Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Giới thiệu "Niên đại" Đức Phật lịch sử: Vấn đề đang còn tranh luận - Thích Giác Hoàng dịch

16/05/201316:39(Xem: 3082)
18. Giới thiệu "Niên đại" Đức Phật lịch sử: Vấn đề đang còn tranh luận - Thích Giác Hoàng dịch


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần II

Tưởng niệm Phật Phật thành Đạo
và niên đại của Ngài

--- o0o ---

GIỚI THIỆU "NIÊN ĐẠI" ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ:
VẤN ĐỀ ĐANG CÒN TRANH LUẬN

Heinz Bechert
Thích Giác Hoàng dịch

I. NIÊN ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT

MỘT VẤN ĐỀ CHƯA GIẢI QUYẾT?

Chưa có tài liệu nào về niên đại của Đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận. Các học giả cũng chưa đạt đến một kết luận thống nhất nào về vấn đề này. Hầu hết các nguồn sử liệu Phật giáo và các học giả đều nhất trí cho rằng Đức Phật đã nhập diệt lúc tám mươi tuổi. Nếu tính theo lịch Thiên Chúa giáo, ngày Niết-bàn của Đức Phật theo truyền thống khoảng 2420 - 290 TTL. Điều này không những làm cho các học giả lúng túng rất nhiều mà còn làm cho các Phật tử ngày nay ngộ nhận khi họ bắt đầu vào con đường nghiên cứu Phật học. Vì vậy, vấn đề biên niên sử đã được bàn thảo rô?g rãi trong các phong trào Phật giáo quốc tế, và như chúng ta sẽ thấy dưới đây, đã có nhiều nỗ lực để đi đến thống nhất chung về Phật lịch, nhưng kết quả đạt được thật là giới hạn.

Vấn đề niên đại của Đức Phật và những nhân vật đương thời với Ngài không kém phần quan trọng đối với các sử gia. Thật sự nó vẫn là vấn đề thiết yếu cho nghành sử học Ấn Độ và thế giới. Do đó, nhiều người đã có nhiều cố gắng để đi đến một niên đại thống nhất, tuy nhiên đại đa số các học giả Nam Á và phương Tây theo một khuynh hướng, còn các học giả Nhật Bản lại đi theo một khuynh hướng khác. Theo quyển "Lịch Sử Ấn Độ của Đại Học Cambridge" (Cambridge History of India), biên niên sử được phần lớn các học giả phương Tây và Nam Á sử dụng trong giai đoạn giữa thế kỷ XIX cho đến thời gian gần đây, giả định rằng: "Đức Phật vô dư niết-bàn vài năm trước hoặc sau năm 480 TTL." Cách tính này được xem như là cơ sở của biên niên sử Ấn thời kỳ đầu và nó cũng được xem như là tài liệu đáng tin cậy nhất trong lịch sử Ấn Độ. Vì thế, trong quyển Biên Niên Sử Ấn Độ (Chronology of India) của D. Mabel Duff (1899), viết: "Thái tử Siddhrtha, sau trở thành Đức Phật Gautama, sinh ở Kapilavastu khoảng năm 557 TTL" được xem như ngày lịch sử đầu tiên trong bảng niên đại, ngay sau năm 3102 TTL- năm đầu tiên của kỷ nguyên Kaliyuga và năm 3076 TTL- năm đầu của kỷ nguyên Laukika.Ngày đản sinh của Đức Phật được tính ngược lại từ năm 477 TTL, và đây là năm Đức Phật Niết-bàn theo quan điểm của Max Muller.

Các cách tính này, đặc biệt dựa vào truyền thống biên niên của Đảo Sử (D?pavasa) và Đại Sử (Mahvasa) trong văn học Pli do các tác giả Tích Lan trước tác khoảng TK IV đến đầu TK VI TL cũng như dựa vào tác phẩm Samantapsdikcủa Phật Âm (Buddhaghosa). Tuy nhiên, niên đại được tính dựa theo những tác phẩm đã được các Phật tử Tích Lan cũng như các Phật tử theo truyền thống Theravda ở Nam Á chấp nhận thì ngày Đức Phật Niết-bàn không phải năm 477 / 480 mà là năm 544 / 543 TTL. Đó là điểm khởi đầu của Phật lịch (Buddhassana Era) đã được các cộng đồng Phật giáo Theravda ở Nam và Đông Nam Á sử dụng. Niên đại 544 hay 543 TTL có thể gọi là biên niên sử gốc, hoặc là "Biên niên sử dài không-bị-hiệu-chỉnh" (Uncorrected Long Chronology), hoặc là "Biên Niên Sử Phật Giáo Nam Phương" (Southern Buddhist Chronology), trong khi đó biên niên sử các học giả phương Tây sử dụng được xem như "Biên Niên Sử Dài Đã Hiệu Chỉnh"(Corrected Long Chronology).

Trong giai đoạn nghiên cứu đầu tiên của người Châu Âu về Phật giáo, khoảng tiền bán TK XIX đã có khuynh hướng theo "Biên niên sử Nam truyền" hay "Biên niên sử Nam phương Phật giáo" không bị hiệu chỉnh này. Chính đây là biên niên sử cuối cùng về niên đại Đức Phật và dường như nó là quan điểm dễ chấp nhận nhất. Tuy nhiên, như đã đề cập trong phần giới thiệu của ấn bản và bản dịch của Mahvasaxuất bản năm 1837 vô cùng có giá trị thời bấy giờ, George Turnour đã lưu ý đến mức độ không chính xác khoảng 60 năm giữa niên đại vua Candragupta thuộc triều đại Maurya như đã được truyền thống này đề cập, và niên đại này được thành lập nhờ vào sự xác định niên đại đồng thời của vua Candragupta và nhà văn Hy Lạp Sandrakottus, và việc xác định này được ông William Jones phát hiện năm 1793. Ông Turnour đã kết luận rằng niên đại của các Hoàng Đế Candragupta và A?oka được tính quá sớm trong biên niên sử, nhưng ông lại chấp nhận dữ liệu trong Mahvasachokhoảng cách giữa Đức Phật Niết-bàn và lên ngôi của vua Candragupta là 168 năm và lên ngôi của vua A?oka là 218 năm. Dựa trên căn bản này, Turnour đã kiến lập một loại biên niên sử mới mà sau này mệnh danh là biên niên sử dài "đã hiệu chỉnh." Điều này càng được khẳng định hơn nữa nhờ sự giải mã về các bia ký của A?oka và sự xác định niên đại của các vua Hy Lạp đương thời đã được đề cập trên các bia ký đó.

Như người viết đã từng đề cập, "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh" dù có sự biến thiên nhỏ giữa các năm 486 – 477 TTL được ấn định là năm đức Phật niết-bàn, được xem như là nền tảng của các biên niên sử Ấn Độ. Hầu hết các niên đại đã được đề cập trong các tác phẩm văn học Ấn Độ thời kỳ đầu đều dựa vào niên đại này và được rộng rãi quần chúng tin cậy như là ngày đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ. Như vậy, niên đại được ghi trong văn học Brhmaϼkhoảng 1000 năm TTL, những bản kinh (S‰ tra) và Áo Nghĩa Thư(Upanishad) thời kỳ đầu, khoảng 800 – 500 TTL, v.v… đã được các nhà nghiên cứu thời Max Muller lặp đi lặp lại nhiều lần, đều dựa trên tài liệu biên niên sử này.

Tuy nhiên, cũng còn một vài trường hợp ngoại lệ mà chúng ta gặp phải trong "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh." Nhiều sách hiện nay về lịch sử Ấn Độ, lịch sử thế giới, lịch sử tôn giáo, v.v… trên thực tế lại được xuất bản ở các nước phương Tây hoặc ở Nam Á suốt 100 năm qua. Nhìn chung, nó được nhìn nhận như một sự kiện đã định hình. Trong số các luận chứng cổ điển, bản văn giới thiệu cho dịch phẩm Mah vaị sa (1912) của Wilhelm Geoger là một trong những bản văn có ảnh hưởng lớn nhất để ủng hộ giả thuyết này.

Năm 1953, André Bareau đã xuất bản một bài khảo cứu có tính nghiên cứu cao được đăng tải trong tạp chí Journal Asiatiqueđể ủng hộ biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Từ đó niên đại khoảng 480 TTL như là niên đại Đức Phật Niết-bàn được tin là đã được thành lập "tương đối chắc chắn." Đây là điểm được A. K. Warder trình bày vào năm 1970; và nó có thể được công nhận một cách đương nhiên như là nền tảng của tất cả biên niên sử Ấn Độ thời kỳ đầu. Một số lý luận của những người ủng hộ biên niên sử dài vẫn tiếp tục được xem như có sức thuyết phục trong các bài viết có tính nghiên cứu cao gần đây về đề tài này, ví dụ như Lịch Sử Đức Phậtcủa H. W. Schumann vào năm 1982.

Tuy nhiên, có một số học giả hiện nay biện hộ cho biên niên sử dài không bị hiệu chỉnh, nghĩa là theo Thượng Tọa Bộ, năm Đức Phật Niết-bàn là năm 544 TTL. Một trong những người đáng chú ý nhất là Vinsent A. Smith, tác giả cuốn Ấn Bản Oxford về Lịch Sử Ấn Độ Lịch Sử Ấn Độ Thời Kỳ Đầu.

Người viết xin trích dẫn một dẫn chứng dưới đây:

"Tôi không tin rằng niên đại của Đức Phật có thể được xác định như là "chắc chắn" và trái với các ý kiến đã được ủng hộ cho rằng năm Đức Phật Niết-bàn là 487 hoặc 486 TTL. Ngày nay chúng ta có thêm một dữ liệu mới nhờ bia ký Kh ravela, nếu nó đúng, buộc chúng ta phải đi ngược lại niên đại của Ư ai? un ga hơn 50 năm, và vậy nó sẽ ủng hộ niên đại Đức Phật Niết-bàn theo truyền thống Tích Lan năm 544 hay 543 TTL. Điều này có thể lập luận rằng các truyền thống được bảo tồn ở Magadha nên được tin tưởng hơn là những truyền thuyết do chư tăng ở Tích Lan xa xôi ghi lại sau này, nhưng cũng có bằng chứng thuyết phục hơn là Đức Phật Gautama là người sống cùng thời với vua Bimbis ra và con trai của vua là Aj ta? atru , và nếu như vậy, người viết cảm thấy rằng nên chấp nhận niên đại 543 TTL, vì nó dựa vào sử liệu được khám phá nhờ bia ký Kh ravela; trừ phi có các nghiên cứu mới về đề tài này."

Biên niên sử 544 TTL của Thượng Toạ Bộ dĩ nhiên là được đại đa số các nhà nghiên cứu Phật học Nam Á hiện nay tán thành. Chính biên niên sử này đã được các phong trào Phật giáo quốc tế như "Hội Thân Hữu Phật Tử Thế Giới" (World Fellowship of Buddhists) và các hiệp hội Phật giáo chấp nhận. Biên niên sử này được truyền bá khắp nơi. "Đại Hội Phật Giáo Thế Giới" lần đầu tiên được tổ chức để mở màn cho Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc Tích Lan ở Colombo năm 1950, với niềm hy vọng rằng "năm 2500 sau Đức Phật diệt độ đúng vào năm 1956 của TL, toàn thể thế giới sẽ tiếp nhận lối sống của đạo Phật" như được trình bày trong bản tường trình chính thức tại hội nghị.Tại hội nghị một cuộc vận động được xúc tiến: "Các thân hữu Phật tử thế giới đã chấp nhận năm 2494 sau Đức Phật Niết-bàn như là năm thành lập Phật lịch (nghĩa là năm 1950) và bản nghị quyết này được gởi đến tất cả đoàn thể, hiệp hội Phật giáo để tường tri và thực hiện."Dù sao, nó đã bị trì hoãn để xét duyệt lại. Hội đồng chuyên gia đã được thành lập sau hội nghị Hội Thân Hữu Phật Giáo thế Giới lần hai, khẳng định quyết định này để ủng hộ Phật lịch theo truyền thống Thượng Toạ Bộ và nó được chấp nhận trong nghị quyết tại đại hội lần ba năm 1954.

Mặcdù những nỗ lực này đạt đến những quyết định có thẩm quyền quan hệ đến Phật lịch, tuy nhiên vấn đề vẫn còn tồn đọng, gây tranh luận không những trong thế giới học giả mà còn trong thế giới Phật tử. Tôi xin trích dẫn một ví dụ từ những tác phẩm của tác giả Phật tử Tích Lan hiện nay, đó là ông G.H.de Zoysa. Ông cho rằng cái gọi là "Phật lịch chuẩn xác" phải là năm 384 TTL.Giả thuyết này được bàn thảo rộng rãi ở Tích Lan, ví dụ tờ tuần báo Chủ Nhật Si umiϼcủa Colombo, ra ngày 9 tháng 8 năm1987. Để biện hộ cho việc "chuẩn xác" phật lịch, de Zoysa đã đưa ra những điểm không nhất quán trong cách tính năm của các biên niên sử Tích Lan thời kỳ đầu. Sự trình bày chi tiết của P.Kiefer-Pulz về giả thuyết của de Zoysa đã được tìm thấy trong một chương liên hệ của tác phẩm này.

Tuy nhiên, trong các tác phẩm Sanskrit Phật giáo đầu tiên và những bản dịch của các tác phẩm này, chúng ta vô tình gặp phải một truyền thống biên niên sử khác khá xa với các dữ liệu của Thượng Toạ Bộ mà người viết đã bàn đến. Biên niên sử này cũng còn được gọi là "biên niên sử ngắn" (short chronology) cho rằng Đức Phật Niết-bàn trước lễ đăng quang của vua A? oka 100 năm. Trong khi các bản chánh tạng, ngụy tạng và hầu hết các tác phẩm trong tục tạng tính thời gian giữa Đức Phật Niết-bàn và lễ đăng quang của vua A? oka là 100 năm, thì trong luận thuyết phân phái Samayabhedoparacanacakra của Vasumitra (Thế Hữu) thuộc văn học Trung Quốc, chúng ta lại bắt gặp con số "116" với cách đọc khác là "160" và con số "160" trong luận phẩm Nikayabhedavibhaơ gavy khy nacủa Bhavya và một vài con số khác trong các tài?iệu sau này.

Tuy nhiên, "biên niên sử ngắn" lại không cung cấp cho chúng ta một hệ thống niên đại như cách của biên niên sử dài. Các truyền thống Ấn Độ có liên quan thường chỉ cung cấp một biên niên sử tương đối, nghĩa là khoảng thời gian giữa Đức Phật Niết-bàn với giai đoạn Đại Đế A? oka hoặc Đức Phật Niết-bàn với Đại Đế Kanika. Tuy thế, truyền thống chép sử ở Ấn Độ lúc bấy giờ không phải không bị gián đoạn. Vì vậy, Phật tử Ấn Độ thời trung cổ không có truyền thống nào đáng tin tưởng liên quan đến khoảng thời gian giữa Đại Đế A? oka hay Kanika với thời của họ, và do đó hầu như họ cũng không chấp nhận lối chuyển các thông tin này thành cách tính về khoảng cách thời gian giữa Đức Phật Niết-bàn đến thời của họ. Nếu như sử dụng biên niên sử Pur ϼa của những Bà-la-môn đương thời để tính thời đại Maurya, họ sẽ có biên niên sử sớm hơn. Tất nhiên, vấn đề này lafm gia tăng sự bất đồng của những người Đông Á, Tây Tạng, và các nước Trung Á khác để tính ngày Niết-bàn trong giới hạn hệ thống niên đại riêng của họ,?ởi vì phần lớn các truyền thống này đều dựa vào cách tính của các trường phái Phật giáo ở Ấn Độ. Về phương diện này, truyền thống Ấn Độ hoàn toàn khác với truyền thống của các vị Thượng Tọa Bộ mà ngay từ thời kỳ đầu đã đưa ra hệ thống biên niên sử nhất quán.

Học giả người Hà Lan, Hendrik Kern, (1896), là người đầu tiên đưa ra hai đoạn trong D? pavaị sa (1.24-27 và 5.55-59) giả định rằng trong một phần khác của biên niên sử ngắn bị biên niên sử dài thay thế. Tính không nhất quán này có thể được giải thích bằng cách cho D? pavaị sa không phải là một tác phẩm văn học có giá trị, mà chỉ là tuyển tập các bài kệ từ các tác phẩm trước đây như Wilhem Geiger, Erich Frauwallner, và các học giả khác đã trình bày. Dựa vào trọng điểm của những đoạn này, Hendrik Kern, và sau này E. J. Thomas, G. C. Mendis cũng như gần đây nhất P. H. L. Eggermont quan niệm rằng biên niên sử ngắn trình bày biên niên sử Phật giáo sớm nhất và nó đi trước tất cả biên niên sử Phật giáo khác. Tuy nhiên, các học giả khác thích đi theo hướng của Hermann Oldenberg hơn và giải thích lại các đoạn trong D? pavaị sa như là các đoạn tham khảo thiếu cứ liệu về mặt văn bản học so với biên niên sử dài.

Các học giả Nhật Bản lại bất đồng về vấn đề này hơn các học giả phương Tây. Hầu hết các học giả Nhật Bản có thẩm quyền hiện nay đều dựa vào sự khác biệt của cái gọi là biên niên sử ngắnấy để làm điểm khởi đầu cho việc tính toán niên đại của Đức Phật. Phương pháp họ sử dụng cho cách tính này, căn bản giống như phương pháp những người ủng hộ biên niên sử dài đã hiệu chỉnhđã sử dụng, nghĩa là thêm 100 năm hoặc thêm 116 năm vào ngày vua A? oka đăng quang như các sử gia đã viết, và do vậy ngày Đức Phật Niết-bàn phải là năm 368 hay 383 TTL. Trong một bài tham luận nhân dịp hội thảo chuyên đề về niên đại Đức Phật lịch sử (1988), Akira Hirakawa cho rằng vua A? oka sống khoảng 100 năm sau khi Đức Phật diệt độ vì cách tính niên đại này được tìm thấy hầu hết trong Tam Tạng và nó rất phù hợp với phương diện phát triển Tăng đoàn. Tuy nhiên, Hajime Nakamura đã nhấn mạnh trong bản tham luận của mình ở buổi hội thảo là năm Niết-bàn của Đức Phật phải được tính dựa vào ngày đã được tìm thấy trong bản dịch tiếng Trung Quốc về tác phẩm Samayabhedoparacanacakra của Vasumitra (Thế Hữu) đã được đề cập ở trên. Theo bản văn đó, số năm từ khi Đức Phật nhập diệt cho đến sự có mặt của vua A? oka là 116 năm. Giả thuyết này cho rằng Đức phật Niết-bàn năm 383 TTL và cũng được Nakamura giả định vào năm 1955. Tương tự các học giả Nhật Bản hiện nay đã đưa ra nhiều biên niên sử dựa trên cách đánh giá của mức độ biến thiên trong biên niên sử ngắn, đó là năm 390 hoặc là 384 TTL (Genmiyo Ono, 1905), năm 386 TTL (Hakuji Ui, 1924), và khoảng 400 TTL (Ry‰ sho Hikata, 1980).

Các học giả Nhật Bản thuộc trường phái khác chấp nhận biên niên sử được mệnh danh là "Chúng Thánh Điểm Ký" ở Quảng Đông (Canton). Đây là truyền thống có liên quan đến một bản văn viết tay rất cổ, trong đó mỗi năm được chấm vào một chấm sau năm Đức Phật Niết-bàn. Truyền thống này vẫn còn được tiếp diễn ở Quảng Đông đến năm 489 TL. Từ số các dấu chấm này người ta suy ra, năm Đức Phật Niết-bàn là 486 TTL hay nếu theo cách tính khác là vào năm 483 TTL. Niên đại này khá ăn khớp với biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Tuy nhiên, giá trị sử liệu và nguồn gốc biên niên sử vẫn còn đang gây rất nhiều tranh luận. Trường phái biện hộ cho biên niên sử này được trình bày trong sách chuyên đề do công đóng góp của G. Yamayaki, người theo truyền thống Nam Phương (xem phần IV của bài viết này). Với ngoại lệ duy nhất của biên niên sử dựa vào "Chúng Thánh Điểm Ký" này, các cách tính của các học giả Nhật Bản không dựa vào truyền thống Đông Á mà chỉ dựa vào nguồn gốc hiện đại. Chúng phát xuất từ sự đánh giá về những tác phẩm nguyên tác bằng ngôn ngữ Sanskrit Phật giáo hoặc các bản dịch Trung Hoa hay Tây Tạng, thường được đề cập đến bằng thuật từ mặc ước "Bắc tông" hay các truyền thống Phật giáo phương Bắc.

Về điểm này, cần phải nhắc đến tác phẩm được xem như là "thánh kinh" của các nghiên cứu Phật học hiện đại, đó là quyển "Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ" của Étienne Lamotte xuất bản năm 1958. Có lẽ rất hữu ích khi trích dẫn những đoạn đề cập đến biên niên sử ngắn và dài trong tác phẩm của Lamotte ở đây:

"Hai biên niên sử này được xác nhận trong tài liệu cổ: biên niên sử dài cho ngày Đức Phật Niết-bàn là 218 năm trước lễ đăng quang của A? oka (khoảng 486 TTL) và biên niên sử ngắn cho sự kiện này khoảng 100 năm trước A? oka lên ngôi (khoảng 386 TTL).

1. Như vậy, theo Biên niên sử dài được truyền thống Tích Lan công nhận, lễ đăng quang của A? oka thuộc vào năm 218 sau Đức Phật Niết-bàn (D? pavaị sa VI.1, tr.19-20; Mah vaị sa V.21; các ấn bản P li khác nhau của quyển Samantap s dik I, tr. 41, 1.25) và đại hội kết tập kinh điển tại P ỉ aliputra 18 năm sau, nghĩa là vào năm 236 sau Đức Phật Niết-bàn (D? pavaị sa VII. 37 và 44; Mah vaị saV. 280).

Tuy nhiên, cách tính này đòi hỏi cần thận trọng.

Trong Đảo sử, truyền thống này tính tới 13 vị vua suốt khoảng thời gian 278 năm từ lúc Bimbis ra lên ngôi (60 năm trước Đức Phật Niết-bàn) cho đến khi lễ đăng quang của vua A? oka (218 năm sau Đức Phật Niết-bàn)- một con số rất thông thường, nhưng điều đáng nói ở đây là chỉ có năm vị Tổ Sư Luật tạng- một con số quá nhỏ.

Trong phần 2, biên niên sử và các bản sớ giải của Tích Lan không trung thực tuyệt đối với cách tính của chúng. Như vậy, lễ đăng quang của vua A? oka vào năm 118 sau Đức Phật Niết-bàn theo ấn bản tiếng Trung Quốc của quyển Samantap s dik (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh 1462, tr. 679c 13) thay vì năm 218 sau Đức Phật Niết-bàn. Kỳ kiết tập kinh điển ở P ỉ aliputra thay vì là năm 236 sau Đức Phật Niết-bàn thỉnh thoảng lại cho 218 (trong D? pavaị sa I, tr 24-25, và V, tr. 55-59), thỉnh thoảng cho là 218 sau Đức Phật Niết-bàn (Atthas lin? , tr. 3, 1.26-27; tr. 4, 1.25-26).

2. Hầu hết tất cả các tác phẩm Sanskrit và Trung Hoa dựa vào biên niên sử ngắn cho rằng lễ đăng quang của vua A? oka sau Đức Phật Niết-bàn 100 năm. Tuy nhiên, theo cách tính này chỉ có 12 vị vua và 5 vị Tổ sư Luật Tạng từ thời vua Bimbis ra và A? oka. Có nhiều nguồn sử liệu cho rằng A? oka và vị quốc sư Upagupta sống khoảng 100 năm sau Đức Phật Niết-bàn…"

Cũng trong tác phẩm vừa nêu (tr.15), Lamotte đã phát biểu hết sức thận trọng trong một đoạn văn rằng "các sử gia hiện nay có thể chọn tuỳ ý biên niên sử dài hay biên niên sử ngắn," riêng ông, ông chỉ sử dụng biên niên sử dài như là "một giả thuyết có thể chấp nhận." May mắn thay, người viết đã có cơ hội thảo luận riêng vấn đề này với cố giáo sư Lamotte. Ông cho rằng việc sử dụng biên niên sử dài chỉ là "vấn đề thuận tiện"; và dưới ánh sáng những bằng chứng hiện có, "chúng ta nên đề ra niên đại của Đức Phật Niết-bàn một cách dứt khoát." Quan điểm này cũng được phản ánh trong những tác phẩm sau cùng của ông.

Khi đối diện với các giả thuyết khác nhau của các học giả được đào tạo trong các truyền thống phương Tây và Nhật Bản, tác giả cảm thấy cần phải đặt lại cái gọi là độ đáng tin cậy của biên niên sử Ấn Độ hay phương Tây. Trong tiến trình khảo cứu, người viết đi đến kết luận rằng những bằng chứng có giá trị về "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh" hoàn toàn không có sức thuyết phục.

Trong một bài tham luận tại Hội Thảo về Ấn Độ Học ở Stockholm năm 1980, tác giả cho rằng "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh" không nên được ủng hộ nữa. Bài viết này sau đó được xuất bản trong Indologica Taurinensia. Trong đó, người viết đã bày tỏ lòng biết ơn đến Giáo sư Eggermont đã khuyến khích xuất bản những khám phá của người viết nhân dịp Hội thảo Lần Thứ Hai của Hội Phật Học Quốc Tế ở Nalanda (The Second Conference of the International Asociation for Buddhist Studies in Nalanda), tháng 1 năm 1980, khi người viết đọc bản tóm tắt đó. Người viết cũng đã ghi nhận rằng "những khám phá của Eggermont cũng không mâu thuẫn với quan điểm đã trình bày trong bài viết này" (nghĩa là bài viết trong Indologica Taurinensia, 1982), "và các lập luận khác của giáo sư Eggermont trên căn bản cũng đã đi đến cùng một kết luận" trong bài viết của ông mang tựa đề "Những Ghi Chú Mới về A? oka và Những Vị Kế Thừa". (New Notes on A? oka and His Successor). Đức Phật và Mah v? ra là những người đồng thời, cho nên biên niên sử của Mah v? ra cũng phải được xét duyệt lại. Điều này cũng đã được đề cập taị hội thảo quốc tế ở Strasbourg năm1980. Trong tiến trình khảo sát xa hơn, một số quan điểm đã được trình bày trong những cố gắng ban đầu này được xem là đúng, và một tác phẩm nghiên cứu chi tiết hơn, "Cuộc Đời Đức Phật_ Niên Đại Thành Lập Sớm Nhất của Lịch Sử Ấn Độ"#273;ược xuất bản năm 1986. Trong bài viết này, người viết cho rằng các nguồn tài liệu hiện hành không thể mang lại việc phát họa lại chính xác cuộc đời Đức Phật, bởi vì chúng ta không có bằng chứng nào thuyết phục về những gì mà tài liệu biên niên sử đáng tin cậy được truyền thừa ở Ấn Độ trước cuộc xâm lăng của Đại Đế Alexander. Người viết tin tưởng rằng "biên niên sử ngắn" trình bày biên niên sử Phật giáo sớm nhất trong nguồn sử liệu chúng ta đã tìm ra. Tuy nhiên, điều này không ám chỉ nó trình bày cho tài liệu biên niên sử đáng tin cậy. Những nghi ngờ này cùng với tất cả những nỗ lực để đi đến xác định trong vòng mười năm hay vài mươi năm khi sự kiện Đức Phật Niết-bàn xảy ra, bao gồm những nỗ lực trước đây của riêng người viết. Tuy nhiên, điều này cũng không thể cấm đoán người viết phát biểu rằng, nếu dùng từ của Lamotte, "hãy đi đến kết luận niên đại của Đức Phật Niết-bàn một cách dứt khoát." Để hiểu rõ các quan điểm này, người đọc có thể xem bài nghiên cứu trong tác phẩm này.

Một bài giới thiệu trong một tuyển tập về biên niên của Đức Phật sẽ còn nhiều thiếu sót nếu không có tham khảo đến những bài khảo cứu khác nhau của học giả Ấn Độ về cách tính năm của Đức Phật và những người đồng thời với Ngài. Mặc dù đại đa số các học giả Ấn Độ hiện đại như đã gợi ý ở trên đều lấy nguồn thông tin biên niên sử từ các nguồn tài liệu Ấn Độ được các học giả phương Tây tin cậy như trong bài nghiên cứu của J. U. Hartmann trong tập sách này. Rất nhiều sử gia Ấn Độ dựa vào các nguồn tài liệu khác nhau, phần lớn là dựa vào truyền thống được ghi lại trong các bản kinh Pur ϼ/font> a. Các học giả này không chấp nhận giá trị của những luận điểm, theo đó, biên niên sử dài đã hiệu chỉnh và cách tính của người Nhật Bản và phương Tây hiện nay về niên đại của Đức Phật Niết-bàn đã dựa vào. Nghĩa là niên đại đồng thời giữa vua Chandragupta và A? oka với tài liệu biên niên sử ở Hy Lạp. Người viết xin trích dẫn một ví dụ ở đây trong Lịch Sử Văn Học Sanskit Cổ Điển của M. Krishnamachariar (1937) mà ngày nay vẫn còn được sử dụng như một tác phẩm tham khảo rất phổ biến trong làng văn học Sanskrit. Trong một bài luận về biên niên sử dài, tạo nên một phần giới thiệu cho cuốn sách này, ông đã bàn chi tiết về các nghiên cứu của các học giả phương Tây từ thời điểm nghiên cứu của William Jones, nhưng kết quả hoàn toàn khác nhau. Krishnamachariar phê bình gay gắt những gì ông gọi là "sai lầm về niên đại đồng thời giữa Sandracottus của người Hy Lạp và vua Chandragupta Maurya" và ông đưa ra một niên đại đồ?g thời khác. Biên niên sử của riêng ông dựa vào các đoạn trong văn học Pur ϼ/font> a. Theo ý của ông văn học Pur ϼ/font> a "tính thẩm quyền của nó thật là chắc chắn." Các đoạn văn này cho rằng "triều đại Maurya kéo dài khoảng 316 năm, từ 1535 – 1219 TTL." Do đó, ngày Đức Phật Niết-bàn phải được tính sớm hơn.

Những dòng tư tưởng tương tự như vậy được nhiều học giả Ấn Độ khác dựa theo, ví dụ, gần đây (khoảng 1984) V. G. Ramachandran sử dụng cách tính thiên văn học như là luận điểm chính của ông đã tuyên bố rằng năm Đức Phật đản sinh là 1887 TTL và năm Đức Phật Niết-bàn là 1807 TTL. Năm 1987, Shriram Sathe đã xuất bản tập "Hội thảo chuyên đề" Niên Đại Đức Phật mà người viết muốn giới thiệu ở đây để cung cấp thêm thông tin về nhiều niên đại khác nhau mà các học giả Ấn Độ đã đề nghị. Một loại kết hợp khác giữa niềm tin truyền thống và nghiên cứu học đường được các học giả nỗ lực trình bày để tính niên đại của Đức Phật, bằng cách đối chiếu niên đại đồng thời của lịch sử Ấn Độ và Trung Quốc thời kỳ đầu. Các loại lịch sử này được trình bày trong bài phát biểu của Chen Yen-huei.

II. ĐIỂM LẠI LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Đối tượng chủ yếu trong bài hội thảo chuyên đề của Guttingen (1988) về niên đại của Đức Phật lịch sử và tuyển tập này là nỗ lực khảo duyệt và hiệu đính nghiêm túc toàn diện những học thuyết về niên đại của Đức Phật trong điều kiện cho phép. Chính các dữ kiện ban đầu được các sử gia cung cấp không thể dẫn đến sự nhất trí như là câu trả lời cuối cùng cho vấn đề này. Sự thống nhất ý kiến rất khó có thể đạt được trong một cuộc hội thảo chuyên đề với sự đóng góp của các học giả thuộc nhiều truyền thống nghiên cứu và nhiều cách tiếp cận có phương pháp khác nhau. Ngược lại, thật là ngạc nhiên, ít nhất chúng ta đã đạt đến quan điểm chung một phần nào liên quan đến các phương diện chủ yếu của vấn đề này. Trong tập này, trong một góc độ nào đó chúng ta trình bày vấn đề niên đại Đức Phật khá tổng quát, nếu không muốn nói là cung cấp tài liệu nghiên cứu toàn diện về niên đại của đức Phật lịch sử các cách trả lời khả dĩ về vấn đề này. Nhờ vậy, giới độc giả có thể có được những thông tin cần thiết để rút ra các quan điểm cho riêng mình về những vấn đề đang còn tranh luận này.

Như vậy chúng ta đã đánh dấu điểm nổi bật trong tiến trình hội thảo về lịch sử nghiên cứu đề tài. Phần lớn các luận điểm được trích dẫn để ủng hộ các biên niên sử Đức Phật đã được các học giả đề cập trong suốt 150 năm qua, và như vậy chúng đã trùng hợp với các tác phẩm trước đây về cùng đề tài. Một số sự kiện lịch sử đã được trưng dẫn ở trên trong phần đầu của lời giới thiệu này. Trong tuyển tập này người đọc sẽ thấy bản tường thuật chi tiết của Siglinde Dietz về lịch sử nghiên cứu phương Tây cho đến 1980 (xem cùng tác phẩm, tr. 39-105). Bản nghiên cứu đánh dấu giai đoạn sớm nhất của các ấn bản châu Âu về đề tài, bắt đầu từ việc tính niên đại Đức Phật đản sinh vào năm 1026 TTL, trong tác phẩm về Khổng Tử của tác giả Phillippe Couplet (1687), người Bỉ. Thời gian Đức Phật trụ thế là 79 năm, một con số được xem là có giá trị cho đến ngày nay.

Một giai đoạn nghiên cứu mới bắt đầu bằng cách tính dựa theo biên niên sử dài đã hiệu chỉnh của George Turnour năm 1837. Suốt TK XIX và XX, nhiều học giả phương Tây, một mặt đã đề xuất các niên đại khác nhau bao gồm biên niên sử không bị hiệu chỉnh của Thượng Toạ Bộ, và sau này Albrecht Weber, Niels Ludwig Westergaard và các học giả khác thừa nhận. S. Dietz đã trình bày những nỗ lực khác nhau về cách tính niên đại của Đức Phật trong bài khảo cứu của ông, do đó các độc giả xem tuyển tập này sẽ được cung cấp đầy đủ các thông tin về lịch sử nghiên cứu của phương Tây về lãnh vực này.

Lịch sử nghiên cứu về niên đại Đức Phật ở Ấn Độ và Tích Lan bằng ngôn ngữ phương Tây được Jens-Uwe Hartmann đề cập đến. Những nhà nghiên cứu ở Nam Á và các học giả phương Tây nghiên cứu lãnh vực này dĩ nhiên trao đổi ý kiến qua lại. Bài khảo cứu này được bổ sung bằng các tài liệu: (i) công trình nghiên cứu của Gustav Roth về các ấn phẩm cùng chủ đề bằng tiếng Hindi, (ii) ghi chú về Phật lịch trong M l laơ karavatthu của Heinz Braun, và (iii) một bài tóm lược các nghiên cứu của người Nhật Bản về cùng chủ đề của Hajime Nakamura. Thông tin nghiên cứu ở Trung Hoa chỉ được tìm thấy trong các bài đóng góp của Herbert Franke trong phần 5 của tập này và trong các bài "Cách Tính Niên Đại của Đức Phật theo Phật Giáo Trung Hoa"của Lewis Lancaster, trong bài "Nghiên cứu của người Trung Hoa về Niên Đại Đức Phật"của Chen Yen-huei. Một số nỗ lực gần đây nhất trong việc nghiên cứu về niên đại Đức Phật lịch sử cũng được thảo luận trong bài giới thiệu mang tính khảo cứu này.

III. BẰNG CHỨNG ĐƯỢC RÚT RA TỪ BỐI CẢNH LỊCH SỬ VĂN HOÁ ẤN ĐỘ

Vấn đề niên đại của Đức Phật không thể xác định một cách đúng đắn nếu không có khảo cứu về bối cảnh lịch sử văn hoá Ấn Độ trong đó Đức Phật thuyết giảng giáo pháp. Hiểu biết và giải thích dựa theo bối cảnh Ấn Độ cung cấp cho chúng ta nhiều bằng chứng gián tiếp cần thiết. Bằng chứng này có thể xem như thước đo về các tài liệu biên niên sử từ các nguồn khác. Chính nhờ các nguồn tài liệu này có thể giúp chúng ta ấn định niên đại tương đối đáng tin cậy của Đức Phật. Các bằng chứng gián tiếp như vậy có thể được rút ra từ nguồn thông tin lịch sử Phật giáo thời kỳ đầu. Và trong bối cảnh lịch sử đó, đặc biệt (1) tình trạng chính trị và xã hội ở phía Bắc Ấn Độ trong thời Đức Phật, (2) bằng chứng nhờ khám phá của khảo cổ học về giai đoạn này, (3) người đương thời Đức Phật là Mah v? ra, (4) sự kế tục của các Tổ Sư Luật Tạng của Phật giáo và Kỳ-na, (5) biên niên sử của quá trình phát triển giáo lý và triết học thời kỳ đầu, (6) quá trình phát triển của ngôn ngữ, phương tiện diễn đạt, văn học và vần điệu thi kệ trong truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ, (7) dữ liệu từ các nguồn phi Phật giáo trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, (8) mối bang giao văn hoá giữa Ấn Độ và phương Tây thời cổ, và (9) việc nghiên cứu các yếu tố thần thoại trong các truyền thống biên niên sử.

Việc đánh giá các dữ kiện gián tiếp này được trình bày trong các bài viết trong tập này: "Nghiên Cứu Khảo Cổ về Di Tích Phật Giáo Cổ Đại" của Herbert Hartel; "Vài Khảo Sát về Ý Nghĩa của Niên Đại Đức Phật trong Lịch Sử Bắc Ấn" của Hermann Kulke, "Bối Cảnh Lịch Sử về Quá Trình Phát Triển Phật Giáo và Cách Tính Niên Đại"của Georg von Simson; "Niên Đại Đồng Thời của Đức Phật và Jina Mah v? ra và Vấn Đề Biên Niên Sử của Kỳ-na Giáo Nguyên Thuỷ"của Adelheid Mette; "Khảo Sát Ngôn Ngữ Học về Niên Đại Đức Phật" của Oskar von Hinuber; "Các Tham Khảo của Ấn Độ Cổ Đại về Hy Lạp và Các Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên giữa Phật Giáo và Phương Tây" của Wilhem Halbfass; "Một Số Y?iến về Vấn Đề Niên Đại Đức Phật Niết-bàn" của André Bareau, và "Gia Phả Pur ϼa và Niên Đại của Đức Phật" của Heinrich von Stietencron. Có nhiều kết luận khác nhau về vấn đề niên đại đồng thời của Đức Phật và Mah v? ra, điển hình là bài viết của bà Adelheid Mette trong tập này và bài viết "Năm Qua Đời của Mah v? ra" của P. H. L. Eggermont trong phần đầu của tập Symp IV, 1.

Lambert Schmithausen đã "Nỗ Lực Đánh Giá Khoảng Thời Gian giữa A? oka và Đức Phật dưới Dạng Lịch Sử Học Thuyết" Một vài phương diện liên hệ khác cũng được Sigfried Lienhard giới thiệu trong bài "Ghi Chú Ngắn về Niên Đại Đức Phật Lịch Sử và Thơ Ca Cổ Điển và "Gia Phổ của Đức Phật và Tổ Tiên của Ngài" của Ryutaro Tsuchida.

Đóng góp của ông đối với tập này (cùng tác phẩm, tr. 195-209), Wilhelm Halbfass không chỉ làm rõ tầm quan trọng của các mối quan hệ giữa người Hy Lạp và người Ấn Độ trong thời kỳ đầu để giúp chúng ta hiểu về biên niên sử nhưng cũng đề cập đến giả thuyết mới của ông Daniel Schlumberger, cho rằng giáo pháp Đức Phật đã chịu ảnh hưởng của triết gia Hy Lạp Epicurus. Halbfass nói rằng lý thuyết này "không những vô bổ mà còn không thể đứng vững được." Có thể nói một cách không ngần ngại là giả thuyết gần đây của Paolo Daffin dựa trên học thuyết của Schlumberger (xem thêm phần nhận xét của người viết tr. 277-280, cùng tác phẩm).

Người viết không dự định tóm tắt ở đây những luận điểm khá phức tạp của những bài đóng góp này, nhưng người viết cảm thấy gần như tất cả các bài viết đều đi đến kết luận, cho rằng có những lý do chính đáng để xác định niên đại của Đức Phật trễ hơn năm được ghi nhận trong biên niên truyền thống. Herbert Hartel tóm tắt những khám phá của ông: "từ quan điểm này …, rồi đến niên đại của Đức Phật trong TK thứ V- IV TTL là rất có thể" (cùng tác phẩm, tr. 159). Trong phần nghiên cứu uyên bác về khoảng cách tương đối giữa vua A? oka và Đức Phật dưới dạng lịch sử giáo lý, Lambert Schmithausen đã cẩn thận phát biểu "việc khảo sát của ông có lẽ không được chắc chắn, ngoại trừ niên đại đầu tiên của Đức Phật, nhưng dường như nó đưa ra một niên đại sau này có khả năng hơn." Georg von Simson tóm tắt rằng, mối lưu tâm của ông "việc đánh giá sau này có khả năng hơn nhiều việc đánh giá trước" (cùng tác phẩm, tr. 137). Bài đánh giá về "Các Tham Khảo của Ấn Độ Cổ Đại về Hy Lạp và Các Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên giữa Phật Giáo và Phương Tây" của Wilhem Halbfass cũng đi đến kết luận tương tự: "ít nhất nó hầu như dễ dàng phù hợp với giả định cho rằng Phật giáo chưa thể có mặt hai TK trước thời Megasthenes; Phật giáo cũng chưa xây dựng được các trung tâm tu viện, Phật giáo còn khá trẻ và chưa có bộ mặt đầy đủ khi Magesthenes viếng thăm kinh đô P ỉ aliputra khoảng năm 300 TTL." (cùng tác phẩm, tr.205). S. Lienhard dựa vào một bài nghiên cứu thi kệ Phật giáo Nguyên thủy đã kết luận rằng biên niên sử dài đã hiệu chỉnh "dường như nằm quá xa mốc thời gian". Tóm lại, kết luận rút ra dường như không thể tránh khỏi là các nguồn sử liệu chính yếu về bằng chứng gián tiếp đối với niên đại của Đức Phật có sức thuyết phục hơn tài liệu đã được biên niên sử dài đã hiệu chỉnh đề cập.

Nhờ khảo sát về gia phổ trong văn học Pur ϼ/font> a, Heinrich von Stietencron (cùng tác phẩm, tr. 221-249) đã đi đến một kết luận khác. Ông khẳng định rằng "biên niên sử Pur ϼ/font> a đã hiện diện trước các sứ thần của A? oka truyền bá Phật giáo vào Tích Lan," bởi vì chính Megasthenes, vị sứ thần đi qua vương triều Chandragupta Maurya, trong suốt thời thời thịnh trị của Chandra Gupta, rất có thể tác phẩm Bhaviya Pur ϼa đã được biên tập (cùng tác phẩm, tr. 221). Tuy nhiên, "tài liệu Pur ϼa tự nó không có giá trị về mặt niên đại chính xác." Như vậy von Stietencron đã biện hộ rằng những năm tính theo vương triều đó có lẽ đúng với các vị vua kế tục sau triều đại Maurya, như các triều đại Nanda và về sau là Ư i? un ga, nhưng các tác phẩm này bị tiểu thuyết hoá hầu hết trong giai đoạn trước đó." Stietencron còn suy luận có hai cách có thể tính các niên đại của các vị vua cai trị vào thời Đức Phật. Niên đại của Đức Phật nhập diệt được rút ra từ phần vaị ?  nukarita của các tác phẩm Pur ϼ a hoặc là 520 / 519 TTL với các biến số khác nhau 547 / 546 và 511 / 510 TTL (con số này không khác nhau mấy so với biên niên sử dài không bị hiệu chỉnh hoặc là 487 / 486 TTL (biến số này phù hợp với Biên niên sử dài đã hiệu chỉnh và Chúng Thánh Điểm Ký). Trong một bài nghiên cứu của H. V. Stietencron, ông đã thừa nhận: "chúng ta không thể dựa vào một biên niên sử tuyệt đối nào về các biến số mà Pur ϼ/font> a đã ấn định, vì vậy niên đại của Đức Phật xuất phát từ những biến số này không nhất thiết phải được tin theo." Tuy nhiên, ông lý luận rằng niên đại Đức Phật không thể "bị dời xa đến một mức độ như vậy mà nó có thể phù hợp với 100 năm trước thời A? oka," bởi vì các người đương thời của Đức Phật cách xa vương triều của Candragupta Maurya đến "7 hoặc 8 các vị vua kế nghiệp" (cùng tác phẩm, tr. 249).

Gananth Obeyesekere đã đóng góp một bài nghiên cứu vô cùng quan trọng về phương pháp luận "Huyền Thoại, Lịch Sử và Số Học trong Biên Niên Sử Phật Giáo". Trong bài đóng góp đó, ông chỉ ra rằng con số "18" trong một vài trường hợp cá biệt nào đó, con số "9" và một số con số đặc biệt khác được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các biên niên sử Tích Lan. Ý nghĩa đặc biệt về số "18" hầu như trong tất cả các trường phái truyền thống thuộc văn học, tôn giáo, triết học và khoa học, kể cả việc chép sử Phật giáo ở Tích Lan đã được Otto Stein và các học giả khác giải thích. Các khám phá về bản chất huyền thoại và biểu trưng của nhiều thông tin biên niên sử Tích Lan này có tác động mạnh mẽ đến các phán đoán liên quan đến tính khả tín của các truyền thống biên niên sử trong giai đoạn đầu, bất cứ khi nào chúng ta gặp phải những con số tượng trưng như vậy. Các số như vậy có rất nhiều trong các nguồn tài liệu Phật Giáo cổ bao gồm cả biên niên sử Đức Phật truyền thống và các con số này cần được khảo sát lại bằng cách tiếp cận này.

Suốt cuộc hội thảo cũng có rất nhiều con số tượng trưng được vạch ra. Các con số này không phải dễ dàng được nhận diện bởi vì chúng không phải là con số chuẩn xác cũng không phải con số tượng trưng, do đó chúng có thể bị hiểu sai lạc như là các dữ liệu truyền thống đáng tin cậy đã được trình bày. Các loại biên niên sử với các loại số như vậy được xây dựng vì những lý do khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và bối cảnh của việc chép sử lúc bấy giờ. Có rất nhiều trường hợp trong truyền thống Ấn Độ, La Mã và sử ký ở Đức thời cổ có thể được xem như là nền tảng để chúng ta so sánh. Tôi xin đề cập đến bài nghiên cứu của Carl J. Classen, đã gởi cho hội thảo và được xuất bản trong Symp IV, 2.

Vẫn còn nhiều bằng chứng gián tiếp khác về niên đại của Đức Phật, đó là cách đánh giá lại các truyền thống liên quan đến lịch sử Tăng-già thời nguyên thuỷ, đặc biệt về việc truyền thừa của các vị Tổ Luật Tạng. Điều này đã được khảo sát bằng rất nhiều phương pháp khác nhau và rút ra nhiều kết luận dị biệt trong một vài đoạn của các bài tham luận đánh giá lại truyền thống Ấn Độ. Đặc biệt hơn, vấn đề vẫn còn tranh luận là danh biểu của các vị Tổ Luật Tạng này và niên đại được trình bày trong các tài liệu lịch sử đó được xem là đáng tin cậy hay không trong khi niên đại được gán cho các Ngài còn rất mơ hồ?

Về điểm này, người viết muốn giới thiệu bài đóng góp của André Bareau "Một Số Ý Kiến về Vấn Đề Niên Đại Đức Phật Niết-Bàn" liên quan đến bằng chứng gián tiếp này. Trong khi Bareau lý luận trong bài đã đề cập ở trên (1953) rằng tài liệu biên niên sử về Luật Tạng liên quan đến kỳ kiết tập kinh điển tại Vai?  l? trong biên niên sử ngắn là không có căn cứ và xem như biện minh chính cho độ tin cậy của biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Trong bài của ông gởi cho hội thảo chuyên đề ông cho rằng "chúng ta có thể giả sử kỳ kiết tập này xảy ra chưa tới 100 năm nhưng có thể hơn 50 năm sau Đức Phật Niết-bàn." Cách khảo cứu niên đại Đức Phật Niết-bàn xuất phát từ những cứ liệu gián tiếp đã được tìm thấy trong hai bia ký của A? oka. Các tài liệu này "chứng minh rằng khoảng năm 250 TTL tín ngưỡng và huyền thoại học Phật giáo đã phát triển đến đỉnh cao." Giai đoạn khoảng 380 TTL nên được xem như thời gian có thể xảy ra sự kiện Đức Phật Niết-bàn. Biên niên sử dài (543 hoặc 480 TTL) không thể đứng vững với những cứ liệu khảo cổ này (cùng tác phẩm, tr. 218-219). Phương pháp đã được A. Bareau vận dụng liệt vào loại thứ (5) của các loại cứ liệu gián tiếp đã được trích dẫn ở trên.

Niên đại sớm nhất đã được đề cập trong các tài liệu của chúng tôi xuất phát từ giai đoạn truyền thống thuần truyền khẩu. Vì vậy rất bổ ích khi chúng ta đề cập ở đây một bài nghiên cứu mới, chi tiết về thông tin biên niên sử được truyền thừa dưới dạng truyền khẩu, đó là bài của ông David P. Hennige, Biên Niên Sử Theo Truyền Thống Truyền Khẩu: Tìm Kiếm Điều Hảo Huyền. Hennige cho rằng các sử gia và các nhà dân tộc học đã nhất trí truyền thống truyền khẩu là đặc tính của "những người thiếu khả năng để thành lập và duy trì mức độ chính xác của thời quá khứ mà họ cố gắng thuật lại" (sđd, tr.2), do đó chúng ta không thể suy ra niên đại đáng tin cậy nào từ các truyền thống này. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên bỏ qua các thông tin của truyền thống này và hãy xem nó như "động lực" và phân tích giá trị lịch sử trong mỗi trường hợp cá biệt. Mặc dù Hennige chủ yếu biện minh nền tảng của việc nghiên cứu theo truyền thống Châu Phi, ông cũng bàn đến các trường hợp xuất phát từ lịch sử văn hoá Châu Âu và Châu Á. Trong bất cứ trường hợp nào những khám phá mới của ông nên được chú ý cho sự đánh giá về truyền thống biên niên sử về niên đại của Đức Phật.

IV. CÁC ĐÁNH GIÁ KHÁC NHAU VỀ CỨ LIỆU

Những quan điểm cá biệt về niên đại của Đức Phật đã được phát biểu dựa trên một trong những bài đánh giá thuộc truyền thống Ấn Độ trong tám bài đóng góp đã được đưa vào trong hai tập hội thảo chuyên đề và trong một số ấn bản gần đây.

P. H. L. Eggermont, người có công xuất bản một loạt sách nghiên cứu về biên niên sử quan trọng, khảo cứu lại các bài viết cùng chủ đề về thời đại A? oka và căn cứ trên các biên niên sử có khả quan đã đi đến một kết luận bất ngờ đó là A? oka không ai khác hơn chính là Aj ta? atru, như thế niên đại Đức Phật Niết-bàn chuyển dịch đến thời vua A? oka, nghĩa là năm 261 TTL. Giả thuyết này được ghi lại trong bài "Năm Đức Phật Niết-bàn." Cứ liệu này tiêu biểu cho niên đại Đức Phật Niết-bàn gần đây nhất.

Trong bài "Đánh Giá Nguồn Sử Liệu Niên Đại của Đức Phật" của Akira Hirakawa đưa ra kết luận "những Phật tử ở Ấn Độ phán đoán tự tin rằng quan điểm niên đại Đức Phật Niết-bàn xảy ra trước 100 năm của vua A? oka là nổi bật nhất" và "cách tính niên đại này cũng phù hợp với phương diện phát triển Tăng đoàn." Vì vậy, nó là quan điểm "có sức thuyết phục nhất". Các cuộc tranh luận về lịch sử của Tăng đoàn Nguyên Thuỷ trong bài viết có tính nghiên cứu này phản ánh cách đánh giá của tác giả về lịch sử kiết tập và các trường phái Phật giáo Nguyên Thuỷ. Cách giải thích của các nguồn sử liệu khác nhau đề cập đến sự kiện này, một số không có liên hệ trực tiếp đến vấn đề chúng ta, đã chạm phải đến một vấn đề gây rất nhiều tranh cãi mà chúng đã được đề cập trong rất nhiều các ấn bản về Phật-đà học (Buddhology). Tuy nhiên, những quan điểm đối lập của các nhà nghiên cứu Phật học ở phương Tây đã không được nhắc đến trong bài của Hirakawa. Trong số những vấn đề khác bài này bao gồm nhận định đánh giá của các nguồn sử liệu trước đây về niên đại Đức Phật Niết-bàn, bao gồm "Chúng Thánh Điểm Ký," mối liên hệ của những người hành hương Trung Quốc đến Ấn Độ và các nguồn sử liệu khác. Hirakawa đã trình bày hết sức thuyết phục rằng sự phát triển của Tăng đoàn xảy ra khoảng Đức Phật Niết-bàn và A? oka lên ngôi có thể xảy ra trong vòng một TK mà thôi.

Niên đại Đức Phật Niết-bàn sớm hơn đã được trình bày trong "Sơ Khảo Vấn Đề Niên Đại Đức Phật" của Hajime Nakamura. Niên đại này được thành lập dựa trên cứ liệu truyền thừa trong văn bản Samayabhedoparacanacakra (Samayabhedaprakaraϼ/font> a)của Vasumitra bằng tiếng Trung Quốc (có lẽ TK II TL). Nakamura khẳng quyết rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn nên được tính dựa vào tác phẩm này mặc dù nó chỉ là một tác phẩm cung cấp thông tin. Theo tác phẩm trên "số năm trôi qua giữa năm Đức Phật thị tịch và đăng quang của vua A? oka là 116 năm" Với cách tính này, năm Đức Phật Niết-bàn là năm 383 TTL đã được Nakamura trình bày vào năm 1955.Điều này cũng đã được đề cập trong phần I ở trên.

K. R. Norman nghiên cứu lại các phương diện chính của vấn đề này trong bài "Khảo Sát Niên Đại của Jina và Đức Phật." Ông khẳng định "cả Mah v? ra và Đức Phật Gautama diệt độ trong khoảng 10 năm trước hoặc sau năm 400 TTL." (Symp IV, 1, p. 312). Trong một bài viết cho hội thảo (Symp VI,1, tr. 315-325), Gen’ichi yamzaki đã biện hộ tán đồng quan điểm của biên niên sử dài đã hiệu chỉnh tương ứng với truyền thống "Chúng Thánh Điểm Ký" cho năm Đức Phật Niết-bàn là 486 TTL. Trong bài viết của mình, ông đã sắp xếp lại lịch đại Tổ Sư Luật Tạng, điểm chung này đóng một vai trò vô cùng then chốt. Yamazaki đã làm sống lại cách giải thích của Oldenberg về những đoạn trích dẫn của Đảo Sử 1.24-27 và 5.55-59 ở trên và do đó không chấp nhận sự hiện hữu của mốc điểm thời gian trong biên niên sử ngắn trong bài này. Gen’ichi Yamazaki chấp nhận rằng "Chắc chắn "Chúng Thánh Điểm Ký" đã dựa vào truyền thuyết Nam Phương Thượng Toạ Bộ. Ông lập luận rằng niên đại biên niên sử dài có mặt sớm hơn nhiều so với "Chúng Thánh Điểm Ký." Thật là thiếu xót, Yamazaki không để ý đến cách tính nhầm biên niên sử của Thượng Toạ Bộ. Tuy nhiên, nhờ nhận xét này mà các Phật tử Nam Phương Thượng Toạ Bộ đã chuyển đổi số năm trong biên niên sử gần như chính xác từ lúc vua A? oka cho đến hậu bán TK thứ năm", chúng ta có thể suy ra rằng, trên căn bản ông chấp nhận giả thuyết của Wickremasinghe dưới một văn bản đã hiệu đính được Wilhelm Geiger sử dụng, mặc dù được bổ sung chút ít trong những gì ông khẳng định là biên niên sử sớm hơn được sử dụng cho đến TK thứ V- giai đoạn "Chúng Thánh Điểm Ký" được giới thiệu. Tuy nhiên, Senerat Paranavitana đã phủ bác toàn bộ giả thuyết của Geiger đã có mặt 1960 bằng cách cho rằng kỷ nguyên của Therav da bắt đầu từ năm 544 TTL đã được sử dụng vào cuối TK IV. Vì vậy các vị Nam Phương Phật giáo không thể đã chuyển đổi Phật lịch 486 vào cuối TK V. Dẫu sao, Yamazaki đã không ghi nhận về các nghiên cứu liên hệ gần đây. Yamazaki nhấn mạnh rằng ông tin tưởng niên đại "218 năm trước lễ đăng quang của A? oka" là lâu hơn hay sớm hơn "danh sách các Tổ Sư ngụy tạo."

Trong bài viết của mình ở trang 253-286, tôi đã lập lại các luận điểm mà tôi đã trình bày trong bài nghiên cứu xuất bản năm 1986. Tôi cho rằng việc ra sức tìm niên đại Đức Phật Niết-bàn trong một hay vài thập niên chỉ hoài công vì hết thảy những cố gắng như thế đều dựa trên phán đoán. Thật là rõ ràng rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn trễ hơn nhiều so với biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Đặc biệt người viết tin chắc rằng các biện chứng của Herbert Hartel, Hermann Kulke, và Georg von Simson không còn thừa nhận quan niệm về các niên đại Đức Phật Niết-bàn sớm như vậy nữa.

Trong bài viết của ông "Niên Đại Đức Phật: Vấn Đề Lạc Dẫn Đã Được Sáng Tỏ", Richard Gombrich cũng nhất trí niên đại chuẩn xác của Đức Phật Niết-bàn có thể căn cứ trên Đảo sử. Ông quả quyết tài liệu biên niên sử được rút từ các đoạn văn ghi lại việc truyền thừa của các vị Tổ từ Up li đến Tissa Moggaliputta và Mahinda là có thể tin cậy được, nhưng mãi đến bây giờ tài liệu này vẫn còn bị ngộ nhận. Căn cứ vào dữ liệu này, Gombrich tính niên đại Đức Phật Niết-bàn có thể vào khoảng giữa năm 411 TTL và năm 399 TTL, và có khả năng nhất là năm 404 TTL. Hơn thế nữa, ông còn tán thành với cách tính truyền thống cho thời gian 218 năm giữa Đức Phật Niết-bàn và lễ lên ngôi của vua A? oka chỉ là dựa trên giả định sai lầm cổ xưa, nghĩa là tuổi hạ của các vị Tăng được tính kể từ lúc thọ đại giới (Symp IV, 2, tr.257). Thật tình cờ, cách tính của Gombrich đã rơi vào khoảng con số niên đại trong biên niên sử dài đã hiệu chỉnh vốn được các nhà phê bình, nghiên cứu gần đây nhiệt tình ủng hộ.

Trong một vài cuộc hội thảo tổ chức trước đây bàn về niên đại của Đức Phật, một cách tính niên đại xuất phát từ thiên anh hùng ca Maϼ/font> imèkalai của người Tamil (thế kỷ VI TL) đưa ra " một dạng thức rất mơ hồ về niên đại Đức Phật." Những đoạn này cũng được Ryth Walldén nhắc đến trong bài "Một vài Ghi Chú về Niên Đại Đức Phật trong Maϼ/font> imèkalai." Những đoạn trích dẫn như vậy khó có thể được xem như là nguồn sử chính thức lại được khẳng định trong bài viết mang tính nghiên cứu này.

K. Narain cũng có viết một bài tham luận đóng góp hội thảo được đề cập đến trong tập 2. Ông bảo vệ năm 483 TTL được ghi nhận trong biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Các luận điểm của ông được căn cứ trên cái gọi là "bằng chứng bia ký," đó là dựa theo con số 256 trên chỉ dụ nhỏ đầu tiên của A? oka. Lần đầu tiên Georg Buhler đưa ra giả thiết về niên đại Đức Phật Niết-bàn này vào năm 1894 /1995, nhưng đến bây giờ con số này vẫn còn đang tranh luận.

Về điểm này thiết tưởng cũng nên được đề cập, là vài tác phẩm cùng chủ đề gần đây vừa xuất bản không có mặt vào thời điểm hội thảo và do đó không được tham khảo. Đó là các tác phẩm của K. T. S. Sarao, cho rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn vào khoảng 397 TTL. Sarao đưa ra một cách giải thích mới dựa vào hai đoạn trong D? pavaị sa (4.27-46 và 5.69-107), những đoạn sử này cũng là nền tảng cho biện minh của Gombrich đã được nói ở trên. Số liệu ghi trong Đảo Sử I5.96 (D? pavaị sa) thường được biết như là số năm của năm vị Trưởng Lão trì giới theo như cách giải thích của K. T. S. Sarao "là tuổi hạ của các vị Cao Tăng trở thành những vị Trưởng Lão truyền giới pháp," bởi vì "không thể có sự kiện một vị trưởng lão nào có thể giữ giếng mối giới luật trong một thời gian quá dài [như đã được ghi trong Đảo Sử 5. 96], nhưng tự thân bài kệ này nó không có ý nghĩa nhiều như những gì người ta phân tích nó." Cách lý luận của K. T. S. Sarao là giả định một truyền thống có tài liệu biên niên sử chính xác từ thời đại Đức Phật trở về trước, một giả định rất đáng ngờ nhưng không được giải thích rõ về nguyên nhân sai lầm trong cách luận giải của tài liệu biên niên sử này.

Năm 1989, Kailask Chandra Varma đã xuất bản bài viết về niên đại Đức Phật Niết-bàn. Ông đoan chắc rằng "quan điểm giả định niên đại 490-80 TTL là thiển cận và ủng hộ nhiệt tình niên đại 544 TTL như là năm nhập diệt của đức Phật." Varma còn luận thêm "chân thành mà nói là các học giả đầy đủ khả năng chưa từng bị mù quáng trước các giả thiết của các học giả phương Tây cũng như một số người Ấn thiếu hiểu biết nên khảo duyệt lại toàn bộ vấn đề biên niên sử Ấn Độ cổ đại." Thiết nghĩ, tôi không cần bàn tới sự đính chính về các luận điểm quá lỗi thời trên; tốt hơn là ghi nhận sự kiện có lợi rằng "biên niên sử dài chưa hiệu chỉnh" vẫn tiếp tục được một số học giả Ấn Độ bảo vệ. Nhiều bài nghiên cứu gần đây mang dấp dáng tương tự được nhắc đến trong bài viết của J. U. Hartmann.

Cùng năm 1989, K. D. Sethna đã xuất bản công trình nghiên cứu rất dài của ông về biên niên sử Ấn Độ thời kỳ đầu trong đó có phần trình bày về niên đại Đức Phật. Luận chứng của ông phần lớn dựa trên văn học Pur ϼ/font> a và các nghiên cứu cũng như các nguồn tài liệu liên hệ. Trong "bảng biên niên sử mới" này, ông xác định niên đại Đức Phật Niết-bàn vào năm 1168 TTL, 218 năm trước lễ lên ngôi của vua A? oka Maurya năm 950 TTL. Mặc dù độc giả có thể xem quan điểm này như là chuyện lạ, người viết nêu lên ở đây chỉ cốt để trình bày toàn cảnh của vấn đề bàn thảo về niên đại của Đức Phật ngày nay.

Sau hết, tưởng cũng nên đề cập đến quyển sách nhỏ của Sonam Morup. Đây là cuốn sách tập hợp các luận điểm bảo vệ biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Các sự kiện chính về niên đại chính xác trong các luận cứ này dựa vào các kết quả tính toán thiên văn học. Sonam Morup xác định Đức Phật Niết-bàn vào ngày 11 tháng 4 năm 487 TTL.

Vì vậy, có một số điểm bất đồng trong các nghiên cứu đã được đề cập ở trên về đánh giá các truyền thống Ấn Độ. Nhiều kết luận về ngày Đức Phật Niết-bàn từ 2066 TTL (D. R. Mankad), cho đến 1807 TTL (V. G. Ramachandran), 1168 TTL (K.D. Sethna), 544 TTL (K. C. Varma), 487 TTL (Sonam Morup), 486 TTL (G. Yamazaka), khoảng 483 TTL (A. K. Narain), giữa 420 TTL và 380 TTL (A. Bareau), khoảng 404 TTL (R. Gombrich), giữa 410 TTL và 390 TTL (K. R. Norman), khoảng 400 TTL (R. Hitaka), khoảng 397 TTL (K. T. S. Sarao), khoảng giữa 400 TTL và 350 TTL (H. Bechert), 383 TTL (H. Nakamura), 368 TTL (A. Hirakawa), thậm chí cho đến 261 TTL (P. H. L. Eggermont).

V. NGUỒN GỐC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC BIÊN NIÊN ĐẠI ĐỨC PHẬT TRUYỀN THỐNG

Mục tiêu của tập hội thảo chuyên đề về niên đại của Đức Phật không chỉ khảo sát các vấn đề làm thế nào và chúng ta có thể quyết định niên đại của Đức Phật lịch sử đã được bao xa. Nhiệm vụ không kém phần quan trọng là bao gồm khảo sát nguồn gốc và quá trình phát triển lịch sử của biên niên sử khác nhau của Đức Phật mà đã được các Phật tử sử dụng qua nhiều thời đại cũng như khảo sát niên đại đã được các cộng đồng tôn giáo khác đặt định, mà họ đã ghi trong hệ thống tôn giáo của họ như là theo tôn giáo Manichaean và Bonpo.

Người viết bắt đầu bằng biên niên sử của Thượng Toạ Bộ, trong suốt quá trình đó biên niên sử Phật lịch Thượng Toạ Bộ được nổi bật số một. Như đã đề cập ở trên, tất cả các Phật tử đã chấp nhận Phật lịch này trong các phong trào Phật giáo thế giới. Nguồn gốc của biên niên sử này thực sự còn gây nhiều tranh luận. Một số học giả còn tiếp tục đồng ý với Wilhelm Geiger cho rằng niên đại của vua Tích Lan Dev nampiyatissa lên ngôi năm 236 sau Đức Phật Niết-bàn, vốn có liên hệ rất gần với niên đại 218 của vua A? oka lên ngôi sau Đức Phật Niết-bàn," thuộc về niên đại đáng tin tưởng và được truyền thừa qua nhiều thế hệ, và nó phải được xem như là bộ xương của biên niên sử Tích Lan." Giả thuyết này, như chúng ta đã thấy còn gây rất nhiều tranh luận. Điểm quan trọng nhất để đánh giá giá trị của biên niên sử này, dĩ nhiên cần giải thích cách tính nhầm trong lịch của Thượng Toạ Bộ hiện nay. Điều này đã được nhận ra từ thời điểm nghiên cứu của G. Turmor như chúng tôi đề cập ở trên. Bài viết của tôi trong tập này là cố gắng tóm tắt các cách lý giải của người khác để trả lời vấn đề này, cũng như quan điểm riêng về chủ đề (cùng tác phẩm, tr. 253-286).

Biên niên sử của Thượng Toạ Bộ được sử dụng trong các tài liệu bia ký (không còn gây tranh luận) tương đối cũ về Phật lịch được tìm thấy ở Ấn Độ, đó là bia ký ở Bodhgay có niên đại 1813 sau Đức Phật Niết-bàn. Những vấn đề tranh luận cũ có liên quan đến cách giải thích niên đại này và cách giải quyết vấn đề đã được Cornelia Mallebrein trình bày. Biên niên sử của Thượng Toạ Bộ dường như đã ảnh hưởng đến các truyền thống Bắc Phương Phật Giáo, ví dụ như tác phẩm Li-yul-gyi-lo-rgyus,một tác phẩm lịch sử cổ đại của người Khotan được viết bằng ngôn ngữ Tây Tạng,một tác phẩm biên niên của truyền thống khác là Ha-dbaơ -blo-gros-bzaơ -po (Sure? amatibhadra) đã dược các sử gia Tây Tạng lưu truyền. Tác phẩm này xuất phát từ ký sự của một vị Tăng S kya? ribhadra người Kashmir đã viếng thăm Tây Tạng năm 1204-1213, và từ thông tin biên niên được tìm thấy trong một bản văn viết tay của người Nepal về tác phẩm Hevajraprak ? a, có niên đại 1811 sau Phật niết-bàn. Chú thích của bản viết tay này đã được đề cập trong bài "Bàn về Niên Đại Đức Phật Lịch Sử theo Truyền Thống Nepal"của Mahes Raj Pant (Symp IV,1, pp. 358-362). So với biên niên sử của Thượng Toạ Bộ thì tác phẩm Sure? amatibhadra khác hơn 1 năm, trong khi bản viết tay Hevajrprak ? a khác 5 năm. Thật rõ ràng, mối quan hệ, từ đó, (mặc dù không phải luôn luôn chính xác), kiến thức về biên niên sử Thượng Toạ Bộ được truyền sang Nepal, Tây Tạng, và Trung Á phải đã có mặt trong các cộng đồng Thượng Toạ Bộ ở Bodhgay và đặc biệt ở các tu viện Tích Lan đã xuất hiện ở đó nhiều thế kỷ.

Liên quan đến việc sử dụng biên niên sử của Thượng Toạ Bộ ở Thái Lan, Oskar von Hinuber cho tôi biết rằng việc sử dụng biên niên sử được biết sớm nhất ở Thái Lan được tìm thấy trên bia ký tượng Phật ở Bắc Thái Lan có niên đại 2039 theo Phật lịch (1495 / 96) STL.

Nhiều ý kiến về niên đại Đức Phật trong phong trào chấn hưng Phật giáo được Petra Kieffer-Pulz và học thuyết biên niên sử khác được các Phật tử Therav da hiện nay trình bày cũng được bàn thảo trong tập đóng góp này.

Có lẽ ở đây cũng nên thêm lời nhận xét về tài liệu được xuất bản hiện nay bao gồm một truyền thống chưa được biết đến về niên đại Đức Phật Niết-bàn. Đây là một phần còn sót lại của tác phẩm Sankrit Lokapraj–  pti, tác phẩm này cho chúng ta biết khoảng cách 540 năm khi Pufont> yaputra lật đổ triều đại Mauryavaị sa và chính ông đã chiếm hữu thành P ỉ aliputra. Bản văn chỉ là một phần còn sót lại và do đó chúng ta không biết chắc chắn từ sự kiện nào năm 540 được tính. Siglinde Diestz đã luận rằng sự kiện này có khả năng là niên đại Đức Phật Niết-bàn.

Về sau, các truyền thống Tây Tạng và Ấn Độ được Gunter Gronbold trình bày trong bài nghiên cứu tổng quát về niên đại của Đức Phật trong những tác phẩm Mật Tông và trong giải thích cứ liệu về niên đại Đức Phật như đã được tìm thấy trong tác phẩm nổi tiếng "Lịch Sử Giáo Lý" của Claus Vogel. Trong hai tập hội thảo chuyên đề, những bài viết phụ liên quan đến truyền thống Tây Tạng được đưa vào, đó là "Niên Đại của Đức Phật Thích-ca-mâu-ni theo Nguồn Sử Bompo"của Per Kvaerne, "Ghi Chú về Cách Tính của Ấn Độ và Tây Tạng về Đức Phật Niết-bàn và Khoảng Thời Gian Hoằng Pháp của Ngài" của David Seyfort Ruegg, cũng như tuyển tập của những tài liệu như vậy từ các nguồn được Champa Thupten Zongtse tuyển chọn và của E. Zabel.

Vì Phật giáo đóng vai trò then chốt trong lịch sử Trung Á, các truyền thống về niên đại Đức Phật Niết-bàn đã được khám phá trong những tác phẩm Trung Á cổ đại tạo nên một chủ đề hấp dẫn mà đã được Klaus Ruhrborn khảo cứu, còn truyền thống Manichean đã được Wener Sundermann đánh giá trong bài "Truyền Thống Manichaean về "Niên Đại Đức Phật Lịch Sử." Các cứ liệu của người Tokharian được K.T. Schmid đề cập. Theo tài liệu có được từ các nhà chuyên gia dẫn đầu về lãnh vực, chưa có cứ liệu nào về Đức Phật Niết-bàn đưa ra trong các bản văn của người Sogdia, trong khi đó chỉ có một trích dẫn liên hệ đến chủ đề trong một tác phẩm của người Khotan. Các tham khảo dựa vào truyền thống Mông Cổ được Klaus Sagaster trình bày.

Về niên đại của Đức Phật, các truyền thống Đông Á có rất nhiều khúc quanh hơn các truyền thống Tây Tạng. Các truyền thống Trung Quốc cũng được điểm qua trong bài đóng góp "Bàn về Niên Đại Đức Phật theo Truyền Thống Trung Quốc" của Herbert Franke cũng được in trong tuyển tập này. Về các bài đóng góp khác đối với hội thảo chuyên đề này liên quan đến các truyền thống Đông Á bao gồm các bài đánh giá về nguồn sử liệu của Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Đó là các bài của Hubert Durt, của Lewis Lancaster, "Niên Đại của Đức Phật theo Phật Giáo Trung Quốc"; của Bhikkhu P s dika, "Các Hệ Thống Biên Niên Sử Phật Giáo Truyền Thống: Các Truyền Thống Việt Nam", của Erhard Rosner, "Vài Nhận Xét về Khảo Luận của Yu Cheng – hsieh liên quan đến niên đại của Đức Phật, và Chen Yen- huei, "Nghiên Cứu về Niên Đại Đức Phật của Người Trung Quốc."

Ở Indonesia, Phật giáo truyền thống chỉ phục hưng trong tình trạng tôn giáo Bali hỗn hợp được biết như "Siva- Buddhism." Bài khảo cứu về các biên niên sử ở Indonesia của J. G. de Casparis không cung cấp thêm dữ liệu nào về niên đại Đức Phật. Giáo sư J. Ensink (Groningen) đã cung cấp cho người viết biết rằng cho đến nay không tìm thấy dấu vết nào của truyền thống cổ đại liên quan đến niên đại Đức Phật được khám phá ở Indonesia. Các Phật tử Indonesia hiện đại thì theo biên niên sử Thượng Toạ Bộ.

Cuối cùng, cũng nên đề cập ở đây rằng Werner Sundermann đã khảo sát truyền thống của tín đồ thờ lửa (Zoroastrian) liên quan đến niên đại Đức Phật, ở đó Đức Phật được biết dưới tên "B‡ d sp"như một nhân vật huyền thoại thuộc về quá khứ xa xôi. Trong hệ thống biên niên sử của Đạo Bái Hỏa, B‡ d sp có lẽ có niên đại khoảng 6254 hoặc 6255, tương ứng với 2745 hoặc 2746 trước khi Zarathustra xuất hiện.

VI. THUYẾT NGÀN NĂM TRONG CÁC TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO

Một yếu tố quan trọng đang chú ý về niên đại của Đức Phật trong số những Phật tử trong các giai đoạn sau là niềm tin của họ cho rằng lịch sử Phật giáo đã được phát triển phù hợp với qui luật nào đó đã được Đức Phật tiên đoán. Như vậy, bằng cách tính khoảng cách từ ngày Đức Phật Niết-bàn cho đến thời đại họ, họ có thể xác định thời điểm của họ trong toàn bộ lịch sử Phật giáo như nó tương ứng với sự kiện nào đó trong lịch sử thế giới.

Những lời tiên đoán về thời gian của chánh pháp, mạt pháp và thời gian Đức Phật tương lai, Phật Di-lặc (Maitreya) được giải thích rất chi tiết trong truyền thống Phật giáo. E.ٍ Lamotte và E. Leumann đã trình bày bài khảo cứu của mình toàn diện về những vấn đề như vậy trong Phật giáo Ấn Độ. Tất cả truyền thống Phật giáo chính đã truyền thừa những tác phẩm về đề tài này, và nó đã được biên tập và chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau, ví dụ như An gatavaị sa bằng P li, Maitreyavy karana bằng Sanskrit, Maitreyasamiti bằng tiếng Khotan, Maitrisimit bằng tiếng Tokhar, và bằng ngôn ngữ Uigur, v.v…vẫn còn có nhiều hệ thống tín ngưỡng nhỏ hơn như vậy trong thời kỳ Phật giáo muộn, đáng chú ý nhất là trong hệ thống K lacakra (bánh xe thời gian), có nguồn gốc từ Ấn Độ và đã ảnh hưởng sâu sắc đến Phật giáo Tây Tạng. Các cách tính biên niên sử của giới Phật tử Tây Tạng như đã trình bày trong tập này phải được hiểu là trái ngược với bối cảnh này. Những trào lưu tư tưởng tin vào Đấng Cứu Thế cầu mong Bồ-tát Di-lặc ra đời, vì vậy đã có nhiều biến động và phát sinh nhiều cuộc canh tân trong lịch sử Trung Quốc. Các trào lưu cứu độ sôi nổi đó phát triển mạnh đặc biệt ở Đài Loan, và ngay cả nó truyền sang Indonesia. Những người theo các trào lưu này đại diện một trong bảy giáo phái của Phật giáo Indonesia ngày nay. Các tư tưởng cứu độ và mạt pháp của Phật giáo cũng xuất hiện ở Nhật Bản.

Vào năm 1956/1957 Phật giáo Therav da đã tổ chức lễ kỷ niệm năm Đức Phật Niết-bàn lần thứ 2500 (Buddha Jayanti) và điều đó được xem là một điềm lành tối thượng. Như đã đề cập ở phần ? I, bao nhiêu ước nguyện lớn được ấp ủ để chờ đến năm này. Tuy nhiên các niềm tin này không luôn đúng hoàn toàn với các tiên đoán đã được tìm thấy trong văn học Aỉ ỉ hakath , một bộ sớ chứa đựng những lời giải thích của Therav da chánh thống về giáo pháp của đức Phật. Các phong trào kiểu này được M. Sarkisyanz ghi lại trong "Hiệp Hội Thiên Niên Kỷ của Đức Phật Đản Sinh."

VII. NIÊN ĐẠI ĐỨC PHẬT TRONG ĐÁNH GIÁ MANG TÍNH LỊCH SỬ

Vẫn còn tồn đọng một phương diện khác về vấn đề niên đại Đức Phật mà người nghiên cứu không thể lãng quên khi nghiên cứu chủ đề này. Đây là vấn đề thuộc niên đại Đức Phật trong đánh giá mang tính lịch sử và trong các cách tiếp cận mang tính học thuyết đối với lịch sử thế giới. Chúng ta gặp nhiều phương cách đánh giá như thế trong các tài liệu đa dạng của Trung Quốc về niên đại cuộc đời Đức Phật. Tài liệu hiện có từ trong các bài tham luận về truyền thống Đông Á (xem Phần trên ? V) minh hoạ đầy đủ những đánh giá xác thực của các nhà sử học Trung Quốc đề ra.

Đánh giá có tính lịch sử vẫn luôn được các thời đại từ xưa đến nay ưa chuộng. Một học thuyết được thảo luận phổ biến trong thời gian khá gần đây đó là "Học Thuyết về Trục Thời Gian" (Axial Age Theory) do Karl Jaspers khởi xướng. Việc áp dụng khả thi đối với vấn đề này đã được S. N. Eissenstadt viết trong "Luận về Ngày Sinh của Đức Phật dưới Phương Diện của Nền văn Minh Tương Đối." Các cuộc thay đổi văn hoá lớn xảy ra ở Trung Âu và Bắc Âu trong giai đoạn Đức Phật tại thế tạo thành chủ đề của chương cuối trong tập sách này. Chủ đề này được Reinhard Wenskus đóng góp và được đăng trong Symp IV,1.

VIII. KẾT LUẬN

Chúng ta không thể cung cấp cho các sử gia một biên niên sử mới về Đức Phật mà được tất cả mọi người hay các chuyên gia đồng ý. Các quan điểm dị biệt vẫn còn tồn đọng rất nhiều. Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng tập hội thảo chuyên đề này ít nhất cũng thực hiện được chức năng làm sáng tỏ "sự thống nhất chung giữa các học giả là Đức Phật Niết-bàn khoảng những năm 480 TTL" và sự kiện đó đã trở nên một cái gì thuộc về quá khứ. Hiện nay biên niên sử này chỉ là một trong nhiều giả thuyết về biên niên sử. Giá trị của nó chỉ là một phần đóng góp cho tập hội thảo chuyên đề và trong một bài viết bổ sung mà thôi. Đại đa số các vị đóng góp đều cho rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn đáng lưu ý nhất là sau 480 STL, nhưng họ không thể đi đến thống nhất?à sau 480 bao nhiêu năm, và sự kiện này nên là năm nào.

Một phương diện lý thú khác liên quan đến nguồn gốc của tài liệu biên niên sử và sử gia nào đã sử dụng chúng. Trong tuyển tập này, độc giả sẽ gặp rất nhiều trường hợp bịa đặt khác nhau về cấu trúc và niên đại đồng thời của biên niên sử. Người viết xin trích ở đây trường hợp ở Tích Lan. Các sử gia trước kia đã xây dựng niên đại đồng thời giữa Vijaya, tổ tiên có tính chất huyền thoại của người Tích Lan và Niết-bàn của Đức Phật để bào chữa cho lời tuyên bố của người Tích Lan về Vijaya là dân tộc được Đức Phật chọn lựa (Mah vaị sa 6.1-4). Tuy nhiên, việc đánh đồng giữa Đức Phật và Vijaya không chỉ là hư cấu của huyền thoại Tích Lan mà còn từng lạc dẫn các học giả vào niềm tin cho rằng nó trình bày những thông tin lịch sử đáng tin cậy. Trường hợp rất nổi tiếng thứ hai là " Đánh đồng niên đại của Gajab hu"mà vẫn còn được xem như là nền tảng của biên niên sử Tamil thời kỳ đầu. Như G. Obeyesekere đã chỉ ra rất rõ, việc đánh đồng này chỉ cốt#273;ể xây dựng huyền thoại, không hề có cơ sở lịch sử. Một trường hợp khác liên quan đến niên đại của K lid sa. Câu chuyện kể rằng K lad sa và Kam rad sa (biệt hiệu là Kum radh tusena) là những người sống đồng thời đã được rất nhiều học giả trước đây xem như là điều khẳng định về niên đại của K lid sa. Tuy nhiên, Kum rad sa, tác giả của J nak? haraϼ/font> a,sống sau vua Kum radh tusena đến vài thế kỷ và câu chuyện này ra đời rất muộn.

Quan niệm cho rằng danh sách các vị Tổ Sư Phật giáo trong 3 truyền thống chính của Phật giáo Nguyên Thủy không ăn khớp với "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh" đã là điểm xuất phát các tranh luận và nó còn để lại các luận điểm quan trọng bậc nhất về khảo cứu niên đại Đức Phật của người biên tập và xác nhận năm Niết-bàn của Đức phật phải là sau năm 480 TTL mà đã được hầu hết các học giả phương Tây đồng ý. Người viết cảm thấy rằng các luận chứng đã được trình bày tại hội thảo chuyên đề đã làm vững thêm giả định này. Như kết quả của một quá trình tìm kiếm, dường như những giả định khác nhau liên quan đến biên niên sử Ấn Độ đã được phần lớn chấp nhận trước cuộc xâm lăng của Đại Đế Alexnder nên được khảo sát lại. Điều này có liên quan đến niên đại lịch sử cũng như đối với những ai phản ánh sự phát triển văn hoá và những tác phẩm văn học, và nó bao gồm luôn mối liên hệ biên niên sử Ấn Độ và triết học Hy Lạp cổ đại cũng như mối ảnh hưởng hỗ tương khả dĩ của chúng đã được trình bày trong bài đóng góp của Wilhelm Halbfass.

[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh của giáo sư Heinz Bechert, đăng trong tuyển tập "When did the Buddha live? The Controversy on the Dating of the Historical Buddha" (Đức Phật Sống trong Thời Đại Nào? Sự Tranh Luận về Cách Tính Ngày của Đức Phật Lịch Sử) do giáo sư H. Berchert biên tập. Delhi: Sri Satguru Publications, 1995, các trang 6-36].

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2023(Xem: 11694)
Kinh Ma-ha Ca-diếp độ bần mẫu1 kể lại câu chuyện rất thú vị về một bà lão nghèo, nhờ cúng dường ngài Ca-diếp một chút nước cơm mà được sinh về cõi trời Đao-lợi. Phước cúng dường ấy còn lớn lao đến mức hiện thành hào quang sáng rực như bảy mặt trời đồng thời soi chiếu, khiến cho vị vua cõi trời ấy là Đế-thích cũng phải kinh ngạc. Và sau khi tìm hiểu biết được nhân duyên cúng dường được phước lớn lao này, đích thân Đế-thích cùng phu nhân của mình đã phát tâm hiện xuống cõi người, hóa thân thành một đôi vợ chồng già nghèo khổ để được có cơ hội cúng dường lên ngài Ca-diếp, vun bồi thêm phước báu của chính mình.
15/03/2023(Xem: 2889)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai. Không phải đức Phật bằng xương bằng thịt đã đến hai lục địa đó lúc Ngài còn tại thế. Nhưng đó là một câu chuyện vô cùng thú vị về một hiện tượng lịch sử đã được sử sách nói đến cách nay cả ngàn năm.
23/02/2023(Xem: 3038)
Hạnh phúc thay ngày Phật xuất gia Vì thương cứu độ cõi Ta Bà Đâu màng điện ngọc cùng châu báu! Nỡ đắm con xinh đến tháp ngà! Thử ngẫm ai hoài mà chẳng bệnh! (*) Xem chừng kẻ sống mãi không già! (*) Quần sanh chuốc nạn đều chưa rõ Pháp thế lưu tồn giúp khổ qua.
04/01/2023(Xem: 1502)
Trên hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, kể từ đêm khuya ấy, một ánh Sao Mai âm thầm tỏa sáng trên bầu trời phương Đông, báo hiệu một bình minh hy vọng trước một kỷ nguyên mới của văn minh nhân loại, thời trục văn minh được khởi phát từ những nguồn minh triết Đông-Tây. Hai mươi lăm thế kỷ tiếp theo, dòng lịch sử nhân loại trôi đi trong máu lửa với những cuộc chiến khốc liệt tranh quyền thống trị thống nhất đất nước, tranh quyền bá chủ thế giới, cùng với những cuộc chiến tranh tôn giáo kéo dài hằng trăm năm, tranh quyền thống trị Thiên quốc trần gian.
26/12/2022(Xem: 1816)
Đặc biệt năm nay Ngày Phật Thành Đạo mùng 8 tháng 12 âm lịch lại đến trước ngày Tân niên 2023 đúng hai ngày tức là rơi vào ngày 30/12/2022 . Còn nhớ vào một sớm sao mai mọc cũng là lúc Ngài hoàn toàn chứng được Tam minh, thành tựu Chánh đẳng Chánh giác và thành Phật với danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Năm ấy Ngài 35 tuổi, ngày mùng 8 tháng Chạp năm 584 trước Tây lịch. Trộm nghĩ có lẽ ai đã là Phật Tử đều phải xem Lễ Thành Đạo là ngày lễ quan trọng nhất, long trọng nhất trong tất cả những ngày lễ khác. Vì sao vậy ?
21/12/2022(Xem: 1619)
Kính lạy Đức Thế Tôn, Hôm nay ngày cuối năm Trời mùa Đông giá lạnh Vạn vật như chuyển mình Bước sang mùa Xuân mới Ngày Thế Tôn thành Đạo Khắp Trời Người cùng vui
21/12/2022(Xem: 2051)
Khi Thái tử Sĩ-đạt-ta từ bỏ hoàng cung giữa đêm khuya, vượt thành, cắt tóc xuất gia, khoác áo sa-môn, trải qua những tháng năm dài lên đường tầm sư học đạo. Đầu tiên ngài đến với vị đạo sĩ thời danh là Alàràma Kàlàma. Không bao lâu, Ngài đã thâm nhập những áo nghĩa của thầy và thực tập thiền định đến cảnh giới Vô sở hữu xứ (Akincannayatana) là từng định thứ ba của cõi trời Vô sở hữu. Đây là dạng an định bằng một kỹ thuật trực giác, hay còn gọi là Thiền Cảm giác; còn định còn an lạc, hết định thì trở lại trạng thái đời thường. Không chứng ngộ được chân lý tối hậu về sự nhàm chán, lìa bỏ luyến ái vô minh, chấm dứt mọi đau khổ. Cũng như sự tỉnh thức mọi lúc mọi nơi để đạt đến Niết bàn tịch tịnh.
20/12/2022(Xem: 1681)
Kính lạy Đấng Thế Tôn Cho con nguồn diệu pháp Giữa trần gian rối loạn Với bao những khổ đau Khó nơi nào tránh được May thay có Tăng Đoàn Trưởng tử của Như Lai
20/12/2022(Xem: 1255)
Xuân vận hành giữa Hạ và Đông, nghĩa là hội tụ và hóa giải khí tiết giữa hai mùa. Chính những tố chất ấy, mùa Xuân xem là mùa đẹp nhất trong năm, ươm mầm cho muôn hoa đua nở, cây cối đâm chồi nảy lộc, vì thế người dân đi lễ chùa bẻ cành hái hoa để xin “lộc” đầu Xuân. Xuân bắt đầu được tính từ ngày 4 tháng 2 hoặc ngày 5 tháng 2 Dương lịch gọi là “lập Xuân”. Khí tiết đã âm ỷ từ Thiên tượng âm dương đất trời khi tinh cầu vận hành quanh thái dương hệ.
09/03/2022(Xem: 6653)
Gần 6 năm nay từ khi hiểu được phần nào Giáo pháp của Đức Thế Tôn qua sự giáo truyền của những bậc danh tăng VN thời hiện đại của thế kỷ 20 và 21 con vẫn thầm khấn nguyện vào những ngày đại lễ của Đức Phật và các vị Bồ Tát sẽ dùng những lời thơ, bài viết ngắn diễn tả được niềm tịnh tín bất động của con hầu có thể cúng dường đến quý Ngài. Phải nói thật bất tư nghì ...không biết nhờ Chư Thiên Hộ Pháp hộ trì chăng mà con đã được các bậc hiền trí giúp đỡ một cách thuận duyên trong những năm sau này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567