Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Tính thích nghi của Phật giáo - Thích Lệ Thọ

16/05/201317:07(Xem: 2569)
4. Tính thích nghi của Phật giáo - Thích Lệ Thọ


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần III

Phật giáo và các vấn đề hiện tại

--- o0o ---

TÍNH THÍCH NGHI CỦA PHẬT GIÁO

Thích Lệ Thọ

Trong tương lai gần, đất nước Việt Nam sẽ đi vào công nghiệp hóa thì chắc chắn cách ứng dụng giáo lý cũng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế như thay đổi giờ công phu, tụng niệm và những buổi lễ chính, để Phật Tử dễ dàng tham dự, đồng thời không gây trở ngại về giờ giấc cho những khu dân cư chung quanh. Những buổi thuyết giảng không chỉ ở giảng đường mà còn được phát trên đài phát thanh hay đài truyền hình, để đáp ứng cho những người không có điều kiện đi nghe giảng. Chuyển tải toàn bộ kinh điển từ âm Hán-Việt sang thuần Việt, để trong những buổi lễ mặc dù là "tán, tụng" theo nghi thức của tôn giáo, nhưng tất cả mọi người đều có thể hiểu trọn vẹn lời Phật dạy . . .

Cũng vào mùa Đông giá buốc như năm nay, khi đêm về mọi người quay quần bên bếp than hồng để sởi ấm, hoặc thả hồn vào những chiếc nệm ấm chăn êm; thì giữa cánh rừng già heo hút bóng người và trong những đêm trường cô liêu tịch tịnh kia, lại có một người đang dành hết thời gian của mình để tìm phương giải thoát, mà lắm lúc đã quên đi cả bản thân. Nghị lực phi thường, đã mang lại cho Ngài một kết quả như sự mong đợi,"giải thoát nỗi trầm thống của kiếp nhân sinh" mà Ngài đã luôn trăn trở. Từ đó, ngài mở ra cho nhân loại một hướng đi mới, với lời tuyên bố vô tiền khoáng hậu: "Không nên tin vào những gì do kinh sách, không nên tin vào những tập quán lưu truyền đã tạo nên thành kiến, không nên tin vào những điều được lập đi, lập lại và những bút tích của thánh nhân…" Lời nói ấy đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho mọi tầng lớp đương thời đang đi vào ngõ cụt của tâm hồn. Trải qua hơn 25 thế kỷ, chân lý ấy vẫn ngời sáng và tỏ ra rất thiết thực cho cuộc sống hiện đại.

Trước đây, người ta quan niệm rằng, triết lý Phật giáo nói riêng và các học thuyết Đông phương nói chung, chỉ có thể ứng dụng cho chính mình. Như Rudyard Kipling đã viết trong cuốn Huyền học Đông Tây:

"Đông là Đông Tây là Tây,
gặp gỡ đừng mong sẽ có ngày…"

Nhưng đầu thế kỷ XIX, hai nền triết học Á-Âu đã có sự giao thoa, và thật sự trở thành người bạn đồng hành ở nửa thế kỷ thứ XX, khi nền khoa học đi vào đỉnh cao của sự khám phá, thì họ mới cảm nhận rằng "Khoa học càng ngày càng phù hợp vói ‘cái nhìn’ của các bậc đại giác phương Đông." Tiến sĩ Fritjof Capra, tác giả quyển sách The Tao of Physics, là một trong những số đó. Điều ấy cho chúng ta thấy rằng, lời tuyên bố của đức Phật như sự khai phóng cho lối tư duy không còn bị lệ thuộc bất cứ một học thuyết, một đường lối, hay một đấng thiêng liêng nào có thể ràng buộc hay ngự trị, mà tất cả đều do tâm thức làm chủ và dẫn đến sự chi phối toàn bộ đời sống của từng cá nhân. Ngài đã nắm rõ nguyên tắc vận hành của vạn hữu vũ trụ, như một người đang đứng trên đỉnh núi cao nhìn dòng sông đang lưu chuyển. Nên Ngài tuyên bố dõng dạc: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" mà trước đó chưa ai dám khẳng định. Vấn đề trên, Giáo sư T.R.V. Murti đã nhận định: "Không nơi nào Đức Phật công nhận sự hàm ơn của Ngài đối với tư tưởng Áo Nghĩa Thư(Upanisad) hay đối với bất kỳ vị thầy nào khác về quan điểm triết học riêng biệt, đặc thù của Ngài. Mặc dù Brahma, vị Trời Phạm Thiên được đề cập đến nhiều lần trong kinh điển, nhưng Brahma (Thực thể tuyệt đối) thì không bao giờ được Đức Phật đề cập đến. Đức Phật luôn tự xem mình như người khai sinh một truyền thống mới, như người mở ra một con đường mới mà trước đây chưa từng có. Người ta đã duyệt lại các suy đoán triết học tiền và đồng thời với thời đại đức Phật được ghi lại trong các kinh Phạm Võng(Brahmajala Sutta) và Kinh Sa-môn Quả(Samannapphala Sutta) v.v... Tất cả những hệ thống tín điều và triết lý mang tính cách thần quyền đều bị bác bỏ vì tính chất giáo điều, phi khoa học, không đồng nhất và trở nên trở ngại cho đời sống tâm linh của chúng. Vì vậy, Giáo sư Eliot cũng đã nhận định:

"Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật đã tuyên bố và mở ra một con đường giải thoát mà mỗi người có thể đạt được cho mình ngay trong đời này, tại thế gian này bằng nỗ lực của bản thân mà không cần một sự giúp đỡ tối thiểu nào từ các vị thần hay một vị Thượng đế. Ngài đã kiên quyết chủ trương và áp dụng mạnh mẽ chủ thuyết về sự tự lực, tự tin, sự thanh tịnh, sự giác ngộ, bình ổn nội tâm, và lòng đại từ đại bi. Ngài khẩn thiết nhấn mạnh chú trọng đến sự phát triển trí tuệ, vì không có trí tuệ thì không làm sao chứng nghiệm tâm linh, và an lạc giải thoát ngay trong đời sống thường nhật mà ngôn ngữ thế gian không làm sao đáp ứng được" (Buddhism and Hinduism).

Chính vì thế, người ta đã gọi giáo lý giải thoát của Ngài là triết học Phật giáo, vì đã trải qua chừng ấy thời gian mà lời dạy vẫn còn sống động và thiết thực cho những ai đang khao khát nguồn hạnh phúc an lạc ngay trong đời sống hiện tại.

Những nhận định thẩm quyền trên là niềm khích lệ lớn lao cho Tăng đoàn đang làm nhiệm vụ hoằng truyền chánh pháp, và những người Phật tử sẽ tăng thêm niềm vinh hạnh, vì mình là thành viên của một tôn giáo không chấp nhận lòng tin mù quán, không có sự cưỡng bức, trải qua hơn 2500 năm không đổ một giọt máu nào vì nhân danh đức Phật. Nên Aldoux Husley nhận định: "Trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ riêng đạo Phật đi con đường của mình mà không cần đàn áp, kiểm duyệt hay thẩm tra ai cả."

Mặc dù là thế, nhưng những nhà truyền giáo Phật giáo của thế kỷ thứ XXI không thể sống trong vầng hào quang đó mãi, mà phải tự thăng hoa chính mình vào mọi lúc mọi nơi, như chính những lời dạy của đức Phật, để mang lại thiết thực nhiều hơn nữa cho nhân sinh nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng trong nhiều lĩnh vực mới, như văn hóa, kinh tế và môi trường v.v. . . Bởi lẽ, trong tương lai gần, đất nước Việt Nam sẽ đi vào công nghiệp hóa thì chắc chắn cách ứng dụng giáo lý cũng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế, như thay đổi giờ công phu, tụng niệm và những buổi lễ chính, để Phật Tử dễ dàng tham dự, đồng thời không gây trở ngại về giờ giấc cho những khu dân cư chung quanh. Những buổi thuyết giảng không chỉ ở giảng đường mà còn được phát trên đài phát thanh hay đài truyền hình, để đáp ứng cho những người không có điều kiện đi nghe giảng. Chuyển tải toàn bộ kinh điển từ âm Hán-Việt sang thuần Việt, để trong những buổi lễ mặc dù là "tán, tụng" theo nghi thức của tôn giáo, nhưng tất cả mọi người đều có thể hiểu trọn vẹn lời Phật dạy . . .

Đó là một việc làm ắt có và đủ, mang tính thích nghi trong nền tảng triết lý Phật giáo, bằng nhiều hình thái, màu sắc và ngôn từ của thời đại, nhưng nội dung trước sau vẫn là một, để hòa nhập trào lưu toàn cầu hóa của xu hướng ngày nay, mà Phật giáo Việt Nam không thể đứng ngoài sự chuyển động đó. Song song với các vấn đề trên, chúng ta còn phải vận dụng mọi sự thành tựu của nền khoa học, mà đặc biệt là trên mạng điện toán, để nối vòng tay lớn cho trái đất hẹp lại. Người hoằng pháp hiện đại nên chuẩn bị và hướng đến một tương lai, trong đó không còn sự hận thù, tranh chấp, phân biệt màu da, chủng tộc, giới tính và tôn giáo. Đó không chỉ là niềm ước mơ lớn của nhân loại trong thiên niên kỷ mới mà còn là mục tiêu của các nhà truyền bá Phật giáo.

Theo sự nhận định của Thượng Tọa Huyền Diệu và thống kê của Thượng Tọa Thiện Bảo, tòa soạn báo Giác Ngộ, hiện nay chỉ mới có vài chục trang báo Phật giáo bằng tiếng Việt trên mạng điện toán. Có thể nói đây là một con số quá khiêm tốn so với nhu cầu tìm hiểu và thực hành chánh pháp của người Phật tử và các tầng lớp trí thức xã hội khác muốn tìm hiểu Phật giáo một cách nghiêm túc. Trong khi đó, Phật giáo Thái Lan có trên 200 trang nhà điện toán, và hiện nay họ đang tăng cường thêm nhiều mạng nữa. Với đà phát triển chung của nhân loại, đến cuối năm 2001 thì số lượng sử dụng máy điện toán sẽ lên đến 1 tỷ 200 triệu, theo báo The Times of India, 19/11/00. Như vậy, có thể nói rằng, đây là một thách thức lớn đối với ngành Hoằng pháp của nhiều nước Phật giáo trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khi lĩnh vực mới có nhu cầu đáp ứng món ăn tinh thần, để quân bình giữa đời sống vật chất và tâm linh. Vì lĩnh vực trí tuệ này rất gần gũi với nền tảng triết lý Phật giáo, có thể nói rằng nó sẽ hỗ tương cho nhau khi Phật giáo muốn minh họa hay dẫn chứng mà ngôn ngữ đời thường không thể diễn đạt cho con người hiểu thấu một vấn đề, như câu "nhất thiết duy tâm tạo" thì những phần mềm của chiếc máy vi tính có thể đáp ứng được phần nào. Ngược lại, phải chăng nghành điện toán đã ứng dụng những học thuyết của Phật giáo về nhân duyên-cái này sinh cái kia sinh, cái này diệt cái kia diệt; về vạn pháp giai không-bản chất của mọi sự vật hiện tượng là không; hay tất cả là một, một là tất cả, để từ đó họ ứng dụng vào nhiều lĩnh vực cho chiếc máy vi tính có khả năng làm nhiều công việc trong cùng một lúc, và mang tất cả sơn hà đại địa vào chứa trong một ổ đĩa cứng, như các Thiền sư thường nói Tam thiên đại thiên nằm trong một hạt cải. Như vậy, Phật giáo và khoa học sẽ là người bạn đồng hành của nhân loại để đi vào kỷ nguyên mới, nhằm mang lại hạnh phúc an lạc và giải thoát cho nhân sinh, như bao nhiêu thế kỷ đã trôi qua.

Nhân ngày đại lễ Phật Thành đạo năm 2001, và cũng là trong những ngày đầu của một năm mới, đầy sự hứa hẹn của sự thành tựu của nền khoa học trên nhiều phương diện, để phục vụ cho con người về phương diện vật chất, người viết mạo muội nói lên một vài cảm nhận qua bài kinh của đức Phật thuyết cho dân Kalama, để được dịp trao đổi cùng các bậc thức giả, nhằm mang lại món ăn tinh thần cho nhân loại trên nền tảng triết lý Bình đẳng, Vô ngã và Vị tha của Phật giáo, đang hướng con người tiến về "chân thiện mỹ" qua nhiều hình thức mới, để tinh thần Phật giáo mãi mãi sống động và càng ngày càng lớn mạnh trong lòng mọi người. Phật giáo trong thiên niên kỷ mới phải là Phật giáo như sự mong đợi của khoa học gia, Albert Einstain, người đã nhận định một cách hùng hồn và chính xác:

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn thiên nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện ấy."

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/01/2015(Xem: 8420)
Hôm mồng 08 tháng 12 Âm lịch (27/01/2015), Tổ đình Thiền tông Thiếu Lâm Tự tổ chức nấu Cháo Bát Lạp, để dâng cúng dường Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, hoạt động này đã thu hút hàng trăm Phật tử tham gia chế biến món truyền thống với hương vị đặc trưng này. Hôm nay cũng là Lễ hội Cháo Bát Lạp nhân Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, được gọi là “Pháp Bảo Tiết”. Vào buổi sáng lúc 08 giờ 30 phút, Hòa thượng Thích Vĩnh Tín, Phương trượng Thiếu Lâm Tự, cùng đại chúng vân tập Đại Hùng Bửu điện cử hành cung phụng Pháp hội, những tình nguyện viên, thiện nam tín nữ Phật cầu Phúc.
29/01/2015(Xem: 5561)
Nam Mô Bồ Đề Thọ Hạ Đại Thắng Ma Quân Dạ Đổ Minh Tinh Đạo Thành Chánh Giác Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Sao Mai từ góc trời lên Tử sinh đã dứt não phiền đã tan Mười phương thế giới hân hoàn Mừng Đấng Giác Ngộ với ngàn lời ca.
27/01/2015(Xem: 8082)
DƯỚI GỐC CÂY NÀY, NẾU TA KHÔNG ĐẮC ĐẠO VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ, DẦU CHO TAN THÂN NÁT THỊT QUYẾT KHÔNG ĐỨNG LÊN. Lời nguyện vĩ đại trên Đức Phật đã đánh đổ tất cả thành trì, vương tước và khước từ cuộc sống vị kỷ, hạn hẹp tình vợ chồng con cái trong chốn nhung lụa, giàu sang của hoàng tộc. Lời nguyện siêu tuyệt trên Đức Phật đã băng rừng, lội suối trải qua bao gian khổ, nhọc nhằn hiểm nguy để tìm ra chân lý giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài.
24/12/2014(Xem: 15935)
Bộ tranh cuộc đời Đức Phật Buddha life story
19/01/2014(Xem: 7781)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
16/12/2013(Xem: 22569)
Viết xong cuộc đời ngài Tôi bần thần, dã dượi Sinh lực tổn hao Như thân cây không còn nhựa luyện Như sức ngựa đường dài Hoàn tất cuộc lữ trình lên đến đỉnh đồi cao Ôi! Tôi đã chạy đuổi chiêm bao Muốn vói bắt mảnh trăng trời nguyên thuỷ
08/12/2013(Xem: 5348)
Con người sở dĩ có một vị trí đặc biệt trong các chủng loại động vật, là nhờ có một nhận thức về tư duy và có một tâm thức về linh học. Từ khi con người hiện hữu trên tinh cầu, vấn đề nhận thức được hoàn thiện từ sơ cơ cho đến tinh tường là nhờ trao đổi thông tin, giao tiếp và xử lý nhiều vấn nạn.
26/10/2013(Xem: 53396)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/06/2013(Xem: 8142)
Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
18/05/2013(Xem: 5846)
Trong kinh điển Pāli không có dấu hiệu nào cho thấy Đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả(26)của H.W. Schumann, là một luận điểm võ đoán, nếu không nói là chưa phản ánh đúng sự thật lịch sử. Gần mười năm trước, lần đầu tiên tiếp cận tác phẩm Đức Phật lịch sử(1)của H.W. Schumann qua bản dịch của cô Trần Phương Lan, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là sự kính phục về độ uyên bác của tác phẩm cũng như sự dấn thân khoa học của bản thân tác giả. Lời giới thiệu tác phẩm của HT.Thích Thiện Châu trong bản dịch tiếng Việt cũng đồng quan điểm này, khi ngài cho rằng: H.W. Schumann đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của Đấng Giác Ngộ như một người sống thật trong khung cảnh thật của Ấn Độ cổ đại, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H.W. Schumann về Đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về Đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567