Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật - Thích Nữ Liên Hòa dịch

16/05/201313:35(Xem: 2488)
6. Khái niệm giác ngộ trong đạo Phật - Thích Nữ Liên Hòa dịch


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

KHÁI NIỆM GIÁC NGỘ TRONG ĐẠO PHẬT

S. K. Nanayakkara
Thích Nữ Liên Hòa dịch

Đức Phật là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do vậy những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật (buddh nubuddh).

Thuật ngữ "Bodhi" bắt nguồn từ ngữ căn "budh" (thức tĩnh)1hàm nghĩa là trí tuệ (–  ?a), giác ngộ hay trí tuệ mà Đấng Giác Ngộ, (Đức Phật) đạt được.2Thông thường, Bồ-đề bao gồm bảy pháp tu tập đưa đến Giác ngộ (P li, Bojhaơ ga; Skt. Bodhyaơ ga, Thất Giác chi) và sự chứng đắc giác ngộ thông qua các nguyên lý dẫn đến sự chín muồi của tỉnh thức. (P li, bodhipakkhik -dhamm hoặc bodhi-p can -dhamm ; Skt. bodhi-pak?y -dharma). Bên cạnh đó, trong ý nghĩa đặc biệt của giác ngộ, thuật ngữ "Bồ-đề" (Bodhi) còn được dùng để nói đến sự giác ngộ của chư Độc Giác Phật.3Đôi khi, thuật ngữ sambodhi(sự giác ngộ viên mãn)cũng được dùng diễn đạt sự giác ngộ của Đức Phật, chư Độc Giác Phật, và các vị A-la-hán. 4Tuy nhiên, trong trường hợp để phân biệt sự giác ngộ của chư Phật Độc Giác và các vị A-la-hán, thuật ngữ abhisambodhi (Vô thượng đẳng giác) và samma-sambodhi (chánh đẳng giác) được dành chỉ riêng cho giác ngộ của Đức Phật.

Tam tạng Nik ya cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải thích ý nghĩa chuẩn xác thuật ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo Saị yutta-Nik ya,5bồ-đềchính là đạt được trí tuệ về Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu (Tứ Thánh Đế). Mặt khác, giác ngộ là con đường6(có nghĩa là Tám Con Đường Chân Chánh). Giác ngộ được giải thích như là sự thấu suốt bốn điều chân thật cao quý, đó là Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu.7

Chứng đạt giác ngộ là thể nghiệm cá nhân và vì vậy chỉ có người đạt ngộ mới thấu triệt bản chất và ý nghĩa của giác ngộ. Lại nữa, nhiều đoạn trong Nik ya đã lý giải sự chứng quả giác ngộ của Đức Phật cũng như nội dung của chứng ngộ.8

Có hai vấn đề được đưa ra: Thứ nhất, giác ngộ được mô tả một cách bình dị chính nhờ vào công phu thiền định đã mang lại ánh sáng chân lý sau thời gian dài chịu thử thách và lạc lối. Thứ hai là cách trình bày sinh động về cuộc ác chiến quyết liệt giữa Bồ-tát với Ma vương, cuối cùng Bồ-tát đã chiến thắng Ma vương và chứng quả Chánh Đẳng Giác.9

Hai cách diễn đạt này cho thấy rõ: cách thứ nhất diễn đạt là lúc ban đầu và cách diễn đạt thứ hai là thần thoại hoá sau này, có lẽ cách diễn đạt sau này để cố gắng trình bày tượng trưng cuộc chiến đấu nội tâm của Bồ-tát ngay trước giờ phút thành Chánh Giác.

Những cứ liệu văn bản sớm nhất cho rằng thái tử Sĩ-đạt-ta (Siddhattha Gotama) thoát ly đời sống gia đình với mục đích duy nhất là chấm dứt hiện hữu luân hồi vốn chứa đầy đau khổ.10Trải qua thời gian khá dài trong thử thách và đi sai đường, cuối cùng Ngài liễu tri trọn vẹn nguyên nhân của tất cả đau khổ trong đời và thấy rõ con đường đưa đến chấm dứt mọi đau khổ ấy. Chính sự nhận thức thấu đáo này được gọi là giác ngộ.11

Từ các cứ liệu kinh điển nguyên thuỷ, chúng ta hoàn toàn thấy rõ Đức Phật đạt đến đỉnh cao nhất của trí tuệ chính là do đoạn trừ mọi lậu hoặc ( savakkhaya-–  ?a).12Hai loại tuệ giác khác đó là tuệ giác biết được nhiều kiếp trước của mình và chúng sanh (P li, pubbeniv s nussati-–  ?a; Hán-việt dịch làtúc mạng minh) và tuệ giác biết được hiện tượng sanh và diệt của chúng sanh (P li, dibbacakkhu-–  ?a; Hán-việt dịch là thiên nhãn minh) là những bước chứng ngộ đầu tiên. Trong nhiều kinh điển, giây phút chứng ngộ này được minh hoạ như đoạn văn dưới đây: " Với tâm định tĩnh ta hướng tâm đến trí tuệ đoạn trừ mọi lậu hoặc ( sav naị khaya–  ? ya cittaị abhinin mesiị ).Ta nhận chân: đây là khổ (dukkha), đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự đoạn diệt khổ, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ. Ta nhận chân: Đây là lậu hoặc..., đây là tiến trình đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm ta thoát khỏi mọi lậu hoặc của dục ái (k masava), hữu ái (bhav sava) và vô minh ái (avijj sava). Khi tâm được giải thoát, ta biết rằng ta được giải thoát, và nhận thức: sanh đã tận (kh? ? j ti), phạm hạnh đã thành (vusitaị bramacariyam), việc nên làm đã làm (kataị kara? ? yaị ), không còn trở lại đời sống nầy nữa"(n paraị itthatt ya).13Sau khi tâm giải thoát khỏi vô minh, nguồn gốc của tất cả khổ và tái sanh, tuệ giác đoạn trừ các lậu hoặc trở nên viên mãn. Kể từ khi Bồ-tát Gotama chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài được tôn xưng danh hiệu là Bậc Giác Ngộ, Đức Phật.

Kinh điển Nguyên Thủy không quan niệm rằng thuật ngữ bồ-đề (bodhi) chỉ dành riêng cho Đức Phật. Tất cả những vị đã vượt ra ngoài cơn lốc xoáy của sanh tử, đạt được lậu tận trí ( savakkhaya-–  ?a) đều được gọi là Bậc Giác Ngộ và cũng còn chỉ cho những vị đã đoạn trừ được các lậu hoặc (kh? ? sava)hay còn gọi là những vị A-la-hán. Đức Phật đạt đến cực điểm của tiến bộ tâm linh ngang qua chứng ngộ quả vị A-la-hán. Ngài là vị A-la-hán đầu tiên và cũng được xem như những vị A-la-hán khác.14Chứng quả giác ngộ trước những vị khác, Ngài đi tìm lại con đường mà nó đã mất dấu quá lâu trên cõi đời.15Vì vậy, Ngài là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do đó những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật (buddh nubuddh ).16

Từ thời xa xưa đã có những nỗ lực phân biệt sự giác ngộ của Đức Phật khác với sự giác ngộ của chúng đệ tử của Ngài. Có lẽ vì mục tiêu này mà sự giác ngộ của Đức Phật đã được xem là sự giác ngộ viên mãn nhất (anuttara-samm -sambodhi). Cùng với việc mở rộng khái niệm "Đức Phật," nội dung giác ngộ của Đức Phật cũng trải qua nhiều thay đổi. Vì vậy người ta cho rằng mặc dù Đức Phật và chư vị A-la-hán đều chứng đạt tam minh (tisso vij ) nhưng tam minh của Đức Phật vẫn khác với chư vị A-la-hán. Tuệ giác của Đức Phật được cho là do thành tựu từ nhiều phương diện. Ngài đã đạt được lục thông (cha?abhi– –  ), thập lực (dasabala), tứ vô sở uý (catu-ves rajja), v.v... . Ngài đã thuần thục các pháp đưa đến giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Sau càng về sau Ngài được tôn là Đấng Toàn Trí (sabba– – u). Tất cả những đặc điểm biểu trưng này được xem như phần nào về sự giác ngộ của Đức Phật.17

Chính vì nội dung của giác ngộ thay đổi làm cho quan niệm về con đường đưa đến giác ngộ dường như cũng có một vài biến đổi. Các cứ liệu kinh điển Nguyên Thủy mô tả về sự chứng ngộ quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Phật, sau khi từ bỏ hai cực đoan là tham đắm ngũ dục lạc (k masukhallik nuyoga) và khổ hạnh ép xác (attakilamth nuyoga), Ngài đi theo con đường trung đạo (majjhim paỉ ipad ), tu tập giới (s? la), định (sam dhi) và tuệ (pa– –  );chính con đường Trung đạo này đã đưa Ngài đến giác ngộ. Cũng có một số cứ liệu kinh điển trình bày nhiều phương tiện chứng đạt giác ngộ theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn trong Samyutta Nik ya,18có đoạn viết: chính do sự tu tập đạt được bốn thần thông (iddhi-p da), Đức Như Lai được tôn xưng là một vị A-la-hán, một vị giác ngộ?viên mãn. Ở một đoạn khác trong kinh Tương ưng, tu tập bảy pháp giác ngộ được xem là nhân, là duyên đưa đến quả Giác Ngộ.19Những bản kinh sớm hơn không đề cập lại các pháp tu tập căn bản hướng đến Giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Về sau, số lượng các pháp tu tập then chốt này được tăng lên ba mươi bảy hoặc bốn mươi ba. Cho đến sau này, cùng với đà phát triển của trường phái Đại thừa, lục ba-la-mật (p ramita) và thập địa (Bh‰ mi) cũng được xem là những nhân tố thiết yếu đưa đến quả giác ngộ.20

Chứng đạt giác ngộ cũng đồng với chứng đạt Niết-bàn. Đây là mục đích mà tất cả những vị đoạn trừ hết thảy mọi lậu hoặc ( sava) dù là Chư Phật, chư Phật Độc Giác, hay các bậc giác ngộ sau giác ngộ của Đức Phật. Phật giáo Nguyên Thủy (Therav da) không buộc chúng ta trở thành Phật để chứng đạt Niết bàn nhưng chủ yếu chủ trương đoạn trừ các lậu hoặc để đạt Niết-bàn. Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng có ba bậc giác ngộ: Chư Phật, Độc Giác Phật, các vị giác ngộ sau Đức Phật hay còn là chư vị A-la-hán. Nhưng lý tưởng này không được xem như như ba lý tưởng khác nhau mà những vị theo Thượng Toạ Bộ theo đuổi như là sự lựa chọn của mình. Tuy nhiên, sau này cùng với trào lưu phát triển của Phật giáo Đại Thừa và khái niệm Bồ-tát, các quả vị này được tuyên bố dứt khoát là ba giai đoạn tu tập tâm linh khác nhau đưa đến ba bậc giác ngộ khác nhau là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anutara-samyaksambodhi), Duyên Giác (pratyekabuddha-bodhi), và Thanh Văn Giác (? r vaka-y na) để đối lại với ba quả vị giác ngộ này, Tam thừa đã được thành lập, đó là Bồ-tát thừa (bodhi-satva-y na),21Duyên Giác thừa (pratyekabuddha-y na) và Thanh Văn thừa (? r vaka-y na). Hai thừa sau được xem như thấp hơn nhiều so với Bồ-tát thừa.

Khi Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại Thừa truyền bá rộng rãi đến nhiều nước khác, các quan điểm và giáo lý đã bị thay đổi nhiều để phù hợp với niềm tin và quan niệm riêng biệt của mỗi nước. Kết quả là nội dung và bản chất của giác ngộ cũng thay đổi ở mức độ nào đó. Các trường phái Phật giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản đã trình bày thêm nhiều quan niệm khác liên quan đến bản chất giác ngộ và con đường đạt đến giác ngộ. Ví dụ, một mặt, Phật giáo Thiền dạy rằng giác ngộ đạt được nhờ sự tuệ tri về bản chất của hành giả (kiến tánh thành Phật). Mặt khác Phật giáo Tịnh Độ cho rằng đạt được giác ngộ thông qua sự tế độ của Đức Phật A-di-đà. Phật giáo Thiên Thai kể ra năm mươi hai giai đoạn hành giả phải vượt qua trước khi đạt giác ngộ viên mãn. Một số trường phái cho rằng chứng đạt giác ngộ phải tu tập từng bước (tiệm ngộ), trong khi đó một số trường phái khác lại cho rằng chứng đạt giác ngộ là sự trực ngộ nhanh chóng (đốn ngộ). Chính sự khác nhau này đưa đến việc hình thành hai trường phái thiền Phật giáo riêng biệt.

***

[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Bodhi" trong Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism), tập III, do giáo sư G.P. Malalasekera làm tổng biên tập. Ceylon: The Government Press, 1971, trang 178-180]

Chú thích:

1.Bodhin- manas: Rg – veda, v. 75. 1. viii, 82, 18.

2.Trong ngữ cảnh này ‘trí tuệ’ có nghĩa là thấy rõ được bản chất thật của các pháp (yath bh‰ ta–  ?a).

3.Xem thêm các thuật ngữ pacceka – bodhi(J. III, tr. 348; trong SnA. tr. 73 dùng để phân biệt với thuật ngữ samm - sambodhi) và pacceka – bodhi - –  ?a (J. IV, tr. 114). Điều đáng lưu ý là thuật ngữ s vaka – bodhikhông thấy xuất hiện trong kinh điển P li và văn học sớ giải mặc dù thuật ngữ Sanskrit tương đương là ? ravaka – bodhiđược dùng phổ thông trong các bản văn Sanskrit Phật giáo. Ghi chú trong DA.I, tr. 100 có liệt kê ba cấp độ trí tuệ: Trí tuệ Thanh văn (s vaka-p ram? -–  ?a), Trí tuệ Độc Giác Phật (pacceka-buddha-–  ?a), Trí tuệ của Phật (sabba– – uta-–  ?a). Đôi khi, thuật ngữ bodhicũng được dùng để chỉ cho trí tuệ cao tột của người tu khổ hạnh (ví dụ như trong J. V, tr. 229-230).

4.Rhys Davids cho rằng thuật ngữ này tuyệt nhiên không có nghĩa là trí tuệ của Đức Phật mà nó luôn luôn chỉ cho tuệ quán ở trạng thái cao hơn bậc Arahant (Dialogues, I, tr. 190 vctkt). Tuy nhiên, quan điểm của ông không chấp nhận cách giải thích các dữ kiện liên quan đến nguyên bản (xem thêmS. I, tr. 181; M. I, tr. 17, 163; Sn. kệ. 693, 696).

5.Saị yutta Nik ya(Tương Ưng Bộ Kinh), tập V, tr. 423.

6.Bodh? ti maggo (con đường giác ngộ): M.A. I, tr.54; VinA. I. tr. 139.

7.Xem thêm I. B. Horner, Early Buddhist Theory of Man Perfect, London, 1936, tr. 34 vctkt. VàVbhA. tr. 310.

8.Có nhiều đoạn trong kinh mô tả các vị đệ tử của Đức Phật chứng quả Giác ngộ. Trong Thera andTheri - g th (Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ)cũng có rất nhiều đoạn mô tả như vậy.

9.M. I., tr.160-161., 240-241; Sn. Kệ 425- 49; xem thêm Lal. tr. 218 vctkt., Mhvu. II, tr. 238).

10.dukkha:M. I, tr. 163; A. I, tr. 145; S. II, tr. 104; III, tr. 65.

11.M. I, tr. 167.

12.Trong kinh Ariyapariyesana (M.I, tr. 163) không sử dụng thuật ngữ đặc biệt này, tuy nhiên ý tưởng đã diễn đạt ý nghĩa quan trọng của nó.

13.M.I. tr.23, 249.

14.Vin. I, tr. 14

15.S. II, tr. 105; V, tr. 160-161; M. III, tr.8.

16.Liên quan đến sự khác nhau giữa Đức Phật và các vị A-la-hán.

17.Xem ERE. II, tr. 740.

18.M.V, tr. 127-128.

19.S. V, tr. 127-128.

20.Liên quan đến lời giải thích Bodhi của Mật Tông.

21.Những quan niệm này về sau được trường phái Nguyên thủy Phật giáo (Therav da Buddhism) công nhận. Dường như nó được giới thiệu vào Phật giáo Tích lan trong thời kỳ Polonnaruwa, trong suốt thời gian đó, đông đảo Phật tử của Đại thừa Phật giáo cũng đã tìm ra hướng đi cho chính họ.

--- o0o ---




--- o0o ---

Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2023(Xem: 11692)
Kinh Ma-ha Ca-diếp độ bần mẫu1 kể lại câu chuyện rất thú vị về một bà lão nghèo, nhờ cúng dường ngài Ca-diếp một chút nước cơm mà được sinh về cõi trời Đao-lợi. Phước cúng dường ấy còn lớn lao đến mức hiện thành hào quang sáng rực như bảy mặt trời đồng thời soi chiếu, khiến cho vị vua cõi trời ấy là Đế-thích cũng phải kinh ngạc. Và sau khi tìm hiểu biết được nhân duyên cúng dường được phước lớn lao này, đích thân Đế-thích cùng phu nhân của mình đã phát tâm hiện xuống cõi người, hóa thân thành một đôi vợ chồng già nghèo khổ để được có cơ hội cúng dường lên ngài Ca-diếp, vun bồi thêm phước báu của chính mình.
15/03/2023(Xem: 2888)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai. Không phải đức Phật bằng xương bằng thịt đã đến hai lục địa đó lúc Ngài còn tại thế. Nhưng đó là một câu chuyện vô cùng thú vị về một hiện tượng lịch sử đã được sử sách nói đến cách nay cả ngàn năm.
23/02/2023(Xem: 3036)
Hạnh phúc thay ngày Phật xuất gia Vì thương cứu độ cõi Ta Bà Đâu màng điện ngọc cùng châu báu! Nỡ đắm con xinh đến tháp ngà! Thử ngẫm ai hoài mà chẳng bệnh! (*) Xem chừng kẻ sống mãi không già! (*) Quần sanh chuốc nạn đều chưa rõ Pháp thế lưu tồn giúp khổ qua.
04/01/2023(Xem: 1502)
Trên hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, kể từ đêm khuya ấy, một ánh Sao Mai âm thầm tỏa sáng trên bầu trời phương Đông, báo hiệu một bình minh hy vọng trước một kỷ nguyên mới của văn minh nhân loại, thời trục văn minh được khởi phát từ những nguồn minh triết Đông-Tây. Hai mươi lăm thế kỷ tiếp theo, dòng lịch sử nhân loại trôi đi trong máu lửa với những cuộc chiến khốc liệt tranh quyền thống trị thống nhất đất nước, tranh quyền bá chủ thế giới, cùng với những cuộc chiến tranh tôn giáo kéo dài hằng trăm năm, tranh quyền thống trị Thiên quốc trần gian.
26/12/2022(Xem: 1815)
Đặc biệt năm nay Ngày Phật Thành Đạo mùng 8 tháng 12 âm lịch lại đến trước ngày Tân niên 2023 đúng hai ngày tức là rơi vào ngày 30/12/2022 . Còn nhớ vào một sớm sao mai mọc cũng là lúc Ngài hoàn toàn chứng được Tam minh, thành tựu Chánh đẳng Chánh giác và thành Phật với danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Năm ấy Ngài 35 tuổi, ngày mùng 8 tháng Chạp năm 584 trước Tây lịch. Trộm nghĩ có lẽ ai đã là Phật Tử đều phải xem Lễ Thành Đạo là ngày lễ quan trọng nhất, long trọng nhất trong tất cả những ngày lễ khác. Vì sao vậy ?
21/12/2022(Xem: 1618)
Kính lạy Đức Thế Tôn, Hôm nay ngày cuối năm Trời mùa Đông giá lạnh Vạn vật như chuyển mình Bước sang mùa Xuân mới Ngày Thế Tôn thành Đạo Khắp Trời Người cùng vui
21/12/2022(Xem: 2051)
Khi Thái tử Sĩ-đạt-ta từ bỏ hoàng cung giữa đêm khuya, vượt thành, cắt tóc xuất gia, khoác áo sa-môn, trải qua những tháng năm dài lên đường tầm sư học đạo. Đầu tiên ngài đến với vị đạo sĩ thời danh là Alàràma Kàlàma. Không bao lâu, Ngài đã thâm nhập những áo nghĩa của thầy và thực tập thiền định đến cảnh giới Vô sở hữu xứ (Akincannayatana) là từng định thứ ba của cõi trời Vô sở hữu. Đây là dạng an định bằng một kỹ thuật trực giác, hay còn gọi là Thiền Cảm giác; còn định còn an lạc, hết định thì trở lại trạng thái đời thường. Không chứng ngộ được chân lý tối hậu về sự nhàm chán, lìa bỏ luyến ái vô minh, chấm dứt mọi đau khổ. Cũng như sự tỉnh thức mọi lúc mọi nơi để đạt đến Niết bàn tịch tịnh.
20/12/2022(Xem: 1681)
Kính lạy Đấng Thế Tôn Cho con nguồn diệu pháp Giữa trần gian rối loạn Với bao những khổ đau Khó nơi nào tránh được May thay có Tăng Đoàn Trưởng tử của Như Lai
20/12/2022(Xem: 1255)
Xuân vận hành giữa Hạ và Đông, nghĩa là hội tụ và hóa giải khí tiết giữa hai mùa. Chính những tố chất ấy, mùa Xuân xem là mùa đẹp nhất trong năm, ươm mầm cho muôn hoa đua nở, cây cối đâm chồi nảy lộc, vì thế người dân đi lễ chùa bẻ cành hái hoa để xin “lộc” đầu Xuân. Xuân bắt đầu được tính từ ngày 4 tháng 2 hoặc ngày 5 tháng 2 Dương lịch gọi là “lập Xuân”. Khí tiết đã âm ỷ từ Thiên tượng âm dương đất trời khi tinh cầu vận hành quanh thái dương hệ.
09/03/2022(Xem: 6653)
Gần 6 năm nay từ khi hiểu được phần nào Giáo pháp của Đức Thế Tôn qua sự giáo truyền của những bậc danh tăng VN thời hiện đại của thế kỷ 20 và 21 con vẫn thầm khấn nguyện vào những ngày đại lễ của Đức Phật và các vị Bồ Tát sẽ dùng những lời thơ, bài viết ngắn diễn tả được niềm tịnh tín bất động của con hầu có thể cúng dường đến quý Ngài. Phải nói thật bất tư nghì ...không biết nhờ Chư Thiên Hộ Pháp hộ trì chăng mà con đã được các bậc hiền trí giúp đỡ một cách thuận duyên trong những năm sau này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567