Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Bản chất của Bồ-Đề, giác ngộ, niết-bàn và con đường giải thoát - Tâm Minh

16/05/201313:36(Xem: 2213)
8. Bản chất của Bồ-Đề, giác ngộ, niết-bàn và con đường giải thoát - Tâm Minh


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

BẢN CHẤT
CỦA BỒ-ĐỀ, GIÁC NGỘ, NIẾT-BÀN
VÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

(Thân kính tặng Anh Chị Em Áo Lam)
Tâm Minh

Phiền não đau khổ hay tự tại an vui là ở ngay tại lòng ta không ở đâu xa cả. Khéo tu là đừng chạy theo 6 trần thì sẽ được an vui hay bồ-đề niết-bàn. Vụng tu là buông lung phóng dật, để bị lôi cuốn vào lục dục thất tình, chạy theo 6 trần thì phiền não khổ dau theo sau tức thì.

Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát khỏi khổ đau phiền não, khỏi ba thứ độc tham, sân, si, giải thoát khỏi ngã chấp... để chấm dứt sinh tử luân hồi. Bồ-đề, niết-bàn được coi như là mục tiêu tối hậu của việc tu tập đạo giải thoát. Chúng ta thử tìm hiểu bản chất, cội gốc của bồ-đề, giải thoát và niết-bàn qua các lời dạy của chư Phật, chư Tổ. Vì đã nói đến bồ-đề, niết-bàn tất phải nói đến sinh tử và luân hồi vì đây là một cặp đối đãi. Biết được nguyên nhân của phiền não tất sẽ biết được cửa giải thoát; và đức Phật cũng đã vẽ ra con đường giới định tuệ, dựa trên sự tu tập tám Chánh đạo để giúp chúng ta chặt đứt vô minh, nguyên nhân của đau khổ phiền não và sinh tử luân hồi. Do đó tìm hiểu bản chất của bồ-đề và niết-bàn cũng đồng nghĩa với sự tìm hiểu nguyên nhân của sinh tử luân hồi vậy. Còn giác ngộ là thấy rõ cái ngục tù đã giam giữ mình và người giữ ngục chính là vô minh. Khi kẻ giữ ngục đã bỏ đi (=giác ngộ) thì nhà tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.

Ngài A-nan hỏi đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm: "cái gì là cội gốc của sinh tử luân hồi (STLH) và cái gì là cội gốc của bồ-đề và niết-bàn (BĐNB)? "Chư Phật mười phương đều trả lời A-nan: cội gốc của STLH là 6 căn của ông và cội gốc của BĐNB cũng chính là 6 căn của ông. Tại sao vậy?

Tại vì, nếu khi 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà không biết phòng vệ, lại phóng tâm ra để chạy theo 6 trần thì phiền não khổ đau sẽ theo đó mà kéo tới, đụng đâu thì dính mắc đó, và chính sự dính mắc là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Thế nào là dính mắc? Lấy vài ví dụ trong cuộc sống hằng ngày với sự dính mắc của mắt, tai, mũi, lưỡi... khi tiếp xúc với 6 trần và sự thực hành tám Chánh Đạo để đối trị vì chúng ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài là nhờ 6 cánh cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi...

SỰ DÍNH MẮC CỦA MẮT VỚI SẮC TRẦN

Tại sao đức Phật nói "mắt là biển lớn mà người phải vượt qua." Vì mắt nhìn thì ham muốn liền khởi, tâm liền dao động: ưa-ghét, lấy-bỏ liền hiện ra dưới đủ mọi hình thức. Để đối trị với "các tật của mắt," đức Phật dạy chánh kiến (= thấy đúng với bản chất của sự vật): người phát triển chánh kiến là người biết nhìn mọi sự vật, hiện tượng "như - nó - là" (as it is) nghĩa là nhìn mọi sự việc, hiện tượng dưới ánh sáng của vô thường, vô ngã, không tham đắm, không xua đuổi. Được như vậy, tâm chúng ta sẽ ở trạng thái bình thuờng, không bị khuấy động, đó là ý nghĩa của "giữ tâm ý trong sạch" mà ta thường nói. Nghĩa rốt ráo của chánh kiến vì vậy, là không phân biệt. Tâm phân biệt phát xuất từ ham muốn và si mê. Thật vậy, tâm phân biệt sai sử ta thấy cái này đẹp, cái kia xấu, người này hay kẻ kia dở v..v.. Đúng ra ta phải nhìn thấy cái ngọt của mật ong không tốt hơn cũng không xấu hơn cái đắng của trái khổ qua, con chim bồ câu không đẹp hơn hay xấu hơn con chim se sẻ, hoa hồng thơm không tốt hơn cũng không xấu hơn thùng rác bẩn v. v.. Trong thế gian luôn có sự bất đồng, ta không thể đòi hỏi sự tương đồng; ngược lại ta phải học hỏi từ những bất đồng đó, có những điểm tương đồng bên trong mọi sự vật: đó là tính vô thường, tính "không thực có" (vô ngã) của chúng. Tương tự như vậy đối với con người và những bất đồng về văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm, tư tưởng, tình cảm... của họ. Ngoài ra, ngay trong ta cũng có những cặp bất đồng: an lạc và phiền não; tĩnh lặng và dao động, hạnh phúc và đau khổ v.v.. Chúng ta phải thấy đúng (chánh kiến) là cả hai phần tử trong mỗi cặp dều có cùng một bản chất là vô thường, vô ngã và không đem lại hạnh phúc lâu dài. Sự thật nó là "như vậy" thôi - quan sát cho kỹ tâm ta, ta sẽ rất bối rối khi tự đặt cho mình câu hỏi "cái cảm giác hạnh phúc hay đau khổ ấy có phải là "tôi" hay " của tôi" không ?" Như vậy, bằng thực hành, chúng ta đã áp dụng một chi phần của tám Chánh Đạo, đó là, chánh kiến để điều chỉnh cái thấy lệch lạc theo thói quen của mình.

Chánh kiến giúp ta hiểu biết được sự tương đồng bên trong mọi người, mọi sự vật, hiện tượng, từ đó chúng ta sẽ biết cách cư xử và đối diện với những bất đồng bên ngoài một cách khôn ngoan, không còn ham thuận lợi, ghét trở ngại; ưa hạnh phúc, ghét khổ đau; ưa những người giống mình, ghét những người khác mình v..v.. nữa. Nói cách khác nó giúp ta dần dần có được một cái tâm cân bằng, ta sẽ được an lạc và có khả năng đem an lạc cho mọi người quanh ta. Nói cách khác, khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần- ví dụ mắt tiếp xúc với sắc - mà biết dừng lại, không khởi tâm phân biệt để cho 6 trần dẫn dắt, biết quay về với chân tâm, thì đó là bồ-đề niết-bàn.

Tóm lại: tiếp xúc mà không dính mắc = bồ-đề và niết-bàn. Tiếp xúc mà dính mắc = Sinh tử luân hồi

SỰ DÍNH MẮC CỦA LỖ TAI VỚI ÂM THANH

Tại sao "tai cũng là biển lớn phải vượt qua?" - vì những lời khen tiếng chê, lời qua tiếng lại cũng làm tâm dao động, dính mắc.

Nếu ta chỉ biết nghe những âm thanh mà ta ưa thích thì đó là ta chưa hiểu biết hết cái kỳ diệu của âm thanh: nếu chỉ thích nghe những lời ngợi khen mà rất ghét nghe những lời chê bai thì lỗ tai chỉ làm việc một nửa, vì tất cả mọi âm thanh đều là vui, tất cả mọi âm thanh đều là pháp; những lời nói dữ là thử thách sự kiên định của tâm, là pháp rèn tâm, là pháp điều phục tâm xao động. Như thế, những lời nói dữ chính bản chất nó không dữ mà ta chấp nó dữ vì ta còn vướ?g mắc vào âm thanh, cho nên ta không nhận thấy thật tánh của ngôn ngữ. Quán sát âm thanh đơn thuần là âm thanh thì hiểu được Đạo: những lời khen tự nó không xấu nhưng chấp vào thì nó trở thành độc dược. Khen hay chê đều không thể biến ta thành người khác; khi ta điềm nhiên trước những âm thanh của một người chê bai ta, chưởi mắng ta là ta đã độ được tâm mình, độ được người ấy, mà chính cũng là người ấy đã độ ta. Biết bao nhiêu chuyện đau lòng đã xảy ra trong lịch sử nhân loại về những ông vua chỉ vì nghe lời của nịnh thần mà đã giết lầm tôi trung,con thảo v..v.. cho nên "tai cũng chính là một biển lớn mà ta phải vượt qua"

Chuyện kể hồi Phật còn tại thế, cũng có những người không ưa thích đức Phật vì đố ky?hay hiềm nghi v.v.. Ví dụ như có một hôm một người Bà-la-môn đến "chưởi" Ngài đủ thứ, đức Phật không hề trả lời hay cải chính thanh minh v.v.. ngài chỉ mĩm cười, cái cười từ bi và hỷ xả vốn có của Ngài. Người Bà-la-môn sau khi chưởi "đã cơn" mới hỏi Ngài: sao tôi chưởi ông nảy giờ mà ông không giận ? cũng không chưởi lại?

Đức Phật từ tốn đáp: khi Bạn đem cho ai cái gì mà người ấy không nhận thì bạn phải làm sao?

- Thì tôi đem trở về !

- Cũng thế, nảy giờ bạn đem những lời nhục mạ đến cho tôi nhưng tôi không nhận, xin bạn hãy đem về.

Đức Phật như vậy là ngài không dính, ngài an nhiên tự tại. Những lời nói ấy không làm ngài nổi giận hay cau có, oán hờn người Bà-la-môn, ngài giữ được tâm bất động trước 6 trần (ở đây là thanh trần = tiếng nói, âm thanh)

Còn chúng ta thì sao? Ai nói động tới là xụ mặt xuống liền, ai chưởi mình thì mình đánh họ v.v.. như vậy là để cho 6 trần lôi cuốn, sai sử, vậy là "dính " cứng ngắt rồi, làm sao mà ung dung tự tại được!!!

Do đó, phiền não đau khổ hay tự tại an vui là ở ngay tại lòng ta không ở đâu xa cả. Khéo tu là đừng chạy theo 6 trần thì sẽ được an vui hay bồ-đề niết-bàn; vụng tu là buông lung phóng dật, để bị lôi cuốn vào lục dục thất tình, chạy theo 6 trần thì phiền não khổ dau theo sau tức thì. Ví dụ người khéo tu thì nghe chưởi cũng cười nghe khen cũng cười; người vụng tu nghe khen thì tươi cười hớn hở, nghe chưởi thì liền nổI sân hay oán giận v..v.. Vậy cho nên an hay bất an là do mình. Phật cũng không thể cứu độ cho chúng ta mà chỉ bày phương pháp để dẹp bỏ khổ đau phiền não mà thôi, có áp dụng phương pháp hay không là chuyện của chúng ta!

SỰ DÍNH MẮC CỦA MŨI VÀ LƯỠI

Có thể thấy rõ qua 2 câu của bài "sám nguyện" mà ta đã đọc từ hồi rất xa xưa:

"Mũi ưa ngửi mùi hương bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện điêu ngoa"

Nói cách khác, cái tội của mũi là ham chạy theo những mùi hương làm say đắm lòng người, làm tối tăm trí óc, rồi làm ra những chuyện bất thiện vì lúc đó, không kiểm soát được mình, không còn biết mình đang làm gì. Bởi vậy, tu cái mũi là biết "thở chánh niệm." Thở chánh niệm là "thở vào tôi biết là tôi đang thở vào, thở ra tôi biết là tôi đang thở ra" mà không chú ý đến cái gì khác ngoài hơi thở. Thật là đơn giản nhưng thật sự rất khó làm. Thật vậy, ai đã từng thực tập đếm hơi thở đều thấy rõ; vì nếu thiếu sự chú tâm, tỉnh thức thì sẽ đếm nhầm ngay, đó là chưa nói có thể "suy nghĩ bao la vũ trụ" quên cả việc đếm hơi thở !!! Năng lượng chánh niệm do hơi thở tạo ra sẽ giúp ta an trú trong hiện tại, không tìm về quá khứ, không mơ tưởng tương lai - nguyên nhân của khổ đau, phiền não - Được như vậy, ta sẽ không chạy theo những "mùi hương bất tịnh" nữa. Khi đã có sự kiểm soát hơi thở vững vàng, dần dần ta sẽ điều hoà được những ưa - ghét, lấy - bỏ của 2 lỗ mũi; lúc đó mùi hôi không làm ta khó chịu, ghét bỏ, giận dữ và mùi thơm cũng không còn khả năng lôi cuốn, chiếm giữ và sai sử tâm ta nữa, cảm giác an lạc sẽ đến với những người biết điều hoà hơi thở nghĩa là biết thở chánh niệm.

Còn cái lỗi của Lưỡi là ở trong hai việc ăn và nói. Tham ăn cũng dẫn đến tai hại: dễ bị mua chuộc khi được cho ăn ngon, đưa vào miệng những chất độc mà không biết v..v.. làm hại dạ dày và các cơ quan khác của thân. Vì vậy, tu cái lưỡi là khi ăn ta phải nghĩ là "ăn để sống," thức ăn có tác dụng như thuốc hay, có thể nuôi sống thân mạng mình. Trước khi ăn, ta khởi lên một niệm biết ơn những người đã trực tiếp và gián tiếp lo cho ta bửa ăn này. Khi ăn, ta ngăn ngừa những tật xấu như tham ăn bằng cách nhai thức ăn thật kỹ, không gắp lia lịa dù trong chén đang còn thức ăn, không ăn quá no, không vừa ăn vừa lo lắng, suy nghĩ, giận hờn, phiền muộn v..v.. như thế thì thức ăn mới được tiêu hoá dễ dàng, cái lưỡi mới khỏi mang tội với toàn thân.

"Nói" cũng là "nghề" của lưỡi. Lời nói có thể cứu sống một mạng người cũng có thể giết chết một hay nhiều người, lời nói cũng có thể làm sụp đổ một ngai vàng, có thể mang lại hòa bình cho nhân loại, cũng có thể gây ra chiến tranh v..v.. từ xưa đến nay, từ Âu Tây sang Đông Phương thật không thiếu gì những ví dụ. Những điều này nói lên sự quan trọng của lời nói, trong Tám Chánh Đạo thì đây là chi phần chánh ngữ. Chánh ngữ là không nói những gì sai với sự thật, những lời chia rẻ, những lời căm thù, độc ác mà chỉ nói những lời chân thật và có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hoà giải. Tu cái lưỡi là phải hết sức thận trọng về lời nói của mình, phải "uốn lưỡi bảy lần trước khi nói." Đừng nói trong khi đang giận dữ, vì "giận thì mất khôn," cái lưỡi có thể sẽ "phun" ra những nọc độc bắn vào người khác và sau khi nguôi giận ta sẽ hối hận cả đời v..v..

Chuyện kể đức Thế Tôn sau khi thành đạo trở về thăm gia đình, ngài đã cho La-hầu-la (Rahula) một bài pháp đặc biệt như sau: Này La-hầu-la! Đừng vì bất cứ một lý do nào mà phải nói những lời không chân thật, cho dù nó có đem lợi đến cho mình hay bất cứ một ai. Sự trung thành của mình đối với sự thật là một điều tối quan trọng; nó giữ cho những liên hệ của mình với thế giới chung quanh được dễ dàng và đỡ phức tạp hơn. Thành thật trong lời nói sẽ dẫn đến sự thành thật với chính mình. Trong thân và tâm ta, có biết bao nhiêu chuyện mà ta hằng trốn tránh: những đau đớn bực dọc mà ta không bao giờ muốn nhắc đến, như vậy là ta đã không thành thật với chính mình. Chân thật trong lời nói là căn bản cho sự chân thật trong tâm tưởng. Có thành thật với chính mình ta mới có thể cởi mở tâm mình ra, và nhờ đó mới có thể nhận diện và đối trị với mọi trạng thái bệnh hoạn của tâm hồn.

Đối với Lục Tổ Huệ Năng thì phiền não và bồ-đề không khác, trong phẩm thứ 2 của kinh Pháp Bảo Đàn(Phẩm Bát-nhã) Ngài Huệ năng nói: "Này thiện tri thức!Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề."

Thoạt mới nghe, tưởng như Lục Tổ nói khác với kinh Lăng-nghiêm nhưng kỳ thực không hề khác, ngài còn nói tiếp: Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm, dụng khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi bản tâm khiến 6 thức ra 6 cửa đối trong 6 trần không nhiễm, không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là tự tại giải thoát, gọi là vô niệm hạnh. Này thiện tri thức! Người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều không; người ngộ được vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật" Như vậy Lục Tổ cũng dạy một điều "dính mắc là sinh tử luân hồi mà không dính mắc là Bồ-đề niết bàn" vậy.

Theo Kinh A-hàm, hình ảnh sự dính mắc của 6 căn vào 6 trần là hình ảnh một chú khỉ bị mắc bẫy: miệng cạp trái cây bị dính cứng ngắt không nhả ra được, dùng thêm 2 tay đẩy ra cũng bị dính, dùng 2 chân gỡ:

dính luôn, rồi cuối cùng dùng cái đuôi phụ vào cũng bị dính nốt ! Thế là chú khỉ như bị treo lên, không còn tự do chạy nhảy leo trèo nữa, chỉ chờ người đến bắt! Tương tự, người bị dính mắc theo 6 trần cũng y như chú khỉ này, mãi trôi lăn trong cái bẩy sinh tử luân hồi không thể giải thoát đưọc.

Tóm lại, con đường dẫn đến Giác Ngộ Giải thoát là con đuờng thu thúc 6 căn (mắt, tai mũi, lưỡi v.v. . .) để khi tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị. . . ), không trôi theo 6 trần, không dính mắc vào 6 trần, luôn luôn tự tại trước ngoại cảnh. Đó chính là con đường chiến thắng chính mình, chiến thắng 10 "con ma" bên trong mình; 10 con ma mà thái tử Tất-đạt-đa trước khi trở thành đức Phật Thích-ca đã phải chiến thắng, đó là: nhục dục, nản chí, đói khát, ái dục, dã dượi & hôn trầm, sợ hãi, hoài nghi & ngoan cố, chiếm đoạt, tự phụ & khinh thường người khác.

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/01/2015(Xem: 7997)
DƯỚI GỐC CÂY NÀY, NẾU TA KHÔNG ĐẮC ĐẠO VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ, DẦU CHO TAN THÂN NÁT THỊT QUYẾT KHÔNG ĐỨNG LÊN. Lời nguyện vĩ đại trên Đức Phật đã đánh đổ tất cả thành trì, vương tước và khước từ cuộc sống vị kỷ, hạn hẹp tình vợ chồng con cái trong chốn nhung lụa, giàu sang của hoàng tộc. Lời nguyện siêu tuyệt trên Đức Phật đã băng rừng, lội suối trải qua bao gian khổ, nhọc nhằn hiểm nguy để tìm ra chân lý giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài.
24/12/2014(Xem: 15605)
Bộ tranh cuộc đời Đức Phật Buddha life story
19/01/2014(Xem: 7717)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
16/12/2013(Xem: 21922)
Viết xong cuộc đời ngài Tôi bần thần, dã dượi Sinh lực tổn hao Như thân cây không còn nhựa luyện Như sức ngựa đường dài Hoàn tất cuộc lữ trình lên đến đỉnh đồi cao Ôi! Tôi đã chạy đuổi chiêm bao Muốn vói bắt mảnh trăng trời nguyên thuỷ
08/12/2013(Xem: 5304)
Con người sở dĩ có một vị trí đặc biệt trong các chủng loại động vật, là nhờ có một nhận thức về tư duy và có một tâm thức về linh học. Từ khi con người hiện hữu trên tinh cầu, vấn đề nhận thức được hoàn thiện từ sơ cơ cho đến tinh tường là nhờ trao đổi thông tin, giao tiếp và xử lý nhiều vấn nạn.
26/10/2013(Xem: 51991)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/06/2013(Xem: 8062)
Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
18/05/2013(Xem: 5714)
Trong kinh điển Pāli không có dấu hiệu nào cho thấy Đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả(26)của H.W. Schumann, là một luận điểm võ đoán, nếu không nói là chưa phản ánh đúng sự thật lịch sử. Gần mười năm trước, lần đầu tiên tiếp cận tác phẩm Đức Phật lịch sử(1)của H.W. Schumann qua bản dịch của cô Trần Phương Lan, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là sự kính phục về độ uyên bác của tác phẩm cũng như sự dấn thân khoa học của bản thân tác giả. Lời giới thiệu tác phẩm của HT.Thích Thiện Châu trong bản dịch tiếng Việt cũng đồng quan điểm này, khi ngài cho rằng: H.W. Schumann đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của Đấng Giác Ngộ như một người sống thật trong khung cảnh thật của Ấn Độ cổ đại, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H.W. Schumann về Đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về Đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào
10/04/2013(Xem: 7167)
Trong các buổi lễ tụng kinh cầu an, chư Tăng cũng như những người cận sự nam - nữ không thể thiếu bài kệ "Jayamangalagàthà - Bài kệ Hạnh phúc thù thắng". Bởi vì bài kệ này tán dương, ca tụng oai lực của Ðức Phật đã cảm thắng tám trường hợp xảy ra vô cùng khó khăn. Mỗi trường hợp Ðức Phật vận dụng mỗi pháp, không những để đối trị mà còn làm cho đối phương cảm phục phát sanh đức tin xin quy y nơi Tam bảo.
08/04/2013(Xem: 8106)
Cùng với thời gian vô cùng tận, không gian vô biên tế, cái đẹp cũng tồn tại với một ý nghĩa rất bao la mà con người khó có thể khám phá cho thật tường tận bằng tri thức của mình. Cuộc đời đức Phật là cả một lịch sử hùng tráng hướng đến tìm kiếm cái đẹp và xây dựng lý tưởng cái đẹp trong cuộc đời. Giáo lí được Ngài thiết lập là một hệ thống mỹ học thể nghiệm nội tại, có ý nghĩa vô cùng phong phú đối với đời sống nhân sinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567