại hư vọng để biết mà tu không lầm. Khi mìnhkhổ quá, mình quán hư vọng để khổ vơi đi. Cái gọi chiêm nghiệm thật sự hư vọng,chỉ khi sống được với chân, hư vọng mới thật hiển bày. Điều đó tương tự, nóichân nói vọng không phải mình đã thật sống như chân, như vọng. Ngôn từ lýthuyết chưa hẳn đã là kinh nghiệm, mặc dù kinh nghiệm đưa đến ngôn từ lýthuyết. Cần những trải nghiệm thật sự trong mình. Người xưa vẫn nói “nóng lạnhtự biết”.

Bạn muốn biết nghĩa đích thực của nghiệp? Cần phải tự mình thắp đuốc màđi. Không ai có thể giải thích thay bạn, ngoại trừ chính bạn. Thứ tôi có thểgiải thích cho bạn, chỉ là hình tướng hư vọng của nghiệp, chưa phải là bản chấtthật của nghiệp.

Sul đã chứng nghiệm được bản chất thật của nghiệp. Sul không còn bịnghiệp lừa như chúng sinh. Cô có thể bước vào thế giới hình tướng mà không bịhuyễn tướng chinh phục hay làm lầm.

Khi Sul trưởng thành, cô luôn giữ tâm mình ở trạng thái rỗng lặng. Bênngoài, Sul sống như người bình thường. Bên trong, tâm của Sul là tâm của một vịBồ tát.

Cô lấy chồng và có một đại gia đình hạnh phúc. Tất cả đều là những Phậttử mộ đạo. Nhiều người đã đến với Sul để được giúp đỡ và nhận sự chỉ dạy. Côđược biết đến như một thiền sư.

Khi tuổi về chiều, đứa cháu gọi Sul bằng bà qua đời. Sul đã khóc như mưasuốt buổi tang lễ và trên đường về. Khách đến chia buồn, cảm thấy rất sốc về cửchỉ đó. Mọi người bắt đầu xì xào. Một người đã đến và hỏi:

- Bà đã đạt được sự giác ngộ không phải nhỏ để thừa hiểu “không có sốngcũng không có chết”, vì sao còn khóc? Sao đứa cháu nhỏ lại làm chướng ngại sựrỗng rang của bà như thế?

Sul lập tức ngừng khóc và nói:

- Ông có hiểu được nước mắt của tôi quan trọng thế nào không? Nó hơn hẳntất cả kinh điển, tất cả lời của chư Tổ cũng như tất cả nghi lễ.(8)Khi cháu nghe tôi khóc, nó sẽ vào Niết bàn.

Nói rồi, Sul quay lại hỏi đám đông:

- Các vị có hiểu được điều đó?

Đương nhiên, không ai có thể hiểu được những gì Sul đã làm và đã nói,ngoại trừ Ma-tsu và những người có cùng tâm thức với bà. Nó trở thành công áncho kẻ hậu sinh.

Còn bạn, bạn có hiểu không?
Ta bắt đầu
Niệm Phật và tham thiền
Ngay từ mùa xuân này
Thật miên mật và miên mật
Để nghe được
Tiếng gà gỗ gáy vào buổi tối
Như tiếng vỗ một bàn tay
Sẽ hiểu được những gì Sul làm
Và hơn hết
Được hạnh phúc lớn lao mà Ma-tsu đã dạy
Hãy bắt đầu từ mùa xuân này, bạn nhé!

(1)Trong bài: Này em có nhớ - nhạc TrịnhCông Sơn

(2)Kinh Niết Bàn.

(3)Mã Tổ. Có người cho là Hakuin (Bạch Ẩn). Giaithoại này được dịch từ bản tiếng Anh “The story of Sul” trong Zen WomenBlog, mà nguồn chính là từ sách “Dropping Ashes on the Buddha"củaSeung Sahn.

(4)Tạm dùng ngôn từ để diễn tả tâm vô phân biệthiển bày.

(5)Thực tế, nhìn chung thì thấy cây liễu màu xanh,còn hoa màu đỏ.

(6)Bạch Ẩn Thiền Định Ca - Thiền sư Sessan chúgiải.

(7)Thiền sư Đạo Minh.

(8)Không phải Sul chê bai lời của Phật Tổ. Chỉ là muốn nói: Ứng vào cáiduyên của đứa cháu nhỏ, nước mắt của bà có giá trị hơn tất cả. Đó là mặt “khếcơ” mang tính tùy duyên của vạn pháp, mà “khế lý” chính là tâm vô phân biệt củabà.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2019(Xem: 5522)
Kinh Duy Ma Cật, tôi đã có duyên được học với Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tại Phật Học Viện Báo Quốc - Huế, sau năm 1975 Tôi rất thích tư tưởng “Tịnh Phật Quốc Độ” của kinh này, khi nghe đức Phật gọi Bồ tát Bảo-tích mà dạy: “Trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật chúng sinh không dua nịnh sẽ sinh về cõi ấy. Thâm tâm là Tịnh Độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào có đầy đủ công đức sẽ tái sinh về cõi ấy. Bồ đề tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng sinh tầm cầu Đại thừa sẽ sinh vào cõi ấy.
04/01/2019(Xem: 79235)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
10/12/2018(Xem: 9718)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
06/12/2018(Xem: 3981)
Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu không có từ bi thì không có đạo Phật. Đạo Phật là con đường diệt khổ, vậy thì từ là đem vui, bi là cứu khổ, còn gì đúng hơn nữa khi nói đạo Phật là đạo của từ bi ? Nhưng người ta cũng có thể tự hỏi : có thể nào thâu gồm lại đạo Phật trong hai chữ từ bi ? Liệu từ bi có đủ để định nghĩa đạo Phật, để phân biệt đạo Phật với các tôn giáo và triết thuyết khác ? Nói một cách khác, có thể nào xem từ bi như là một đặc điểm của đạo Phật ? Nhìn chung quanh, chúng ta thấy đạo giáo nào cũng chủ trương tình thương bao la, rộng lớn, như lòng bác ái của đức Ky Tô, thuyết kiêm ái của Mặc tử. Nhưng chỉ có đạo Phật mới nổi bật lên bằng sự đề cao trí tuệ. Có thể nói rằng trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, không có một tôn giáo nào đặt trọng tâm vào vai trò của trí tuệ hơn là đạo Phật. Bởi vì Buddha (Phật) phát xuất từ chữ Phạn bud, có nghĩa là hiểu biết. Đức Phật là người đã hiểu biết trọn vẹn, đã tỉnh thức, đã giác ngộ, l
02/12/2018(Xem: 8427)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
26/11/2018(Xem: 10959)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
04/09/2018(Xem: 7086)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
13/08/2018(Xem: 6339)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
03/06/2018(Xem: 21286)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10332)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567