Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhận Xét Về Bài Trở Về Đạo Phật Nguyên Chất Để Phụng Sự Nhân Sinh Của TT Thích Nhật Từ

22/09/201621:05(Xem: 5440)
Nhận Xét Về Bài Trở Về Đạo Phật Nguyên Chất Để Phụng Sự Nhân Sinh Của TT Thích Nhật Từ

NHẬN XÉT VỀ BÀI

TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT

ĐỂ PHỤNG SỰ NHÂN SINH

CỦA THƯỢNG TỌA Thích Nhật Từ

(Trả lời vấn đáp trong mùa An cư tại Tịnh xá Trung Tâm, ngày 27/5/2014)

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

 

Câu hỏi 5: Hiện tại pháp môn niệm Phật đang rất phổ biến tại Việt Nam cũng như Trung Quốc và Đài Loan. Thượng tọa cũng đã giải thích, để được về Tây phương thì phải loại trừ tham, sân, si, còn đối với một người xuất gia muốn đạt được đến sự giải thoát chắc chắn phải tu tập giới-định-tuệ. Kinh A-di-đà có nói đến cảnh giới Tây phương cực lạc. Con muốn hỏi: Đức Phật A-di-đà có hay không, và khi niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì có được sanh về thế giới Tây phương hay không?

 

Trả lời: Để thảo luận vấn đề này chúng ta nên phân biệt hai khái niệm “Đức Phât lịch sử” và “Đức Phật tôn giáo”.

 “Đức Phật lịch sử” là khái niệm chỉ đức Phật Thích Ca, một con người thật, từ các việc tu tập thật cho nên đã biến thân phàm của mình trở thành bậc tuệ giác đầu tiên trong lịch sử tư tưởng của nhân loại ở tuổi 35 và qua đời ở tuổi 80. Đức Phật lịch sử cũng giống như bao nhiêu con người bình thường khác, cũng từng sai lầm trong quá trình học đạo, suýt chết vì sáu năm tu khổ hạnh, cho tới khi phát hiện ra con đường trung đạo là bát chính đạo, trở thành bậc giác ngộ đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Lấy hành tinh mà chúng ta đang sống làm hệ quy chiếu, chỉ có một đức Phật lịch sử duy nhất là đức Phật Thích Ca. Không có đức Phật thứ hai.

 

Nhận xét:Muốn nói tới Phật lịch sử của cõi Ta Bà chúng ta, thì trong Tạp A Hàm quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 và Trung A Hàm quyển 2 của Đại Tạng Kinh do HòaThượng Thích Minh Châu chỉ đạo dịch, có Phật Câu Lưu Tôn xuất hiện ở thế gian lúc tuổi thọ con người là 40 nghìn năm. Phật Câu Na Hàm xuất hiện ở thế gian lúc tuổi thọ con người 30 nghìn tuổi, Phật Ca Diếp xuất hiện ở thế gian lúc tuổi thọ con người là 20 nghìn tuổi. Phật Thích Ca xuất hiện ở thế gian lúc tuổi thọ con người là 100 tuổi và Phật Di Lặc sẽ suất hiện ở thế gian lúc tuổi thọ con người là 80 nghìn năm. Như thếở cõi Ta Bà trong đại kiếp nàyđã có 4 vị Phật xuất hiện rồi.

 

Khái niệm “Đức Phật tôn giáo” phát triển trong giai đoạn Phật giáo Đại thừa phát triển, sớm nhất là thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, đỉnh cao nhất của nó là thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đại thừa có hai trường phái: Đại thừa Ấn Độ gồm có tông Du Già truyền bá về Duy thức học và tông Trung quán, truyền bá về trí tuệ phá chấp, và trường phái Đại thừa Trung Quốc lập ra mười tông phái Phật giáo Trung Quốc, mà hiện nay ngự trị và ảnh hưởng các nước theo Đại thừa. Đại thừa Trung Quốc không phải là Đại thừa gốc của Ấn Độ, vì Đại thừa Trung Quốc đề cao “Đức Phật tôn giáo”.

 

Nhận xét:     Nói rằng Đại thừa Trung Quốc không phải Đại thừa gốc của Ấn Độ là không chính xác nhưđã chứng minh ở trên, vì tất cả đều dựa vào kinh luận phát xuất từ Ấn Độ, thì không thể nói rằng của Trung Quốc, mà chỉ là được phát triển hành trì tại Trung Quốc và các nước Đông Á. Như phần trên đã nói, hiện tại chỉ có 4 tông đang hành trì là Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông và Pháp Hoa tông; còn các tông khác không có ai tu theo mà chỉ còn trên phương diện nghiên cứu Phật học mà thôi.

Nói Đức Phật tôn giáo, tức là ám chỉ nói về Phật thần linh, điều này đúng đối với chùa nào có cúng sao giải hạn cầu Phật phù hộ được cái này cái kia. Mấy chùa làm lễ Cầu siêu bằng cách cầu Bồ Tát Địa Tạng cứu người sa Địa Ngục, mấy chùa thờ cúng Bồ Tát Quán Thế Âm tụng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn để cầu tai qua nạn khỏi, cầu phước đức. Tất cả những việc làm như thế đều rơi vào Thần quyền mê tín, cần phải được chấm dứt càng sớm càng tốt;đây là do vịchủ chùa chưa hiểu giáo lý của Phật, chưa hiểu nghĩa kinh, hoặc thuận theo sựđòi hỏi của Phật tử tại gia không hiểu đạo, nên mới có tình trạng làm sai trái như vậy.

     Riêng đối với Đức Phật A Di Đà, nếu nói là Phật thần linh thì không chính xác, vì Phật A Di Đà cũng như Đức Phật Thích Ca không thể cứu trực tiếp cho người được giải thoát, mà phải do chính người ấy tu hành đúng phương pháp chỉ dạy một cách dũng mãnh bền bỉ quyết tâm mới có hy vọng được. Sự thật thì chính các Tổ Mã Minh và Long Thọ bên Ấn Độ căn cứ vào lời Phật dạy mà giới thiệu pháp môn tu Tịnh độ, các Tổ bên Trung Hoa căn cứ vào đó mà hành trì và truyền bá, chứ không phải các Tổ bên Trung Hoa sáng tạo ra pháp môn này.

 

Ngay cả đức Phật Thích Ca lịch sử họ cũng tô vẽ lên một hình ảnh đức Phật tôn giáo đang đóng kịch (thị hiện). Phật giáo Trung Quốc đặt ra khái niệm “thị hiện”, theo đó đức Phật đóng kịch với vai của vị thánh đã giác ngộ, xuống trời Đâu Suất làm Bồ-tát Hộ Minh, sau đó nhập thai vào thánh mẫu Maya, mấy tuổi đã biết ngồi thiền, 19 tuổi giả vờ làm đám cưới với công chúa Da-du-đà-la, sau đó đi tu, năm năm tìm đạo sai, sáu năm tu tập khổ hạnh sai, rồi giác ngộ ở tuổi 30. Theo thuyết này, toàn bộ giai đoạn từ mới sinh ra cho đến tuổi 30 của đức Phật là đóng kịch, là giả vờ. Đó là quan niệm về đức Phật tôn giáo, hoàn toàn là một sản phẩm ý thức của Đại thừa Trung Quốc, không có trong đạo Phật Đại thừa tại Ấn Độ.

 

Từ đức Phật tôn giáo đó Trung Quốc mở rộng thêm số lượng các đức Phật như Tam Thiên Phật, Vạn Phật... Đây là điều do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, không có trong Phật giáo Đại thừa ở Ấn Độ.

 

Nhận xét:     Theo như tác giả thì sự có mặt của Đức Phật chỉ là tự nhiên, ngẫu nhiên mà có, điều mà Đức Phật thường không công nhận thuyết tự nhiên ngẫu nhiên mà có; Ngài cũng không công nhận thuyết Thượng Đế sinh ra muôn loại, mà Ngài nói thuyết nhân duyên, khi hội đủ nhân duyên thì có, không hội đủ nhân duyên thì không có. Đức Phật còn cho biết nghiệp qủa chỉ chi phối chúng sinh khi có nghiệp nhân, nhưng ngườitu hành tới bậc A La Hán và Bồ Tát bậc 5 hoặc 6 là nhẹ nghiệp lực nên không còn bị nghiệp lực lôi kéo vào đường sinh tử nữa, các vị có thể thung dung nhập Niết Bàn.

Các bậc Bồ Tát bậc 5 đã có “Ý sinh thân”, nghĩa là được tam muội như huyễn, có năng lực vào các cõi Phật, ý đi đâu thân đi đó; khi tu đến địa vị Bồ Tát bậc 10, rồi tới bậc Đẳng giác như các đại Bồ Tát Di Lặc, Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền v.v… thì các ngài có thể vào bất cứ loài nào để giáo hóa chúng sinh.

     Xem như thế thì Bồ Tát Di Lặc từ cung trời Đâu Suất xuống nhân gian có thể chọn lựa chỗ đến, nói một cách khác thì Bồ Tát Di Lặc có thể tùy ý mà “thị hiện” nơi cha mẹ nào để tiếp tục tu hành tại cõi nhân gian cho tới đạt Chính Đẳng Chính Giác. Bằng chứng là Đức Phật Thích Ca đã Thọ ký rồi (xin xem Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Kinh Trường Bộ trang 346), thì mọi việc xảy ra phải như Ngài đã thọ ký, chứ không thể ngẫu nhiên hay bị nghiệp dẫn dắt.

     Chúng ta cùng đọc một đoạn Trung A Hàm quyển 2 trang 38, Phật Thích Ca nói về Bồ Tát Di Lặc: “Từ Thị đại trượng phu từ Đâu Suất gửi nhờ vào phu nhân đại thần Thiện Tịnh, mượn chỗ để sinh thân mình. Mang thai đủ 10 tháng, một ngày kia, Từ Mẫu tôn ra dạo vườn Diệu hoa, khi đang dạo trong vườn bỗng sinh đức Từ tôn, như mặt trời ló mọc, …” Xem như thế thì chúng ta thấy Bồ Tát Đẳng Giác chưa phải làđã giác ngộ, mà còn phải tái sinh vào cõi người để tiếp tục tu hành để thành Phật; vì vậy không nên nghi ngờ về việc “thị hiện” và cho là Phật Thích Ca đóng kịch suốt thời gian từ khi sinh tới năm 30 tuổi.

     Nói về Chư Phật, chúng ta có thể trích một đoạn trong Kinh A Di Đà, phần Chư Phật khuyên tin, Đức Phật Thích Ca bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:

- Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, thì hằng hà sa số chư Phật ở khắp sáu Phương Đông Tây Nam Bắc Trên Dưới đều ở tại nước các Ngài, hiện ra tướng lưỡi rộng dài (nói chân thật) trùm khắp cõi tam thiên đại thiên (mộtcõi Phật) mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh: “Nhất ThiếtChư Phật Sở HộNiệm Này",... Như vậy thì không phải Phật giáo Trung Quốc đặt ra mà là do kinh Phật nói có hằng hà sa số Chư Phật, nên nói ba nghìn hay vạn Phật (Tam Thiên Phật, Vạn Phật) đâu có phải là nhiều so với kinh Phật nói.

 

Đức Phật A-di-đà là một trong các đức Phật tôn giáo, xuất phát từ Ấn Độ và được Trung Quốc đề cao. Kinh A-di-đà có gốc rễ từ tiếng Sanskrit tại Ấn Độ, điều đó không ai phủ định. Hình ảnh đức Phật A-di-đà trong kinh A-di-đà là một biểu tượng sâu sắc.

Tôi vừa phân tích trong câu hỏi trước đây, Tây phương Tịnh độ không quan trọng, do vậy, đức Phật A-di-đà có thật hay không cũng không quan trọng. Quan trọng là chúng ta phải hội tụ được: (i) căn lành lớn (tức thoát khỏi tham, sân, si), (ii) có công đức lớn (tức là nhập thế và làm các việc công đức), (iii) tạo nhân duyên tốt lớn (là mở đạo tràng cho mọi người cùng tu), (iv) quán pháp âm lớn (là lấy dữ liệu Ta-bà xây dựng Tịnh độ hiện tiền) và (v) nhất tâm bất loạn, tức cốt lõi của chính niệm và chính định trong bát chính đạo.

 

Nhận xét:Dù tu theo pháp môn nào, Nam hay Bắc truyền đều phải tôn trọng và thực thi 10 điều lành gồm 3 điều về thân, 4 điều về miệng, và 3 điều về ý, đó là tạo “căn lành lớn”; và có tâm thực hành “Từ, Bi, Hỉ, Xả” sẽ “có công đức lớn”. Thuyết pháp, giảng giải, phổ biến để Phật tử hiểu thấu cho được “pháp âm rộng lớn”; như vậy sẽ có nhiều người hành theo, đó là “tạo nhân duyên lớn”. Tu niệm Phật là thực thi chính niệm dẫn tới “Nhất tâm bất loạn” đạt chính định trong bát chính đạo; như thế thì dù giải thích theo cách này hay cách kia cũng không khác vậy.

 

Nghĩa đen của chữ A-di-đà trong ngôn ngữ Sanskrit là trí tuệ không giới hạn (Vô lượng quang). Trung Quốc đặt thêm hai nội dung mới là Vô lượng công đức và Vô lượng thọ, tức là tuổi thọ không giới hạn, trái với quy luật sinh, già, bệnh, chết mà đức Phật đã công bố, đồng thời, cũng trái với quy luật thiên nhiên. Vô lượng thọ là điều không có thật. Phật giáo Trung Quốc thêm thắt thứ nầy thứ nọ để dẫn dụ quần chúng đi theo các tông phái Phật giáo của họ.

 

Nhận xét:     Nếu chúng ta đọc kinh A Di Đà do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch thì sẽ thấy trong phần Diệu Thắng, Đức Phật Thích Ca nói: “Xá-Lợi-Phất: Ông nghĩ sao, Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà? Vì đức Phật đó có hào quang sáng chói soi suốt vô lượng các cõi mười phương không bị chướng ngại (đây gọi là vô lượng quang); Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống vô lương A Tăng tỳ kiếp (đây gọi là vô lượng thọ). Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã 10 kiếp rồi”.

Chẳng những Phật A Di Đà sống lâu mà nhân dân trong cõi của Ngài cũng sống lâu để tu hành cho tới ngày thành Phật chỉ trong mộtđời; như vậy nếu nói Trung Hoa sáng chế ra sự sống lâu thì không chính xác. Còn nói về “công đức”, thì tất cả các Đức Phật đều có công đức vô lượng, vì Chư Phật là người đã tu hành nhiều kiếp tích lũy không biết bao nhiêu công đức mới thành Phật, điều này không ai bác bỏ được.

Tất cả chúng sinh khi chưa được giải thoát đều bị chi phối bởi sinh già bệnh chết, nói tổng quát là như thế, còn về đời sống dài ngắn thì thay đổi giữa cõi này và cõi khác. Như trong quyển Nhị Khóa Hiệp Giải của Hòa Thượng Thích Khánh Anh dịch, xuất bản năm 1958, trang 205 ghi: “Chư Thiên Vô Sắc của cõi Ta Bà này ở tầng cao nhất sống tới 80,000 kiếp”, mỗi kiếp là 16,800,000 năm, nhân lên là 1,280tỷ năm.  Như vậy, tuổi thọ của trời Phi Phi Tưởng nàyqúa dài lâu, nên cũng có thể gọi là vô lượng rồi, nói chi còn kém xa tuổi thọ ở cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Nên biết một đại kiếp là 1 tỷ 330 triệu năm, như vậy cõi trời sống lâu nhất cũng đã sống tới gần 1000 đại kiếp, thực là qúa dài lâu vậy!

 

Trên thực tế, “bốn mươi tám lời nguyện” trong Tịnh độ tông của Trung Quốc không phải của đức Phật A-di-đà như đã bị ngộ nhận và truyền bá trong nhiều thế kỷ qua. Bốn tám lời nguyện thực chất là của thầy tỳ-kheo Pháp Tạng, khi còn là một phàm tăng, giống bao nhiêu các tu sĩ phàm khác. Khi còn là một người phàm, chúng ta được quyền phát nguyện.

Phát nguyện là một ứng dụng nhỏ của lòng từ bi. Phát nguyện là thể hiện sự quan tâm của chúng ta với chúng sinh khổ đau và với cuộc đời bất hạnh. Hồi hướng công đức cũng là một ứng dụng nhỏ của lòng từ bi, có nghĩa là “ngoái nhìn về, quan tâm về, quan hoài đến” nỗi khổ niềm đau của tha nhân. Phát nguyện dẫn đến hồi hướng công đức. Hồi hướng công đức dẫn đến phát nguyện. Phát nguyện và hồi hướng là cặp bài trùng, hỗ trợ lẫn nhau.

Ứng dụng của lòng từ bi theo đức Phật là tạo ra các hành động phụng sự cụ thể, như đức Phật đã yêu cầu sáu mươi vị A-la-hán đầu tiên: “Này các tỳ kheo, mỗi người nên đi một đường, hai người không nên đi trùng hướng nhau để mang lại hạnh phúc, an lạc cho số đông, cho chư thiên và loài người.” Đức Phật xác định tông chỉ của Ngài là phụng sự nhân sinh.

 

Nhận xét:     Như đã dẫn chứng là các kinh đều phát xuất từ Ân Độ, chứ không phải do các Tổ bên Trung Hoa tạo ra.Nếu chúng ta đọc kỹ kinh Phật Vô Lượng Thọ thì sẽ thấy như sau: “Thuở xưa, quá a tăng kỳ vô số đại kiếp, có Phật xuất thế hiệu là Nhiên Đăng Như Lai giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh, sau đó có Quang Viễn Phật, Nguyệt Quang Phật, Chiên Đàn Hương Phật, v.v... hết thảy 52 vị Phật nối tiếp ra đời. Kế sau đó có đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, lúc đó có Quốc Vương nghe đức Phật thuyết pháp lòng rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ đề, từ bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ Kheo hiệu là Pháp Tạng. Tỳ Kheo Pháp Tạng thỉnh cầu Phật giảng nói kinh pháp, rồi từ đó tu hành trọn đủnăm kiếp, Ngài suy xét nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh hai trăm mười ức2 triệu) cõi Phật và tu tập xong, Ngài đến trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai  rồi trình Đức Phật 48 lời đại nguyện”.

     Như vậy lúc thệ nguyện, ngài Pháp Tạng đã tu hành 5 kiếp, tức là tu 840 triệu năm qúa dài rồi, như thế ngài không còn là “phàm Tăng” nữa mà phải là Bồ Tát bậc cao, có thể nói ngài phát nguyện lúc là Bồ Tát Đẳng Giác trước khi trải qua thời gian vô cùng dài để thành Phật mới đúng lý. Nên biết rằng kinh này Phật Thích Ca nói đức Phật Thế Tự Tại Vương tuổi thọ là 20 kiếp, thành ra từ lúc ngài Pháp Tạng bắt đầu tu đến khi phát 48 lời nguyện vẫn với một Đức Phật Thế Tự Tại Vương.

Nếu nói về nhân sinh phụng sự loài người cõi Ta Bà của Đức Phật Thích Ca là vô kể, thì 48 lời nguyện của ngài Pháp Tạng tiền thân của Đức Phật A Di Đà phải được gọi là đại nhân sinh phụng sự chúng sinh vô lượng.Vì không những Ngài độ cho chúng sinh tại cõi Ta Bà, mà còn cưu mang tất cả chúng sinh trong mười phương, những ai muốn sinh về cõi cực lạc của Ngài vậy.

 

Do vì ngộ nhận bốn mươi tám lời nguyện là của đức Phật A-di-đà nên rất nhiều Phật tử, ngay cả các pháp sư Tịnh độ tông của Trung Quốc đã mê tín khi cho rằng chỉ cần niệm mười niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà là được vãng sinh Tây phương Cực lạc. Điều này là không thể được, vì phi nhân quả. Nếu chỉ niệm Phật mười niệm mà sinh Tây phương Cực lạc được thì Đức Phật đã chẳng phải nhọc công 45 năm thuyết pháp với gần ba chục ngàn bài kinh để giúp con người thoát khỏi vô minh và khích lệ sự thực tập giới-định-tuệ để nâng cao đời sống tinh thần.

 

Nhận xét:Kinh A Di Đà chỉ nói: ”Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tán loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung (chết) được đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà”.

     Xem vậy, thì trong kinh A Di Đà chỉ nói niệm Phật ít nhất từ 1 ngày đến 7 ngày liên tục với tâm không loạn động, mà không nói tới 10 niệm. Còn nếu có vị pháp sư nào nói “10 niệm”, thì chúng ta nên hiểu rằng người tu niệm Phật cả đời rồi, chẳng phải người tu chút ít, hoăc chưa hề tu, mà lúc bệnh sắp chết haybị nạn sắp chết niệm được 10 niệm đâu. Người không niệm Phật thường xuyên hay chỉ tu niệm chút ít thì lúc bệnh bị chết hay đột nhiên bị nạn chết, chẳng thể niệm dù là một niệm. Người đã tu niệm Phật dài lâu rồi đến lúc bệnh chết hay đột nhiên bị nạn chết, thì khi ấy có thể vì thói quen niệm, mà nhớ tới niệm Phật, chỉ cần nhớ niệm được 10 lần với tâm không loạn động trước cảnh chết. Người ấy có tâm bất loạn trong thời gian niệm 10 lần sau chót ấy, thì được vãng sinh; điều này nói thì dễ, chứ thực sự thì chẳng dễ chút nào, vì tâm rất dễ bị rối loạn khi bệnh hoạn đau đớn chết hoặc gặp cảnh bị tai nạn chết đột ngột.

 

Phương tiện có khi là con dao hai lưỡi, mặt tích cực cũng nó mà tác dụng phụ cũng nó. Khi tu Tịnh độ tông, hành giả không nên dựa vào bốn mươi tám lời nguyện của thầy Pháp Tạng. Có lẽ dựa vào đây mà Trung Quốc đặt ra pháp tu gồm ba yếu tố: tín, hạnh và nguyện, vốn rất xa lạ với tông chỉ vãng sinh Cực lạc trong kinh A-di-đà.

Chúng tôi kính đề nghị ai tu theo Tịnh độ tông thì nên dựa vào hai bài kinh căn bản: Thứ nhất là kinh A-di-đà, chú trọng năm tiêu chí vãng sinh Tây phương, như đã nêu trên, và thứ hai là Kinh niệm Phật Ba la mật, vì trong kinh này, ngoài chương nói về thần chú vốn được biên tập về sau, thì nội dung còn lại chứa đựng các triết học của đạo Phật Đại thừa. Không có triết học Đại thừa nào mà không có Kinh niệm Phật Ba la mật. Tu theo hai bài kinh này, người theo Tịnh độ sẽ không ăn những chiếc “bánh vẽ”, không đặt nặng vào sự cầu nguyện và phát nguyện; hành giả Tịnh độ trở thành những người phát triển trí tuệ, năng động, nhập thế để xây dựng Tịnh độ trong từng ngôi nhà và ở nơi làm việc. Đó một Tịnh độ nhân gian, khác với Tịnh độ Tây phương được Tịnh độ tông của Trung Quốc chủ xướng.

 

Nhận xét:Như đã phân tích ở trên 48 đại nguyện vì chúng sinh của vị Bồ Tát Pháp Tạng có một không hai, đáng tin cậy, do Phật Thích Ca nói kinh Phật Vô Lượng Thọ. Còn nói “tín, hạnh, nguyện” thì đã chứng minh Đức Phật Thích Ca đã nói đến trong kinh A Di Đà, chẳng phải các Tổ bên trung Hoa chế tạo ra. Ngoài ra dù tu theo kinh nào cũng phải có “tín, hạnh, nguyện”, dù tu theo Nam truyền hay Bắc truyền cũng đều phải có sự tin kinh, đó là Tín, nếu không tin kinh thì làm sao mà tu? Tu theo phái nào cũng phải có hạnh tinh tấn hành trì, nếu không tinh tấn hành trì thì không thể đưa tới kết qủa, đó là Hạnh. Muốn có tâm cương quyết theo đuổi tới cùng thì phải nguyện với lòng mình quyết tâm giữ vững lập trường không bỏ ngang, không thoái lui, đó là Nguyệnvậy.

 

Chúng tôi kính đề nghị ai tu theo Tịnh độ tông thì nên dựa vào hai bài kinh căn bản: Thứ nhất là kinh A-di-đà, chú trọng năm tiêu chí vãng sinh Tây phương, như đã nêu trên, và thứ hai là Kinh niệm Phật Ba la mật, vì trong kinh này, ngoài chương nói về thần chú vốn được biên tập về sau, thì nội dung còn lại chứa đựng các triết học của đạo Phật Đại thừa. Không có triết học Đại thừa nào mà không có Kinh niệm Phật Ba la mật. Tu theo hai bài kinh này, người theo Tịnh độ sẽ không ăn những chiếc “bánh vẽ”, không đặt nặng vào sự cầu nguyện và phát nguyện; hành giả Tịnh độ trở thành những người phát triển trí tuệ, năng động, nhập thế để xây dựng Tịnh độ trong từng ngôi nhà và ở nơi làm việc. Đó một Tịnh độ nhân gian, khác với Tịnh độ Tây phương được Tịnh độ tông của Trung Quốc chủ xướng.

 

Nhận xét:Đề nghị này phải được mang ra mổ xẻ bàn thảo vềcác kinh của Tịnh độ tông xem hay dởđúng sai thế nào; không nên miệt thị cho là “chiếcbánh vẽ”. Không nên hiểu sai cho rằng Tịnh độ tông là cầu nguyện thần linh để được vãng sinh, vì sao? Vì niệm Phật tới nhất tâm bất loạn làđưa tâm vào định tĩnh, được chính định rồi thì tuệ phát; đó gọi là niệm Phật tam muội.Chúng ta cùng phân tích một lần nữa về niệm Phật là thực hành đầy đủ Giới, Định, Tuệ như sau: Trong khi niệm Phật miên mật ngày đêm thì làm gì còn thời giờ mà phạm giới luật, đó là giữ Giới đầy đủ; vì niệm Phật liên tục trong bốn tư thế đi đứng ngồi nằm không có kẽ hở thì sẽ đưa tâm vào định tĩnh tam muội, đó gọi là chính Định, được định thì sẽ đi đến đạt Tuệ, như vậy làm sao nói pháp môn niệm Phật không có Giới Định Tuệ?

 

Trung Quốc có hai phương pháp Tịnh độ. Tịnh độ nhân gian được Hòa thượng Tinh Vân khởi xướng qua ba phương diện: Xây dựng Tịnh độ qua giáo dục, xây dựng Tịnh độ qua văn hóa, xây dựng Tịnh độ qua từ thiện. Về giáo dục thì Hòa thượng có trường đại học Tây Lai ở Hoa Kỳ, ba trường đại học được Bộ Giáo dục thừa nhận ở Đài Loan, nhiều trường tiểu học và trung học cho giới chính trị và giới kinh doanh gửi con đến học. Hòa thượng có đài truyền hình Phật giáo, có tờ nhật báo Nhân gian phước báo, có nhiều tạp chí Phật giáo để phục vụ cho việc giáo dục Phật giáo. Về văn hóa, trong số gần ba trăm ngôi chùa ở năm châu lục, nhiều chùa có viện bảo tàng để giới thiệu về văn hóa Phật giáo, có thư viện lớn để giới thiệu về triết lý Phật giáo, có phòng thiền trà lớn để trải nghiệm thiền, có phòng thư pháp để trải nghiệm văn hóa chữ viết của Trung Quốc, có nhà hàng buffet chay để du khách có thể ở lại trong đó một ngày cho đến nhiều ngày và có khách sạn chuẩn ba sao đến năm sao để dành cho những người sang trọng muốn ở lại tu tập tại Chùa lâu hơn.

Về phương diện nhập thế, hòa thượng Tinh Vân là người phá kỷ lục. Về hoạt động từ thiện, hòa thượng cứu trợ các nạn nhân thiên tai, người già, người tàn tật, người khiếm thính, khiếm thị, trẻ mồ côi... Ba phương diện hoạt động này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của kinh A-di-đà và kinh niệm Phật Ba la mật, và rất phù hợp với tông chỉ nhập thế của đức Phật Thích Ca.

Tịnh độ Tây phương phổ biến nhất hiện nay là do Hòa thượng Tịnh Không chủ trương. Tịnh độ tông đó có nhiều mê tín, đi theo một thiên cực. Nếu tiếp tục hưởng ứng và truyền bá Tịnh độ này thì Phật giáo Việt Nam sẽ đi vào con đường suy vong. Tịnh độ tông do HT. Tịnh Không chủ trương mỗi ngày phải lạy 500 lạy thì còn thời gian đâu để dành cho việc phụng sự người thân và xã hội? Suốt ngày chỉ biết niệm Phật, lạy Phật, sám hối… thì còn thời gian đâu để làm việc thiện và Phật sự!  Cách tu cực đoan này làm cho những người tại gia trở thành những người thiên cực, bỏ bê công ăn việc làm, chỉ tu để mong sớm được vãng sinh Tây phương.

Năm 2012, có một lần HT. Tịnh Không bị hớ, vì chủ trương ngày 21/12/2012 là tận thế theo niềm tin mê tín của lịch cổ Maya. Điều này đã khiến cho nhiều người bỏ công ăn việc làm, ngồi ở nhà chờ chết tập thể với những người thân. Vì mặc cảm dân tộc, nhiều người Việt Nam cứ chuộng ngoại, chạy theo Tịnh độ tông cực đoan như vừa nêu, vô tình làm chết đạo Phật Việt Nam.

Trên thực tế, cũng khó trách HT.Tịnh Không được vì Hòa thượng không được học Phật pháp tại trường Phật học đến nơi đến chốn, mà chỉ học Phật pháp với cư sĩ Lý Bĩnh Nam. Bản thân cư sĩ Lý Bĩnh Nam cũng không học Phật pháp bài bản ở các trường lớp Phật học. Do đó, những giới hạn về tri thức Phật pháp ở HT. Tịnh Không là điều dễ hiểu và thông cảm được.

Truyền bá Tịnh độ tông Tây phương theo kiểu thiên cực nêu trên sẽ làm cho người ta mê chấp, vì sự hứa hẹn vãng sinh Tây phương thông qua hộ niệm vãng sinh với các thoại tướng vốn do Trung Quốc đặt ra, không do đức Phật dạy. Do lòng tham dẫn dắt mà rất nhiều người chạy theo Tịnh độ tông kiểu này, tu quá đơn giản, quá dễ. Thực tế, nếu không hội đủ năm tiêu chí như kinh A-di-đà đã nêu thì dù cho có được “hộ chiếu Tây phương” đi nữa, cũng bị “từ chối Visa” thôi, vì nghiệp quyết định cảnh giới tái sinh chứ không phải ước muốn của con người quyết định. Ta nên nhớ điều này.

 

Nhận xét:Chúng tôi không muốn có ý kiến về sự khen chê Hòa Thượng Tinh Vân và Hòa Thượng Tịnh Không; nhưng có điều chê bai người khác không học ở trường Phật giáo mà cho là người ấy không đủ kiến thức về Phật giáo thì chỉđúng có một nửa. Đối với người không chịu đọc nghiên cứu kinh sách Phật giáo thìđúng vì thiếu kiến thức Phật pháp; còn đối với người chịu khó đọc nghiền ngẫm nhiều kinh sách Phật thì không đúng; tại sao? Vì các trường dạy Phật học cũng phải lấy từ kinh điển sách vở của Phật giáo ra để dạy, chứ chẳng phải các vị ấy tự sáng chế ra Phật pháp.Do đó nếu một người không tới trường mà đã đọc và nghiền ngẫm nhiều kinh sách của Phật, thì chẳng cần phải đến trường Phật giáo; nên nói những người không học trường Phật giáo là không biết gì về Phật pháp là không đúng hoàn toàn.

Còn Hộ niệm chỉ là trợ giúp phần nào thôi, trợ duyên giúp sức cho người đã từng tu niệm Phật lâu dài rồi, thì dễ có kết qủa; chứ không phải người không tu hành gì cả mà Hộ niệm làm cho được vãng sinh Tây phương đâu. Vì như thế là làm sai lời Phật dạy trước khi Ngài nhập Niết Bàn rằng: “Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi …” Nếu có vị nào nói Hộ niệm cho người không tu hành được vãng sanh là nói sai, không thể có việc qúa dễ dàng như vậy được, người chưa hề tu niệm Phật, lúc chết thần thức người ấy xa lạ lạc lõng, khó mà biết nương theo Hộ niệm nên vẫn bị nghiệp lực dẫn dắt.

 

Dù cho các vị Phật có phát nguyện thế nào đi nữa, trong độ sinh, các ngài không thể làm ngược lại với tứ diệu đế. Đó là lời đức Phật Thích Ca đã khẳng định. Phật quá khứ truyền bá Tứ diệu đế. Phật hiện tại, tức Phật Thích Ca truyền bá Tứ diệu đế. Phật tương lai, tức Phật Di Lặc cũng truyền bá Tứ diệu đế.

Về điều này, đức Phật đưa ra ẩn dụ về con đường đến tòa lâu đài. Giống như tòa lâu đài bị che giấu và ẩn khuất ở trong rừng sâu nhiều năm, Ngài may mắn tìm ra được con đường đi đến tòa lâu đài đó, mở được các cánh cửa, đi vào bên trong, nhìn thấy các báu vật. Trong ẩn dụ này, các báu vật được hiểu là tứ diệu đế. Đức Phật truyền bá lại báu vật đó bằng cách vẽ con đường (tức các kinh điển) và hiến tặng miễn phí cho chúng. Đức Phật cho rằng Ngài không phải là tác giả của chân lý. Đức Phật chỉ là người khám phá ra chân lý. Chân lý đã có sẵn. Đức Phật chỉ đường chân lý. Các đức Phật quá khứ và đức Phật tương lai cũng chỉ là người chỉ đường. Bát chính đạo là con đường. Công bố Bát chính đạo là truyền bá con đường giải phóng khổ đau.

 

Nhận xét:     Đồng ývới tác giả vềBốn Đế, Tám Chính Đạo, Giới Định Tuệ v.v… là căn bản của Phật pháp, nhưng Đức Phật không phải chỉ nói có một con đường dẫn đến chân lý, mà trái lại Ngài nói có nhiều con đường dẫn đến chân lý. Nhưng đệ tử của Phật đi theo đường này lại cho rằng đi đường kia là sai, phải đi theo đường đi này mới đúng, đây là thiên lệch, bất bình đẳng theo lời Phật dạy vậy.

     Nếu cứ nhất quyết nói rằng Đức Phật chỉ nói có một cách tu duy nhất thôi, thìđây là khinh Phật nghèo trí tuệ, mà chúng ta đều biết Ngài là bậc Chính Đẳng Chính Giác, trí tuệ vô biên.Ngoài ra, nếu Đức Phật chỉ dạy có một con đường duy nhất thì Ngài không phải tốn công khó nhoc dạy đạo suốt cuộc đời của Ngài, từ khi thành đạo cho tới ngày Ngài nhắm mắt, trong suốt 45 năm dài như thế.

 

Dù phát nguyện là một phần của tâm từ bi, ta không thể làm đạo trên nền tảng phát nguyện đơn thuần được. Nên nhớ rằng “cầu bất đắc khổ” là một trong tám loại khổ thuộc về tinh thần. Do đó ta đừng bận tâm là Phật A-di-đà có thật hay không, Tây phương Tịnh độ có thật hay không. Triết lý của Tịnh độ tông nằm ở chỗ, khi đạt được công đức lớn, căn lành lớn, nhân duyên tốt lớn, quán pháp âm lớn và nhất tâm bất loạn thì người đó đã trở thành thánh nhân trong hiện tại rồi. Thánh nhân có mặt ở chỗ nào thì cực lạc, niết bàn có mặt ở chỗ đó. Đó là chiều sâu của kinh A-di-đà. Sẽ là sai lầm nếu ta tu Tịnh độ theo cách “yểm Ta-bà, hân Tịnh độ,” do Trung Quốc chủ trương. “Yểm Ta-bà” là chán ghét Ta-bà, mà chán ghét thuộc về tâm sân. Đang khi, “hân Tịnh độ” là đam mê, thuộc về tâm tham. Xây dựng pháp môn trên tâm sân và tâm tham thì không thể có được chính niệm và chính định.

 

Nhận xét:     Đoạn này cần phải phân tích thêm cho rõ ràng, nói rằng: “Người tu Tịnh Độ chán ghét Ta Bà là có tâm sân, ưa Tịnh Độ là có tâm tham, xây dựng Tịnh Độ trên tâm sân tham nên không thể có Chính Niệm và Chính Định”. Tu Tịnh độ cầu sang Tây phương thì cho rằng đây là có lòng ưa thích Tây phương, đó là tham, chán ghét Ta Bà, đó là sân, nên không thể có Chính Niệm và Chính Định. Nhưng như đã nói ở trên, người tu Tịnh độ là niệm Phật trong bốn tư thế đi đứng ngồi nằm một cách miên mật thì sẽ đạt tới Chính Niệm, từ đó sẽ được Chính Định.

     Ngoài ra để chuẩn bị hành trang cho việc tu Tịnh độ, người tu cũng cần biết các điều khổ sở đáng chán tại Ta Bà để so sánh với sự tốt đẹp đáng ưa của cõi Tịnh độ. Về cảnh (y báo) khi người tu thấy các nơi sông rạch ao tù nước đọng, bãi rác hôi thối, nhà ổ chuột mục nát tối tăm v.v… thì họ liên tưởng tới cảnh ao tám nước công đức, cung điện báu,v.v… nơi cõi Tịnh độ rộng lớn, sen mọc hàng hàng lớp lớp, mùi thơm nhẹ nhàng thanh tao. Về người (chính báo) người tu thấy cảnh người ốm đau bệnh hoạn, kẻ tàn tật không đủ giác quan khổ sở, người chết yểu, chết vì tai nạn, v.v... đó là chưa nói tới cảnh khổ do tham sân si của con người gây ra để so sánh với cõi Tịnh độ không có các cảnh khổ như thế, tất cả đều hóa sinh từ hoa sen ra đầy đủ giác quan khỏe mạnh và nhất là sống sung sướng lâu vô lượng kiếp. Như thế là khơi động lòng chán cõi khổ, kích động tâm muốn sinh sang Tây phương cực lạc, chứ không phải khơi động lòng tức giận đâu, như vậy sẽ có tâm tha thiết là yếu tố làm bàn đạp cho việc niệm Phật miên mật vậy.

     Nếu nói rằng:“Sẽ là sai lầm nếu ta tu Tịnh độ theo cách “yểm Ta-bà, hân Tịnh độ,” do “Yểm Ta-bà” là chán ghét Ta-bà, mà chán ghét thuộc về tâm sân. “hân Tịnh độ” là đam mê, thuộc về tâm tham”. Người tu mà có tâm tham và tâm sân thì không chấp nhận được, nghe thì thấy đúng và có lý lắm, nhưng thử hỏi tại sao chúng ta tu? Mọi người tu đều trả lời “tu để giải thoát khỏi khổ”, đây cũng là do lòng chán ghét (sân) khổ mới đi tu; rồi khi tu, ai cũng ưa thích (tham) đắc qủa cả.

     Chúng ta cùng phân tích chi tiết cho rõ nghĩa này: Khi đắc qủa Tu Đà Hoàn, lại muốn qủa cao hơn, nghĩa là muốn bỏ qủa hiện tại để có qủa cao hơn; đây là có tâm chán ghét (sân) qủa thấp, ưa thích (tham) qủa cao hơn. Tâm tham và tâm sân khó thấy, nên ai cũng tưởng tu không có tham sân; xem như vậy thì chúng ta không nên phê bình chỉ trích pháp môn Tịnh độ là chán ghét Ta Bà ưa thích Tịnh Độ “yểm Ta-bà, hân Tịnh độ,”nữa.

 

Giữa hai trường phái Tịnh độ tông nêu trên (Tịnh độ nhân gian và Tịnh độ Tây phương), tôi khích lệ Tịnh độ tông nhân gian theo mô hình của HT. Tinh Vân, vốn rất chuẩn. Rất tiếc là mô hình Tịnh độ tông nhân gian đó ít được biết đến tại Việt Nam, bởi vì nó đi đúng đạo Phật gốc, đúng đạo Phật nguyên chất. Tịnh độ tông nhân gian khích lệ tinh thần tự lực, tự mình thắp đuốc lên mà đi. Con người dễ làm biếng, dễ ỷ lại, không muốn làm gì nhiều mà muốn có thành quả lớn. Đó là tâm lười cộng với tâm tham, bị chi phối bởi tâm vô minh. Người ta có thể chạy theo hình thức Tịnh độ tông Tây phương và kết cục là tự mình bị thiệt thòi và trở thành nạn nhân của cách tu không phù hợp với bát chính đạo.

 

Nhận xét:     Như đã phân tích ở trên, tu pháp môn nào cũng vẫn phù hợp với Tám Chính Đạo cả, chỉ vì chúng ta không biết mà thôi, chúng ta cùng nhắc lại để ghi nhớ: Tu niệm Phật của pháp môn Tịnh độ, thì trước hết người tu phải có suy nghĩ cho kỹ về pháp môn này có thích hợp không, có thể thực hành được không, có đem đến vãng sinh hay không, đó là Chính Tư duy. Người đó phải xét thấy pháp môn này không đi ngược với lời Phật dạy, không phải là tà pháp, đó là Chính Kiến. Nói năng thì phải nói lời chân thật, mà người suốt ngày niệm Phật thì làm gì có thời giờ nói ác, đó là Chính Ngữ; luôn luôn cư xử hành động thiện lành, đó là Chính Nghiệp; chọn nghề nghiệp mưu sinh không làm các nghề tà ác, đó là Chính Mạng. Khi tu hành niệm Phật siêng năng chuyên cần, không buông lung lười biếng đó là Chính Tinh Tấn. Chuyên một lòng nhớ tưởng niệm Phật A Di Đà đó là Chính Niệm; không suy nghĩ tưởng nhớ lung tung, chỉ tập trung về một vấn đề niệm Phật thì sẽ đạt Tam Muội niệm Phật, đó là Chính Định. Xem phân tích như vậy thì tu niệm Phật đâu có đi ra ngoài Tám Chính Đạo, phải không?

 

Trong lúc làm đạo, các tăng sĩ nên tránh tình trạng mong có quần chúng nhiều, quần chúng sớm mà truyền bá một đạo Phật mê tín. Dụ dỗ người khác thì rất dễ nhưng rồi chúng ta không thể thoát khỏi luật nhân quả. Có quần chúng để làm gì nếu họ hiểu sai đạo Phật, làm sai những điều Phật dạy? An ủi những người khổ đau có nhiều cách. Lời dạy của đức Phật là triết lý sâu sắc. Không xem mình là nạn nhân là cách góp phần kết thúc khổ đau. Không xem người khác là tác giả của khổ đau, ta sẽ không gây tạo thêm hận thù chồng chất. Để có các công bằng xã hội mà mình xứng đáng được hưởng, ta được quyền nhờ đến luật pháp, trong vài tình huống, chứng minh mình vô tội. Để làm công việc đó, chúng ta có thể nhờ đến luật sư nhưng đừng để tâm sân chi phối, dẫn dắt. Không nên tìm đến sự an ủi bằng những điều mang tính hứa hẹn quá nhiều, giá trị thật của hứa hẹn không cao.

Nói tóm lại, tu theo Tịnh độ tông phải dựa vào kinh A-di-đà và Kinh niệm Phật Ba la mật. Tịnh độ tông phương tiện thì hứa hẹn nhiều. Nên nhớ lời hứa hẹn không phải là hiện thực, đừng để cho lời hứa hẹn dẫn dắt chúng ta.

 

Nhận xét:     Mới đọc sơ qua về pháp môn niệm Phật thì thấy có vẻ cầu nguyện, có vẻ hứa hẹn, lại tưởng là dễ dàng qúa, thì nghi ngờ là mê tín, nghi ngờ rằng làm gì có chuyện tu hành dễ dàng mà đạt được kết qủa. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì không phải vậy, chẳng phải là cầu nguyện mà là tu hành, chẳng hứa hẹn mà chỉ nói có hành trì tinh tấn thì có kết qủa. Vì người niệm Phật màđạt tới vô niệm, tức là niệm Ba La mật, niệm mà vô niệm, sinh mà vô sinh, là chân lý đệ nhất nghĩa, vãng sinh vốn chính là vô sinh. Chỗ lý chân thật, thì không có Phật để niệm, không có Tịnh độ để đến, vì thế giới Tịnh đều do chính tâm mình hiển bày. Vì thế niệm Phật cả ngày mà không trái vô niệm, rõ ràng vãng sinh mà chẳng trái vô sinh, Đông Tây không đi không đến, mà tinh thần vượt lên cõi tịnh, điều này không thể vấn nạn vậy.Đức Phật A Di Đà chẳng thể giúp được nếu không kiên cố hành trì, nên chẳng phải là dễ dàng,vì mỗi pháp môn có cái khó của nó trong việc thực hành, chúng ta không nên chỉ trích khi không nêu ra được lý lẽ vững vàng.

 

Trong quá trình làm đạo, chúng tôi kính mong chư tôn đức Tăng Ni đừng bận tâm và thiên nặng về lời phát nguyện đơn thuần. Hãy bận tâm đến chủ nghĩa hành động cụ thể. Thay vì lời cầu nguyện mơ hồ và thiếu thiết thực như “cầu cho tất cả chúng sinh đều thành Phật” thì mỗi người Phật tử hãy phát nguyện mỗi năm tôi phải độ được một vài người thân và bạn bè làm Phật tử. Làm như thế, trong một kiếp người sáu bảy chục năm, ta độ được tối thiểu sáu bảy chục người làm Phật tử. Vậy là tạo nhân duyên tốt lớn rồi và có được công đức lớn rồi. Nếu lúc nào cũng nói “cầu cho chúng sinh” thế này, thế kia mà chẳng làm gì hết, chỉ ngồi niệm và cầu nguyện đơn thuần thì không thể có kết quả được.

 

Nhận xét:Vấn đề này, là phần cuối của nghi lễ trong các buổi lễở các chùa chứ không phải tu hành; trong các buổi lễ, phần cuối là phầnphát nguyện như sau:

  • Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
  • Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
  • Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
  • Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Rồi lễ tạ Phật có lời nguyện:

- Con quy Phật rồi, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, mở lòng tuyệt vời.

- Con quy Pháp rồi, nguyện cho chúng sinh hiểu thấu nghĩa kinh, trí tuệ như biển.

- Con quy Tăng rồi, nguyện cho chúng sinh hợp đạo đồng tình không gì trở ngại.

Và sau chót là hồi hướng công đức:

- Nguyện đem công đức này, hướng về đệ tử và tất cả chúng sinh đều cùng thành Phật đạo.

     Tác giả cho rằng: “cầu nguyện mơ hồ và thiếu thiết thực…nếu lúc nào cũng nói “cầu cho chúng sinh” thế này, thế kia mà chẳng làm gì hết, chỉ ngồi niệm và cầu nguyện đơn thuần thì không thể có kết quả được”.

     Thiết nghĩmột buổi lễ thì phải có đầy đủ ý nghĩa của buổi lễ và không có chỗ nào nói hai lần thì không thể nói là “chỉ ngồi niệm và cầu nguyện đơn thuần”, nên biết đây là lễ nghi Phật giáo, nhưng cũng phù hợp văn hóa Việt Nam, không thể thiếu được, không nên chỉ trích vậy.

     VềHồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh, sự nguyện này thể hiện lòng từ bi bình đẳng, sẽ làm cho tính ích kỷ giảm đi, tính ác lui đi, từ sự thệ nguyện hồi hướng này, Phật tử sẽ theo đó  nhớ thực hành cứu độ chúng sinh trên đường đời mà họ gặp. Không có những lời ấy khi Phật tửgặp trong cuộc sống họ sẽ bỏ qua; vì thế cho nên những lời trên chẳng phải là nói suông mà thực ra cũng có ý nghĩa hướng dẫn Phật tử vậy.

 

Trong kinh Trung bộ, đức Phật đưa ra ẩn dụ vắt sữa bò ở sừng, lưng, chân… của con bò cái, dù có ước nguyện chân thành cũng không thể có sữa bò được. Phải vắt sữa ở vú bò mới có sữa được. Ý đức Phật muốn nói rằng ước nguyện chỉ là một yếu tố tâm lý, giúp ta vững tin trên con đường mà chúng ta đang làm. Người mê tín nghĩ rằng do cầu nguyện, do phát nguyện mà tôi được cái này, cái khác..là không đúng. Phải làm, phải có trí tuệ, có nỗ lực tinh tấn, có kiên trì không gián đoạn mới có kết quả. Cùng là một vấn đề, người hiểu đúng Phật giáo sẽ lý giải theo nhân quả, người “lơ tơ mơ” sẽ lý giải bằng mầu nhiệm và ban phước.

 

Nhận xét:Lời Phật dạy hoàn toàn đúng không ai có thể chối bỏ được, đồng ý làcầu xin để được cái này hay cái khác theo cách cầu xin mê tín thì cũng giống như người vắt sừng bò mà mong có sữa. Bởi vậy người chưa biết chưa hiểu Phật pháp thì phải tìm hiểu cho kỹ càng các lời Phật dạy, khi đã hiểu rồi thì phải tin, khi tin thì phải nguyện theo tới cùng; muốn theo tới cùng thì phải cóhạnhnguyện hành trì đầy đủ, kiên cố dũng mãnh, không vì gặp khó hay nghe người khác nói ra nói vào mà bỏ ngang.

Nói về nhiệp báo nhân qủa chi phối thì đúng là như vậy, nhưng đi vào chi tiết thì nhân qủa không tuyệt đối mà bị chi phối bởi quyết tâm tinh tấn hành trì của người tu. Xin nhắc lạitrường hợp Angulimala là người đã giết và chặt 999 ngón tay của 999 người; khi Angulimala gặp Phật toan giết Phật nhưng không giết được vì Phật dùng thần thông khiến cho không đuổi kịp. Sau đó do mấy lời khai trí của Phật mà tỉnh ngộ, rồi xin Phật chấp nhận cho xuất gia và tu hành được đắc qủa A La Hán. Đó là bằng chứng có nghiệp nặng vẫn đạt đạo như thường, nghiệp lực không cản nổi quyết tâm tu hành tinh tấn; như vậy thì chúng ta không nên đem nhân qủa ra hù dọa, làm cho người khác lo sợ không dám tu vậy.

 

Đạo Phật không phải là đạo mầu nhiệm, mà là đạo trí tuệ. Trong bát chính đạo không có cầu nguyện, không có trì chú. Đức Phật nói trong Kinh Trung bộ rằng ai sống với nghề trì chú là đang sống với tà hạnh và không thể đạt được đạo đức cao. Trong ba bộ Veda thời đức Phật, có một bộ chứa đựng mấy ngàn câu thần chú. Mấy trăm năm sau khi Đức Phật qua đời, các tu sĩ Ấn Độ vay mượn thần chú của Bà-la-môn giáo, giới thiệu vào đạo Phật. Qua đến Trung Quốc thì Trung Quốc sáng tác thêm bài kinh Thủ Lăng Nghiêm để mặc nhiên thừa nhận thần chú là lời Phật dạy. Đại đa số quần chúng chạy theo Tịnh độ tông và Mật tông vì họ được hứa hẹn, họ bị nghiện phước báu, nghiện Cực lạc, nghiện hạnh phúc mà không cần phải làm nhiều, tu tập nhiều. Tu bát chính đạo thì nghiêm túc và khó hơn. Vấn nạn nằm ở đó.

Đức Phật dạy chúng ta: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy tự mình xây dựng hòn đảo cho chính mình, không nương tựa vào một ai khác, không lệ thuộc vào bất cứ cái gì khác, lấy chính pháp và đạo đức làm nơi nương tựa.” Chính pháp và đạo đức là thầy của chúng ta, chứ không phải thần chú và danh hiệu Phật.

 

Nhận xét:     Đồng ý với tác giảvềẤn Độ giáo có rất nhiều chú, trong đó một số chú,các người Bà La Môn dùng để kiếm sống như chú yêu, chú hại người v.v… nên Đức Phật cấm không cho đệ tử của Ngài học chú dùng chú; nhưng không phải là Ngài không nói chú khi cần đến, như trong Tạp A Hàm, quyển 1, kinh số 252, trang 467, nói:

     Một thời Phật trú tại thành Vương Xá trong vườn trúc Ca Lan Đà; khi ấy có Tôn giả Ưu Ba Tiên Na ngồi thiền nơi gò mả, cửa hang dưới chân núi Xà Đầu xứ Ca lan đà. Bấy giờ có con rắn cực độc, từ trên phiến đá rơi xuống thân và cắn Tôn giả rồi bò đi; Tôn giả gọi các Tỳ Kheo và nói:

- Có con rắn cực độc rơi trên mình tôi, chất độc ngấm vào thân tôi rồi; các Tôn giả hãy đến nhanh lên, đỡ giùm thân tôi đem ra ngoài, chớ để lâu thân này sẽ rã ra như một đống cám tại đây.

   Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi bên một gốc cây gần đó nghe tiếng nói ấy, vội vã đến ngay và nói:

- Tôi xem tướng mạo sắc thái của hiền giả, các căn không khác với bình thường, mà nói là trúng độc rắn, nhờ khiêng ra, chớ để lâu thân sẽ tan rã ra như một đống cám, như vậy là thế nào?

   Tôn giả Ưu Ba Tiên Na nói:

- Nếu có người chấp mắt, chấp tai, mũi, lưỡi, thân, ý là tôi là của tôi. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chấp là tôi là của tôi; đối với các thứ cấu tạo nên thân thể là đất, nước, gió, lửa, không, thức chấp chặt cho là tôi là của tôi. Lại nữa, đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp cho là tôi là của tôi, thì các căn, sắc mặt mới có biến đổi. Còn nay tôi không như thế, sáu căn, sáu trần, sáu giới, năm ấm chẳng phải là tôi, chẳng phải của tôi; vì thế cho nên tôi không đau đớn, không sợ hãi, sắc mặt không thay đổi.

   Tôn giả Xá Lợi Phất nói:

- Như thế, hiền giả đã nhớ xa lià ngã, ngã sở, ngã mạn, xa lià dính mắc trói buộc, khiến đoạn dứt cội gốc ấy, thì đối với đời vị lai trọn không trở lại thế gian này nữa; như thế làm sao sắc mặt và các căn biến đổi được.

   Nói xong, Tôn giả Xá Lợi Phất đi vòng đến đỡ thân của Tôn giả Ưu Ba Tiên Na đưa ra ngoài hang. Thân của Tôn giả Ưu Ba Tiên Na bị trúng độc được đưa ra ngoài hang không bao lâu, liền rã ra như một đống cám.

   Sau khi cúng dàng thi thể Tôn giả Ưu Ba Tiên Na xong, Tôn giả Xá Lợi Phất đi đến chỗ Đức Phật thưa trình sự việc Tôn giả Ưu Ba Tiên Na bị rắn độc cắn cùng sự việc diễn tiến xảy ra. Bấy giờ Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Nếu Tỳ Kheo Ưu Ba Tiên Na đọc bài kệ (dài 41 câu, xin miễn ghi ra) và câu chú như sau:

 “Ô-đam-bà-lệ, Đam-bà-lệ, Đam-lục, Bà-bà-đam-lục, Nại-tể-túc, Nại-tể, Chỉ-bạt-tể, Văn-na-di, Tam-ma-di, Đàn-để, Ni-la-chỉ-thí, Ba-la, Câu-hạ-ô-lệ, Ô-ngu-lệ-tất-bà-ha”.

     Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: Nếu Thiện nam tử Ưu Ba Tiên Na lúc ấy đọc kệ này và đọc chú này, chắc chắn rắn độc không thể rơi trúng thân, thân cũng không hoại như đống cám.

     Tôn giả Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ưu Ba Tiên Na chưa từng nghe kệ và chú này, hôm nay Thế Tôn nói kệ và chú này, chính là giúp cho đời sau.

Còn kinh Thủ Lăng Nghiêm, nói rằng do Trung Quốc sáng tác ra là không chính xác, mà do các Tổ bên Ấn Độ truyền, căn cứ vào những lời Phật dạy; các Tổ bên Trung Hoa chỉ căn cứ vào đó mà truyền bá mà thôi.Bằng chứng là kinh Thủ Lăng Nghiêm dịch từ Hán sang việt của Hòa Thượng Thích Duy Lực được dịch từ Phạn sang Hán do Bất La Mật Đế (Tăng Ấn Độ) dịch nghĩa, Di Già Thích Ca (Tăng nước U Trường) dịch lời,  Phòng Dung (Quan Đại Phu nhà Đường) chấp bút.

Nguyên nhân Phật nói kinh này là do Tôn giả A Nan Đà là Thị giả của Phật khi đi khất thực bị tà chú Ma Đăng Già của ngoại đạo nhiếp vào phòng riêng cám dỗ, sắp bị hoại giới thể. Bấy giờ, đỉnh đầu Thế Tôn phóng ra hào quang trăm bảo vô úy, trong hào quang nở ra bảo liên hoa nghìn cánh, trên đó có hóa thân Phật ngồi kết già thuyết Thần Chú, Ngài sai Bồ Tát Văn Thù đem Chú đến cứu hộ, tà Chú bị tiêu diệt, dắt A Nan Đà và Ma Đăng Già về nơi Phật ở.

A Nan Đà gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận là chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tròn đạo lực, nên thỉnh hỏi Như Lai về phương tiện đầu tiên của ba thứ thiền quán; đây là nguyên nhân Phật nói kinh và chú Thủ Lăng Nghiêm. Còn nói về niệm chú của Mật tông không phải chỉ có đọc chú mà đủ, còn phải tu song hành với Lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền Định và trí tuệ. v.v…

Đúng là Phật dạy “Phải thắp đuốc lên mà đi …”, không ai tu giùm được, phải tự mình tu, phải tự mình cứu lấy mình, phải tự mình chọn lựa pháp môn thích hợp với khả năng của mình, phải hành trì tinh tấn lâu dài. Nhưng không phải chỉ có một pháp môn, vì Đức Phật là bậc đại trí tuệ đã nêu ra rất nhiều pháp môn tu, chúng ta có quyền lựa chọn pháp môn tu cho thích hợp với mình, cũng như tùy bệnh mà uống thuốc, thuốc dù tốt mấy mà không đúng bệnh cũng vô ích. Không nên chấp chặt nói rằng chỉ có một món thuốc trị bá bệnh, cũng như không nên nói đức Phật chỉ có một pháp tu thôi, không nên hạ thấp giá trị trí tuệsiêu việt của Phật vậy!


Trong thời đức Phật, niệm Phật là niệm danh từ chung, khác với Trung Quốc niệm danh từ riêng. Niệm danh từ chung là niệm mười đức hiệu của đức Phật, gồm có Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Do vậy, mỗi khi niệm mười đức hiệu này, chúng ta phải nỗ lực đạt được các nhân cách Phật nêu trên. “Ứng cúng” là đáng cúng dường, muốn đáng cúng dường phải có giới hạnh thanh cao. Niệm Phật theo cách này là cách tu và học theo nhân cách Phật để đạt được các nhân cách vĩ đại đó.

Qua đến Trung Quốc, niệm Phật trở thành niệm danh từ riêng: “Nam Mô A-di-đà Phật”. Về sau, người ta cường điệu hóa năng lực mầu nhiệm của đức Phật A-di-đà qua bốn mươi tám lời nguyện của thầy Pháp Tạng, vốn không phải của đức Phật A-di-đà. Phật giáo Tịnh độ tông của Trung Quốc mặc nhiên xem thầy Pháp Tạng là hóa thân của Phật A-di-đà và truyền bá bốn mươi tám lời nguyện đó như là chân lý của đức Phật A-di-đà. Đó là ngộ nhận cần điều chỉnh.

Hai cách niệm Phật danh từ chung và danh từ riêng nêu trên hoàn toàn khác nhau. Niệm Phật danh từ chung là cách niệm để học các đức hiệu tốt đẹp để đạt được chính niệm. Niệm Phật danh từ riêng là để cầu phước báu vãng sinh Tây phương. Muốn đạt tới chính niệm thì phải loại trừ hết tất cả các ước nguyện.

 

Nhận xét:     Vấn đề tu niệm Phật không phải với ý nghĩa cầu khẩn như người theo Thần quyền, mà mục đích là đưa tâm tới thanh tịnh, Niệm danh hiệu riêng Đức Phật A Di Đà là nghĩ đến một bậc Toàn giác trí tuệ thông suốt mười phương, có ánh sáng chiếu vô biên, thọ mạng vô cùng, công đức vô lượng. Niệm danh hiệu chung là nghĩ đến 10 đức tính của tất cả Chư Phật. Dù niệm danh hiệu chung hay danh hiệu riêng, đều phải luôn luôn nhớ nghĩ đến câu niệm, tập trung tâm vào câu niệm, đây là chính niệm để đạt tâm tịch tịnh. Từ tâm tịch tịnh đưa tới định, từ định đưa tới trí tuệ, có trí tuệ rồi thì sẽ được giải thoát, lúc đó muốn đi đâu thì đi trong mười phương thế giới, nên muốn qua Tây phương không phải là việc khó;đó là mục đích của niệm Phật tam muội của người tu Tịnh độ tông vậy. Còn nói tín nguyện, ước nguyện là lúc ban đầu trước khi thực hành dù tu theo phương pháp nào cũng cần phải có; sau khi có tín nguyện rồi, khi thực hành thì không cần đề cập tới nữa, không cần cầu mong mà chỉ chú tâm trong việc hành trì kiên cố, như đã phân tích ở trên.

 

Đang niệm Phật mà để cho ước nguyện, phát nguyện, hay hồi hướng công đức xen lẫn vào thì hành giả không còn chính niệm nữa, vì đang bị vọng niệm và tham chi phối. Khi niệm Phật đúng cách thì không cầu nguyện đang lúc niệm. Khi kết thúc thời niệm Phật rồi mới hồi hướng công đức. Lúc đó, hành giả đang thực tập từ bi, hướng tâm về người khác. Từ việc hướng tâm về tha nhân một cách tích cực, ta mới có các hành động phụng sự con người một cách cụ thể, như một hệ quả kéo theo sau.

 

Nhận xét:Không có ai khi đang niệm Phật mà ngưng lại để cầu nguyện xin qua Tây phương, cũng không có một người nào đang tu niệm Phật mà ngưng lại để hồi hướng công đức. Có chăng là một số người buổi sáng trước khi niệm Phật có thời khóa nghi lễ, và tới cuối ngày trước khi đi ngủ thì hồi hướng công đức. Cũng có một số người tu Tịnh độ không cầu, mà cũng chẳng hồi hướng, chỉ có một đường niệm Phật không ngưng nghỉ, bởi vì từ sáng sớm vừa tỉnh thức chưa mở mắt, tâm đã bắt đầu niệm Phật rồi, tới khi đi ngủ, tâm vẫn còn niệm Phật cho tới ngủ mới thôi niệm. Như vậy thì chẳng còn thời giờ đểcầu và hồi hướng; do đó không nên đặt nặng vấn đề cầu nguyện và hồi hướng.

 

Ngày nay, phần lớn chúng ta ít chú trọng đến hành động từ bi cụ thể, mà chỉ tập chung vào phát nguyện. Cuối cùng, tu theo cách này là “tu trên mây”, tu thiếu hiện thực và tu thiếu nhập thế.

 

Nhận xét:Như đã phân tích ở trên, phát nguyện là căn bản, là cái sức, là cái lực cho sự tin tưởng, sự theo đuổi, không có phát nguyện khi gặp trở ngại khó khăn sẽ dễ dàng thoái lui bỏ cuộc; bởi vì phát nguyện là sự quyết tâm, là nền tảng sẽ đưa người phát nguyện dấn thân trên đường đạo một cách mạnh mẽ.

Như vậy, nếu nói người có phát nguyện là “tu trên mây, tu thiếu hiện thực và thiếu thực tế” là sai sự thật, ví dụ Đức Phật sau khi Ngài nhận thấy tai hại trong việc tu khổ hạnh, Ngài đã phát nguyện ở dưới gốc cây Bồ Đề rằng “Nếu ta không khám phá ra chân lý thì dù thịt nát xương tan ta cũng không rời chỗ này”.

     Vì sự phát nguyện đó, Ngài đã hết sức kiên cốhành trì thiền định trong suốt 49 ngày dài đằng đẵng, cuối cùng Ngài đã đạt bậc Chính Đẳng Chính Giác; đó là công năng ghê gớm của lời “phát nguyện” mà ai cũng đã thấy. Không ai cóthể phủ nhận được, vì nếu phủ bác tức cho là Đức Phật đã “tu trên mây, tu thiếu hiện thực và tu thiếu nhập thế” sao? Vì thế cho nên không thể có một lý lẽ nào bác bỏ được những lời “phát nguyện” vậy.

 

Cần xác nhận ở đây rằng tôi không tấn công cá nhân, không phê phán Tịnh độ tông, mà chỉ nói về các hình thái của Tịnh độ tông, phái nào gần với đạo Phật gốc và phái nào quá xa với đạo Phật gốc. Sự lựa chọn còn lại là của người đọc và nghe mà thôi. Đúng hay sai tùy mọi người phán xét. Chúng tôi không tư biện. Chúng tôi dựa vào kinh điển để đánh giá vấn đề, chứ không dựa vào thành kiến, định kiến cá nhân, thể hiện quan điểm với một trường phái hay con người nhất định nào đó. Mục đích duy nhất của chúng tôi là làm thế nào để truyền bá lời Phật dạy một cách chính xác, giúp quần chúng lắng nghe, rồi áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hàng ngày, để đạt được an lạc, hạnh phúc, bây giờ và tại đây.

 

Nhận xét:     Ý của tác giả xem ra là có tâm tốt, nói lên những lời “Việt Nam Hóa Đạo Phật, thể hiện được tinh thần dân tộc về Phật giáo, lấy văn hóa Phật giáo Việt Nam làm nền tảng,v.v…” Nhưng nội dung trong năm câu Hỏi Đáp của bài viết dưới danh nghĩa là “Cải cách Phật Giáo Việt Nam”, với đầu đề: “TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT ĐỂ PHỤNG SỰ NHÂN SINH”.Tác giả đã muốn xóa bỏ các tông Phật giáo Bắc truyền vì cho là của Trung Quốc để thay thế bằng Phật giáo Nam truyền dưới danh từ mới là “Đạo Phật Nguyên Chất”; chúng tôi e rằng có rất nhiều người không đồng ý với tác giả và việc này khó mà thực hiện!

     Nhưng như chúng tôi đã phân tích khá tỉ mỉ từ đầu cho đến cuối rằng những gì là mê tín như cúng sao giải hạn, đốt vàng mã tiền giấy v.v… thì phải dẹp bỏ. Những chùa hành trì sai ý nghĩa của kinh Phật dạy, phải sửa lại cho đúng. Những gì có tính cách lệ thuộc văn hóa ngoại bang như các biểu tượng, các hoành phi câu đối trong các Đình, Chùa, Lăng, Miếu viết bằng chữ Hán nên sửa đổi bằng chữ Việt cho có tính cách văn hóa Việt Nam. Đó là cải cách sửa đổi, làm được những điều nàyđã là khó rồi, hoàn thành được thì chúng ta có một văn hóa Phật giáo Việt Nam tiến bộtốt đẹp. Còn những gì liên quan đến Phật giáo bắt nguồn từ Phật giáo Ấn Độ, cho dù đang được hành trì ở bất cứ nước nào, mà nó không trái với giáo lý căn bản của Phật, chúng ta nên du nhập,học hành và giữ gìn tất cả những cái hay, cái tiến bộ của đạo Phật.

     Chúng ta không nên chấp sai cho rằng các pháp môn là của Trung Hoa mà bỏđi những tinh hoa của đạo Phật, chúng ta không thể chỉ giữ cái gốc cây mà chặt bỏ hết cành lá ngọn của cây, vì nếu chúng ta làm như vậy thì cây sẽ sống èo ọt và có thể chết. Các pháp môn đều là cành lá của đạo Phật, không ai có thể phủ bác các kinh điển của Bắc truyền, nên không thể dẹp bỏ, vì nếu hiểu nghĩa kinh thì không có kinh nào trái với các kinh căn bản, nhưng nó cao siêu phóng khoáng tiến bộđúng với tinh thần trí tuệ của đạo Phật. Tóm lại, chúng ta học và hành tất cả các kinh điển của Nam cũng như Bắc truyền, như vậy Phật pháp Việt Nam không bị giới hạn mà sẽ phong phú nhất trong các nướcPhật giáotrên thế giới vậy.

 

Toàn Không

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2010(Xem: 4202)
Phải chờ thêm 12 năm nữa, cho đến 1871, khi không thể giấu mãi niềm tin chắc của mình, ông mới xuất bản tác phẩm "Thủy tổ của con người". Darwin viết thầm trong Nhật Ký: "Để tránh khỏi phải nói rằng tôi đã trở thành duy vật đến thế, tôi phải nhẹ nhàng trong cách nói, chỉ nói rằng những cảm xúc, những bản năng, những mức độ tài năng, tất cả đều di truyền, bởi vì bộ não của đứa bé giống như bộ não của cha mẹ nó" (18). Ông viết trong thư gửi Karl Marx: Đừng tấn công trực tiếp Thiên chúa giáo làm gì, vô ích đối với quần chúng; "hãy làm giàu trí óc con người bằng tiến bộ của khoa học, chỉ nhờ thế tự do tư tưởng mới phát triển thêm. Và bởi vậy, tôi tránh nói đến tôn giáo, chỉ hạn chế vào khoa học" (19).
16/07/2010(Xem: 7944)
Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.
04/07/2010(Xem: 5156)
1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi ngày làm đẹp thêm nếp sống ấy.
03/07/2010(Xem: 5198)
“Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư.
03/06/2010(Xem: 4044)
"Phải có gì của riêng ta thì mới dung thông được với cái của người. Khi ta không biết ta là ai mà mở cửa đón nhận thì mất luôn cả mình. Điều đáng sợ nhất trong văn hóa VN là đánh mất bản sắc của mình, vậy nhưng, hình như ta còn chưa nhất trí được bản sắc của mình là gì nữa"
21/05/2010(Xem: 4489)
Tôi mới đây được xem bộ phim 'Kẻ trộm sách' của đạo diễn Brian Percival và trong đầu luôn ghi nhớ hình ảnh cô bé xinh xắn, đáng yêu Liesel Meminger nghiêng mình bên trang sách.
20/05/2010(Xem: 4844)
30 tháng 7, 2009 Vấn đề Alexandre de Rhodes chưa thể quên đối với người dân Việt nhất là với giới nghiên cứu vì vài lý do: a- Sau năm 1993 “bia 1941” của A. de Rhodes, được dựng lại tại khuôn viên thư viện Hà Nội và tên đường A. de Rhodes cũng được tái lập tại TP. Hồ Chí Minh/
10/03/2010(Xem: 3775)
Ông Đỗ Trung Hiếu là người Khánh Hòa, nguyên là giáo sư của trường Trung học Bồ Đề Nha Trang. Khoảng năm 1962-1963, Ông xuất hiện trong phong trào tranh đấu Phật Giáo Nha Trang và Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc . Sau đó không ai biết tông tích ông. Sau năm 1975 ông xuất hiện và giữ vai trò trọng yếu trong Ban Tôn Giáo chính phủ. Năm 1990 ông đã được ra khỏi đảng do bất đồng chính kiến. ‘Niềm Riêng’ ở cuối bài Thống nhất Phật giáo nói lên rất nhiều điều.
26/09/2009(Xem: 6229)
Thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch thành lập cơ cấu mới của Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan gồm những thành viên trung kiên theo đường lối dân tộc và Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
15/09/2009(Xem: 6402)
Để đối phó với tình hình khó khăn, bị vu cáo trắng trợn và đe dọa thường trực, Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành Giáo chỉ thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo mới
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567