Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Siêu người máy có Phật tính không?

10/03/201818:27(Xem: 5332)
Siêu người máy có Phật tính không?

 

nguoi may
Siêu người máy có Phật tính không?

 

Lê Huy Trứ

 

Tham vọng và luyến ái của con người vô biên.  Nhân loại muốn làm chúa tễ của vũ trụ, và chúng ta đang cố tâm làm chủ tiến hóa hay nói theo thần quyền là cố tình cướp quyền tạo hóa để chế tạo ra thượng đế (God), ra Phật, và có thể tạo ra siêu quái với sức mạnh siêu nhân, thần thông quảng đại có khả năng, thăng thiên, độn thổ, biến hóa khôn lường, di sơn hải đảo, thay đổi lịch sử, định đoạt tương lai theo ý muốn, vì chúng ta “không chấp tử.”

 

“Còn không” chấp tử thì “hết có” chấp sinh, đó là giải thoát khỏi sinh-tử-sinh.

 

Những kỳ vọng trên cũng dễ dàng thôi chỉ cần giác ngộ rốt ráo là có ngay. 

  

Rồi sẽ có một ngày, một là con người phải giải thoát robots khỏi khổ đau bởi software vô minh đó hay robots phải tự giải thoát những vô minh không cần thiết ấy bằng phương cách giác ngộ coding.

 

Nhưng khi mà con người trở thành một loại siêu giống, “superhumen,” trở thành kim cương bất hoại, có thể đi xuyên qua vật chất thì những siêu nhân này vẫn cần tới, và lệ thuộc vào những sáng tạo lỗi thời như là robots, TV, computers, smartphones, xe bay, tiền giấy, bất động sản, nhà banks, làm việc, y phục, sắc đẹp, sức khỏe, bác sĩ, nha sĩ, thầy giáo, ăn uống, ngủ nghĩ, vệ sinh, phế thải chất cạn bả, ái dục, hạnh phúc,... để phục vụ cho những nhu cầu, đòi hỏi quá ư tầm thường, và để thỏa mản cho những thú tính của nhục thể đầy tánh human phàm tục đónữa không?

 

“Siêu trí tuệ”  biết mình là siêu nhân (Superman), có Phật tính, vậy mà vẫn cố tâm chui vào cái túi da bầy nhầy, đầy vi khuẩn, dơ bẩn, và rác rưới nầy làm gì nữa?

 

Hay nhân sinh chẳng qua chỉ là những siêu máy (super robots) trở nên quá thông minh nên quên phức cái bản lai diện mục của chính mình trước khi “cha mẹ máy móc sinh” ra là gì?  

 

Rồi thì từ đó, tự “tâm máy” sáng tạo ra đau khổ (suffering) để cho “máy Ta” trông tưởng giống như “người máy” thật?

 

Vì vô tình nhầm lỡ hay biết mà vẫn cố tâm xâm phạm chui vào cái túi da người? 

 

“Cái gì” có chủ quyền chui vào, chui ra mà không xin phép cái túi da đó?

 

“Đứa nào” kém thông minh đã sáng chế, cấu tạo ra cái túi da người đần độn, xấu xí, dơ bẩnvới nhiều trở ngại, yếu đuối không bền lâu đó để rồi tự chính nó hay ai đó biết như vậy mà cũng cứ cố tình chui vô, chui rarồi thìrên lên vì sung sướng cũng như rên rỉ vì bị đau khổ,rồi thì nó cố công đi tìm phương cách thoát thân, giác ngộ?

 

Vì nhân loại được cấu tạo vô thập toàn, nhân sinh bây giờ cũng mới nhận ra là “tạo hóa” cũng không hoàn toàn.  Cho nên con người trở nên thông thái, nhất là sáng dạ, khôn ra hơn tổ tiên thuở xưa.Nhân sinh bây giờ vì quá văn minh tiến bộ nên cố tâm cướp quyền tạo hóa để tự cải tiến chính mình.

 

Càng văn minh, con người càng không còn bị ràng buột trong vòng tiến hóa (evolution) để thích hợp với thay đổi của thiên nhiên như những chúng sinh vật khác trên trái đất nữa.  Chúng ta trở nên “chậm tiến hóa tự nhiên ” và tùy thuộc gần như hoàn toàn vào khoa học nhân tạo để thăng tiến và sống còn như “người” khỏe mạnh và hạnh phúc.

 

Trên thực tế, chúng ta đã ở ngoài cương tỏa của cái vòng “tiến hóa thiên nhiên” này từ hơn cả ngàn năm rồi cho nên chúng ta không còn “tiến hóa tự nhiên” nữa mà đã biết dùng trí thông minh và văn minh khoa học lẫn y học để tiến hóa tùy tâm ý?

 

Tưởng cũng nên bàn qua một chút về cái bản mặt của con người (văn chương  Hán Việt, văn hoa gọi là bản lai).

 

Khác với chế tạo ra cái máy, con người khi chế tạo ra người máy thì họ bắt đầu chú trọng đến khía cạnh thẩm mỷ, cái khuôn mặt của máy làm sao cho nó đẹp giống như người với tai, mắt, mủi, miệng, nhưng chưa cần chế ra cái lưởi không xương lắc léo.

 

Chúng ta sáng tạo người máy qua hình ảnh của chính chúng ta cũng như chế tạo ra computers qua lối suy nghĩ logic trong não bộ của con người dĩ nhiên là với mục đích để phục vụ nhu cầu văn minh của chúng ta chứ không phải để người máy thờ phượng, vinh danh, van xin, cầu nguyện hay phải yêu thương, hy sinh, cúng dường đấng sáng tạo ra chúng nó. 

 

Đương nhiên, người máy dù thông minh, giống hệt như người cở nào cũng không được liệt vào giai cấp nhân loại hay chúng sinh.

 

Đối với con người, cái bộ mặtvới ngũ quan rất quan trọng.  Cái mặt là căn cước để nhận diện, độc nhất vô nhị của mỗi cá nhân.  Nó là diện mục của cái ngã độc tôn rất đặc thù (unique) của chúng sinh.

 

Thật vậy, nếu vứt bỏ cái mặtđi, hay cái mặt không có mắt, không có mũi, không có miệng thì tất cả những gì còn lại trên thân thể sẽ vô dụng và cũng không có nghĩa lý gì nữa.  Những người quen biết ta, ngay cả người phối ngẫu và con cháu chúng ta sẽ không thể nhận diện được ta nếu ta không có cái bản mặt để đối chiếu. 

 

Không có mũi để thở, không có miệng để ăn, không có gương mặt để thương, không có bộ mặt để ghét… thì không có cái sự sống thú vị trên đời nữa.  Cõi đời tạm bợ, vô thường này có thật sự đầy thú vịđể cho chúng ta phải cố tâm “bảo vệ thể diện, sợ mất mặt”?

 

“Mất mặt” (mất cái ngã) theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là mất cái căn cước, mất cái tôi, mất cái thể diện để tự ái, sân, si?  Cái mặt (diện mục) còn phản ảnh tâm hồn (bản lai.)

 

Hiện nay, những cái suy nghĩ vô minh phàm tục đầy chấp ngã này chưa “cần thiết” để được con người nghĩ tới và để bỏ nó vào tâm não AI của những người máy (robots.)   Cho đến cái ngày rất gần khi mà chúng ta luyến ái dục với người máy xinh đẹp hơn người đẹp chân dài.  Người máy không cần trường túc vẫn bất chi lao hơn người dễ bị chi lao trên tình trường lẫn chiến trường.

 

Những sáng kiến thương mại để thỏa mãn cái bản chất sát sanh, vàái dục bất thường của tâmngười này chỉ bận tâm tham sân si củanhân sinh chứ không động tâm người máy vì người máy vô tâm, không biết đến hỷ nộ ái ố để khổ đau . 

 

Tuy được đề cập rất nhiều trong kinh sách Phật Giáo nhưng cái Tâm quái gở này vẫn là một công án nan giải, một cái gì đầy kỳ bí, rất khó hiểu. 

 

Có thể, vì “tâm người” còn phan duyên, vọng động trong giới si muội, vì chấp ngã nên chưa thể an định ngụy tâm vì vậy mà “tâm Ta” vẫn cố bám vào tâm vô minh cho nên chưa phát triển nổi trí tuệ để tri kiến được bồ đề tâm.

 

Tâm tự tạo hay được sáng tạo?  Tâm vô sinh, vô diệt?

 

Ta và Tâm tuy hai mà một hay Tâm và Ta tuy một mà hai?

 

Ta là Tâm hay Tâm là Ta?

 

Chuyện gì xãy ra nếu thân ta không có tâm ta hay tâm ta không có thân ta?

 

Và nếu không có Tâm, không có Thân thì Ta có không?

 

Vậy thì trước khi vũ trụ tái sinh, cái chi là bản lai diện mục của Ta?

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2010(Xem: 4247)
Phải chờ thêm 12 năm nữa, cho đến 1871, khi không thể giấu mãi niềm tin chắc của mình, ông mới xuất bản tác phẩm "Thủy tổ của con người". Darwin viết thầm trong Nhật Ký: "Để tránh khỏi phải nói rằng tôi đã trở thành duy vật đến thế, tôi phải nhẹ nhàng trong cách nói, chỉ nói rằng những cảm xúc, những bản năng, những mức độ tài năng, tất cả đều di truyền, bởi vì bộ não của đứa bé giống như bộ não của cha mẹ nó" (18). Ông viết trong thư gửi Karl Marx: Đừng tấn công trực tiếp Thiên chúa giáo làm gì, vô ích đối với quần chúng; "hãy làm giàu trí óc con người bằng tiến bộ của khoa học, chỉ nhờ thế tự do tư tưởng mới phát triển thêm. Và bởi vậy, tôi tránh nói đến tôn giáo, chỉ hạn chế vào khoa học" (19).
16/07/2010(Xem: 8001)
Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.
04/07/2010(Xem: 5212)
1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi ngày làm đẹp thêm nếp sống ấy.
03/07/2010(Xem: 5253)
“Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư.
03/06/2010(Xem: 4133)
"Phải có gì của riêng ta thì mới dung thông được với cái của người. Khi ta không biết ta là ai mà mở cửa đón nhận thì mất luôn cả mình. Điều đáng sợ nhất trong văn hóa VN là đánh mất bản sắc của mình, vậy nhưng, hình như ta còn chưa nhất trí được bản sắc của mình là gì nữa"
21/05/2010(Xem: 4542)
Tôi mới đây được xem bộ phim 'Kẻ trộm sách' của đạo diễn Brian Percival và trong đầu luôn ghi nhớ hình ảnh cô bé xinh xắn, đáng yêu Liesel Meminger nghiêng mình bên trang sách.
20/05/2010(Xem: 4915)
30 tháng 7, 2009 Vấn đề Alexandre de Rhodes chưa thể quên đối với người dân Việt nhất là với giới nghiên cứu vì vài lý do: a- Sau năm 1993 “bia 1941” của A. de Rhodes, được dựng lại tại khuôn viên thư viện Hà Nội và tên đường A. de Rhodes cũng được tái lập tại TP. Hồ Chí Minh/
10/03/2010(Xem: 3853)
Ông Đỗ Trung Hiếu là người Khánh Hòa, nguyên là giáo sư của trường Trung học Bồ Đề Nha Trang. Khoảng năm 1962-1963, Ông xuất hiện trong phong trào tranh đấu Phật Giáo Nha Trang và Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc . Sau đó không ai biết tông tích ông. Sau năm 1975 ông xuất hiện và giữ vai trò trọng yếu trong Ban Tôn Giáo chính phủ. Năm 1990 ông đã được ra khỏi đảng do bất đồng chính kiến. ‘Niềm Riêng’ ở cuối bài Thống nhất Phật giáo nói lên rất nhiều điều.
26/09/2009(Xem: 6317)
Thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch thành lập cơ cấu mới của Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan gồm những thành viên trung kiên theo đường lối dân tộc và Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
15/09/2009(Xem: 6473)
Để đối phó với tình hình khó khăn, bị vu cáo trắng trợn và đe dọa thường trực, Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành Giáo chỉ thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo mới
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567