Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Nghiên cứu của người Nhật về niên đại của Đức Phật - Thích Thiện Quý dịch

16/05/201316:39(Xem: 2316)
17. Nghiên cứu của người Nhật về niên đại của Đức Phật - Thích Thiện Quý dịch


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần II

Tưởng niệm Phật thành Đạo
và niên đại của Ngài

--- o0o ---

NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI NHẬT VỀ
NIÊN ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT

Giáo sư Hajime Nakamura
Thích Thiện Quý dịch

Các vấn đề về "Phật lịch" và niên đại của Đức Phật đã được các học giả Nhật Bản đề cập trên nhiều quan điểm khác nhau. Thậm chí trong các giới tu sĩ Phật Giáo cũng đã có những quan điểm bất đồng.40Điển hình như các nước Phật Giáo Nam tông cùng thống nhất tổ chức lễ tưởng niệm "Ngày Nhập Niết-bàn của Đức Phật lần thứ 2500" vào năm 1956 Tây lịch.41 Ở Tích Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Thái Lan và một số nước Phật Giáo Nam tông khác, hầu hết những buổi lễ tưởng niệm ấy đều được sự ủng hộ và giúp đỡ của chính phủ và những thành viên trong Giáo Hội.

Tuy nhiên, trong các nước Phật Giáo Bắc tông, đã có những quan điểm bất đồng nảy sanh. Phần lớn các học giả phương Tây đã bác bỏ truyền thuyết của Tích Lan, một trong những truyền thống cho rằng niên đại mà Đức Phật Nhập Niết-bàn là năm 544 trước Tây lịch, được thể hiện qua cách lựa chọn năm 1965 làm năm tưởng niệm Đức Phật Nhập Niết-bàn lần thứ 2500. Truyền thống này không thể truy nguyên (tức không thể có mặt) trước tiền thế kỷ thứ XI.42Nó cũng không phù hợp với bảng niên đại của các vị Vua nước Ma-kiệt-đà. Sự tuyên bố của các nước Nam tông về tính chính thống trong niên đại của Phật chủ yếu là dựa trên truyền thuyết rằng các Thầy Tỳ-kheo đã đưa ra một nguyên tắc là phải "điểm vào một chấm" trong Luật tạng mỗi khi kết thúc một mùa An Cư Kiết Hạ hàng năm. Tin tưởng rằng truyền thống "chấm vào một điểm" không hề bị gián đoạn từ trước đến giờ, họ cho rằng bảng niên đại dựa trên số lượng của các dấu chấm trong các Luật tạng thì không thể nào sai được.

Tuy nhiên, cũng có sự nghi ngờ, vì cũng đã có một truyền thuyết tương tự do Sanghabhara, người đã đặt chân đến đất nước Trung Hoa vào năm 489 Tây lịch, đề xướng. Ngài cũng tuyên bố rằng các Thầy Tỳ-kheo tại Ấn Độ trước đó cũng đã điểm một chấm vào trong Luật tạng của họ vào mỗi lần An Cư Kiết Hạ, nhưng có điều là Ngài đã đếm được tất cả 975 chấm. Số lượng dấu chấm này cho ta kết luận rằng Đức Phật vô dư niết-bàn vào năm 486 trước Tây lịch và năm Đản sanh của Đức Phật là năm 566 trước Tây lịch. 43Theo giáo sư Pachow, "sự ghi nhận dấu chấm" nhằm để chứng tỏ rằng niên đại mà Đức Phật Nhập Niết-bàn vào khoảng năm 483 Tây lịch. Điều đó phù hợp với cách tính của W. Geiger, dựa trên nền tảng của những bảng ký sự niên đại bằng tiếng Pali.44

Về phương diện của bảng niên đại cổ xưa, truyền thuyết của Sanghabhadra có phần đáng tin tưởng hơn những truyền thuyết của các nước Phật Giáo Nam tông. Do vậy dưới sự lãnh đạo sau này của học giả Nhật, Junjirò Takakusu (người đã chấp nhận theo truyền thuyết của Sanghabhadra), nhiều tu sĩ Nhật Bản đã cùng nhau tổ chức lễ tưởng niệm ngày Niết-bàn của Đức Phật lần thứ 2500 vào năm 1932 Tây lịch. Tuy nhiên, các tông phái như Tịnh Độ (Jdo), Jdo–Shin và Nhật Liên tông (Nichiren) đã không chính thức hợp tác với họ, bởi vì những vị sáng lập ra những tông phái này như Hònen, Shinran và Nichiren lại chấp nhận vào học thuyết cho rằng năm vô dư niết-bàn của Đức Phật là 949 trước Tây lịch. Đó là niên đại được Fo-lin (Horin) đề ra. 45Cần nói thêm rằng, ngày nay, có quá ít người, thậm chí chỉ vài tín đồ của các tông phái này tin vào học thuyết ấy.

Cố học giả Hakuji Ui đã xác định lại niên đại của Đức Phật là năm 466 – 386 trước Tây lịch, vốn dựa trên các truyền thuyết của các ấn bản Kinh điển Phật Giáo bằng ngôn ngữ Trung Hoa, Tây Tạng và Sanskrit, điển hình như Samayabheda-uparacana-cakra. Bởi vì niên đại của vua A-dục, sự bắt đầu cho những nghiên cứu về bảng niên đại, phải được thay đổi trong quan niệm của sự nghiên cứu gần đây. H. Nakamura đề nghị rằng bảng niên đại của H. Ui phải được thay đổi là 463 –383 trước Tây lịch, dựa trên những quan điểm chính mà ông đã nghiên cứu. 46

Những nghiên cứu của Genmyò Ono và Hakuji Ui đã có ảnh hưởng đến giới học giả Trung Hoa. Thượng Tọa Yin-Shun, một học giả Trung Hoa, đã phê bình các giả thuyết về ngày của đức Phật của các nhà học giả Đông Nam Á và phương Tây, và cho rằng ngày Đức Phật vô dư niết-bàn là năm 390 trước Tây lịch. Nguyên nhân phủ nhận này cũng không khác nhau cho lắm so với Ui.

Trình bày một quan điểm tương đối dung hoà nhất của học giả châu Âu, giáo sư M. Winternitz đã nói rằng:

"Khi chúng ta cân nhắc rằng có một chứng cứ có đầy đủ khả năng để chứng tỏ rằng Đức Phật là người đương thời với vua Tần-bà-sa-la và vua A-xà-thế, những người rất có khả năng sống vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6 trước Tây lịch. Như vậy, sau đó ít nhất chúng ta có lý khi nói rằng các giả thuyết đáng tin cậy nhất là đặt cuộc đời đức Phật vào giai đoạn này." 47

Tuy nhiên, như vậy chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng khó phân định, vì triều đại của các vị vua này lại không thể được xác định trừ khi chúng ta đã xác định được niên đại của đức Phật.

Kanakura48phát triển quan điểm của cố giáo sư Jacobi, người đã cho rằng năm nhập Niết-bàn của Đức Phât là năm 484 trước Tây lịch, nhằm để ủng hộ truyền thuyết của các nước Phật Giáo Nam tông. Mizuno lại nghi ngờ tính xác thật của truyền thuyết của các nước Phật Giáo Bắc tông cho rằng vua A-dục xuất hiện khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, và chấp nhận vào truyền thống của các nước Phật Giáo Nam tông. 49 Đại biểu của các Phật tử Nhật bản đã tham gia vào lễ tưởng niệm lần thứ 2500 ngày Đức Phật nhập Niết-bàn được tổ chức tại các nước Phật giáo Nam tông vào năm 1956 sau Tây lịch. Họ đã tổ chức ngày lễ tưởng niệm lần thứ 2500 khác vào năm 1959 dưới sự bảo trợ của chính phủ Nhật Bản nhằm để đẩy mạnh tình hữu nghị với các nước Phật giáo châu Á. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là Nhật Bản đã chấp nhận bảng niên đại của Tích Lan. 50

[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Japanese Research on the Date of the Buddha" của giáo sư Hajime Nakamura, đăng trong tuyển tập "When did the Buddha live? The Controversy on the Dating of the Historical Buddha" (Đức Phật sống trong thời đại nào? Sự tranh luận về cách tính ngày của đức Phật lịch sử) do giáo sư H. Berchert biên tập. Delhi: Sri Satguru Publications, 1995, các trang 135-6].

Chú thích :

40.Buttan Nisen-gohyakunen Kinen Gakukai (Hội các nhà nghiên cứu tổ chức lễ tưởng niệm ngày sanh của đức Phật lần thứ 2500), Bukkyògaku no Shomondai (Các vấn đề Phật học), Tokyo, Iwanami, 1935, trang 275f; Genmyò Nendaikò (Các nghiên cứu về niện đại Phật Giáo). Do Kaimei Shoin tái bản, 1977, Agency: Meicho Fukyùkai.

41.Tài liệu thảo luận về ngày Nhập Niết Bàn của Đức Phật do Keishò Tsukamoto chọn lọc và khảo cứu, Shùkyo Kenkyù, 33,4 (Nr. 163) (tháng Ba – 1960), trang, 59 – 93.

42.So sánh. Maurice Winternitz. Lịch Sử Văn Học Ấn Độ (A History of Indian Literature), quyển thứ 2, nhà xuất bản của trường Đại học Calcutta, 1933, trang 597.

43.H. Ui, Indo Tetsugaku Kenkyù, quyển thứ 2, Tokyo, kòshisha, 1926, trang 1- 112. Ông đã mạnh dạn đưa ra sự mâu thuẩn về các truyền thuyết của những nứơc Phật Giáo phương Nam, và đồng thời giới thiệu rằng truyền thuyết của các nứơc Phật Giáo phương Bắc đã được nhiều bộ phái Phật giáo, cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa, chấp nhận.

44.W. Pachow, "Nghiên cứu về sự ghi nhận dấu chấm" (A Study of the Dotted Record), đăng trong Tạp chí Xã hội Đông phương của Mỹ (Journal of the American Oriental Society), 85, 3 (1965), trang 342 – 349.

45.Cao tăng Trung Hoa (572-640 Tây lịch)

46.H. Nakamura, "Niên đại của triều đại Mauryan," (The Date of the Mauryan), trong Tòhògaku 10 (1955), trang 1f; cũng được đăng trong Kodaishi, Lịch Sử Cổ Đại A? Độ, (Ancient History of India). Tokyo, Shunjùsha, 1966, quyển thứ 2 trang 409-437.

47.M. Wintermitz, sách đã dẫn., II, trang 598.

48.E. Kanakura, Indo Kodai Seishinshi, trang 339f.: H. Jacobi, Buddhas und Mahàvìras Nirvàna und die politische Entwicklung Magadhas zu Jener Zeit, Berlin, 1930 (Sitzungsberichte der preuBischen Akademie der Wissenschaften zu Berlin, 26).

49.K. Mizuno, Có phải Phật Giáo đã bị phân hoá thành nhiều bộ phái khác nhau trong suốt thời đại của vua A-dục," Indogaku Bukkyògaku Kenkyù / Tạp chí Phật học và A? Độ học (Journal of Indian and Buddhist Studies),6 (1958), trang 395 f. Truyền thuyết của các nước phương Bắc về niên đại của vua A Dục cũng bị Kakue Miyaj phủ nhận; indogaku Bukkyògaku Kenkyù / Tạp chí Phật học và A? Độ học (Journal of Indian and Buddhist Studies),8 (1960), trang 311f. Những quan điểm có thể đưa đến sự tranh luận về niên đại của Đức Phật đã được Keishò Tsukamoto tóm lược, Indogaku Bukkyògaku Kenkyù / Tạp chí Phật học và A? Độ học (Journal of Indian and Buddhist Studies), 8 (1960), trang598f.

50.T. Hayashiya (Bukkyò oyobi Bukkyòshi no Kenkyù [nghiên cứu Phật giáo và lịch sử Phật giáo], Tokyo Kikuya Shoten, 1948, trang 1-92) đã phát biểu quan điểm của ông về niên đại vô dư niết-bàn của Đức Phật là năm 587 trứơc Tây lịch.

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2020(Xem: 4724)
Chùa Hạnh Nghiêm là nơi trú xứ tu học yên bình của chư Ni trẻ, nằm biệt lập khiêm nhường bên trong khuôn viên rộng lớn, trong đó còn có chùa Trí Nghiêm dành riêng cho chư Tăng như một chỗ dựa tinh thần to lớn và che chở, dìu bước nhau trên bước đường tu học ( ảnh 1, và ảnh chánh điện chùa Hạnh Nghiêm ).
06/10/2020(Xem: 11430)
Giúp Phật hoằng pháp độ quần sanh, Quán sâu Bát-nhã trí tuệ thành. Năm uẩn đều không, trừ nhân ngã, Ba độc dứt rồi hiện Phật, Tăng. Điều tâm, lìa tướng, phá chấp pháp, Bỏ Tiểu theo Đại, đạo viên thành. Hiện tướng tỳ-kheo dạy bảo chúng, Lập thành công lớn chẳng kể công.
27/03/2020(Xem: 4371)
Muốn thành một vị Phật, một người tu hành phải trải qua ba nguyên tắc đào luyện tu tập; nếu không hoàn thành ba nguyên tắc này thì người đó dù ở địa vị nào ở cấp bực nào đem xét nghiệm thì sẽ nhận biết họ không bao giờ được thành Phật.
28/02/2020(Xem: 11746)
Cõi trời Đâu Suất Bồ Tát giáng trần Khi quán Sa Bà nhân duyên hội đủ Hoàng hậu Ma Da nằm mộng đêm đó Thấy Voi Sáu ngà nhập ở bên hông
02/01/2020(Xem: 4438)
Một sáng tinh sương ..... Đức Thế Tôn thành đạo . Phiền não đoạn tận, chiến thắng ma quân , Ánh sáng Giác Ngộ lan tỏa đến tha nhân Gieo rắc niềm tin ...khổ đau được chuyển hoá !
24/12/2019(Xem: 4684)
Ngày thành đạo của đức Thế Tôn cách đây 26 thế kỷ, đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Một kỷ nguyên của chánh kiến, thấy rõ thế gian là vô thường và những gì cấu tạo nên nó chỉ là do quan hệ duyên khởi và trống rỗng tự ngã. Những nỗi khổ đau của con người ở trong thế gian không do một ai có thẩm quyền áp đặt, mà chính là do lòng tham dục, tính hận thù và sự kiêu căng nơi tâm họ tạo nên. Tâm cũng vô thường như bất cứ những sự vô thường nào ở trong thế gian, nên những khổ đau của con người không phải là tuyệt lộ. Nó có thể thay đổi khi nhân và duyên của nó được thay đổi. Nhân và duyên làm thay đổi khổ đau của thế giới con người là Bát Thánh Đạo. Thực hành Bát Thánh Đạo, do đức Phật công bố tại vườn Nai, sau khi Ngài thành đạo, trong thời thuyết giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như, tại vườn Nai thì những khổ đau của thế giới con người sẽ bị diệt tận.
24/12/2019(Xem: 6791)
Xưa và nay, trong lịch sử của nhân loại, tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân. Nhờ trải qua các quá trình kham nhẫn, tu, học, và giúp đỡ cho tự thân và tha nhân như vậy, thì họ mới có thể trở thành những nhà khoa học, toán học, văn học, triết học, đạo học, v. v… Bồ-tát Tất-đạt-đa Gautama,[1] một vị đạo Sư tâm linh hoàn hảo, có đầy đủ đức hạnh, từ bi, và trí tuệ, trải qua 6 năm tu khổ hạnh rừng già với năm anh em Ông A-nhã Kiều-trần-như. Sau một thời gian tầm sư học đạo, Bồ-tát, một con người xuất chúng bằng xương bằng thịt, đã tìm ra chân lý bằng cách thiền định tại Bồ-đề-đạo-tràng suốt 49 ngày đêm, và chứng ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ-đề. Lúc đó, Bồ-tát trở thành Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni, một đức Phật lịch sử, có mặt trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, được chư thiên và loài người tôn kính, có khả năng đem
24/10/2019(Xem: 7948)
Bài viết này để trả lời một câu hỏi: Làm thế nào để ngộ? Ngộ đây là ngộ tông chỉ Thiền, tức ngộ tông chỉ Phật. Người viết không dám trả lời minh bạch, vi bản thân tu và học đều chưa sâu, nơi đây chỉ trình bày qua nhiều kinh luận để giúp độc giả tham khảo.
23/10/2019(Xem: 6296)
Cách đây hai mươi mấy măm về trước, khi chưa bước vào ngôi nhà Phật Pháp.... ( chưa quy y Tam Bảo ) không hiểu sao hai vị Phật tôi thường cầu nguyện và được sự linh ứng nhất là Đức Quán thế Âm Bồ Tát và Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và đặc biệt trong 12 đại nguyện của Phật Dược Sư tôi chỉ thích đọc đi đọc lại nguyện thứ ba, thứ sáu, thứ bảy và thứ tám vì có lẽ lúc ấy tôi chỉ biết lo cho tấm thân làm người nữ và những bịnh tật đau nhức dai dẳng đeo đuổi mãi không thôi.
13/10/2019(Xem: 11220)
Người tu Phật ai ai cũng có đức tin, nhưng nếu không rõ được rành mạch những lịch sử hoặc những hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế nào để thành được một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác và do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các ngài qua tới bờ giác ngạn là Niết Bàn, thì đức tin ấy có khi cũng mơ hồ và có khi cũng lầm lạc. Vì vậy nên tôi không nệ tài hèn học kém, ráng sao lục tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh giác tông (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để đem lại một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người có chí muốn thành một bậc Chánh Biến Tri, hãy noi theo gương lành của các Ngài và thực hành theo mới mong chứng quả được. Trong quyển kinh này có nhiều đoạn hơi khó hiểu hoặc không thể tin được vì oai lực và pháp Ba-la-mật của một vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác nhau vượt qua khỏi trình độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của phàm nhơn. Nên độc giả xem quyển kinh này nên dùng đức tin mà hiểu biết rằng: "Muốn thà
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567