Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Nói của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo

24/09/201204:42(Xem: 6101)
Tiếng Nói của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo
buddha
TIẾNG NÓI CỦA PHẬT PHÁP
& TƯƠNG LAI PHẬT GIÁO


Nguyên Hiệp dịch


Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu.
Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ.

Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những kháiniệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tâythích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn nó bằng con mắt hiện đại, kết quả có thể làm tổn hại Phật giáo. Phật giáo có thể bị sáp hợp hay bị loại bỏ: không phải một cách cố ý, mà chỉ vì thế giới hiện đại thiếu khả năng hiểu và thực hành Phật pháp ở một tầm mức sâu.

Nhưng nguy cơ thậm chí còn lớn hơn điều này. Cách hiểu hiện đại về thực tại đang trở thành cái hiểu toàn cầu về thực tại. Nó đang biến đổi những nền văn hóa truyền thống, bao gồm những nền văn hóa mà ở đó giáo pháp Đức Phật đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm ý nghĩa trong đời sống. Nếu việc hiểu của chúng ta về Phật pháp phản ảnh những sự phát triển hiện đại này, thì một sự giảithích méo mó và hạn chế về giáo pháp có thể gây hiểu nhầm về những lời dạy chân thật của Đấng Giác ngộ. Nếu điều này xảy ra, Phật giáo có thể không còn nữa đối với loài người.

Văn hóa hiện đại là nguồn của công nghệ đáng kinh ngạc và của tri thức khoa học sâu sắc. Những thành tựu của nó, mà chúng ta thường chấp nhận không chút phân vân, đã giúp chúng ta từ khắp mọi nơi trên thế giới đến đây; chúng khiến cho hội nghị lớn này nghe được lời nói của tôi. Tuy nhiên nền văn hóa giống nhau này vô cùng hỗn loạn. Khắp mọi nơi, người ta đang trôi dạt không phương hướng giữa một đại dương mênh mông không đảm bảo và hỗn độn. Xung đột và đối kháng sâu sắc đe dọa nhấn chìm thế giới này trong tranh chấp. Những thế lực quyền lực tiêu cực tạo nên hiểm nguy cho tất cả loài người. Họ thậm chí đe dọa trái đất, nơi chúng ta nương náu, nơi chúng ta tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa đời sống.

Chính ở bên trong nền văn hóa này, với tất cả sự yếu kém, mâu thuẫn và gãy vỡ của nó, Phật giáo sẽ phải định hướng đi của mình. Hơn 2.500 năm qua, Phật pháp đã hướng dẫn nhiều người. Tuy nhiên bây giờ, Phật pháp đang sống ở một thế giới mới xa lạ, một thế giới mà nó nói một ngôn ngữ khác và nhìn thực tại bằng một cách thức khác. Trong bối cảnh mới này, Phật pháp sẽ phải học cách nói bằng một tiếng nói mới. Bằng cách nào đó, Phật pháp và xã hội hiện đại phải đi vào đối thoại.

Là những Phật tử thuần thành, tin chắc vào giá trị của Phật pháp ở nơi chính xã hội của chúng ta và đối với thế giới nói chung, chúng ta phải giúp Phật pháp tìm được tiếng nói mới này, để Phật pháp có thể tiếp xúc với thế giới hiện đại, làm cho thế giới lắng nghe theo những phương cách không làm méo mó giáo pháp. Nếu chúng ta quay lưng lại với những khuynh hướng đang định hình nên thế giới ngày nay, nếu chúng ta nói chuyện với những người thực hành Phật pháp khác bằng những phương thức cũ và bằng những ngôn ngữ cũ, chúng ta sẽ hoàn toàn không nói được với ai cả. Thế giới sẽ quay mặt với Phật pháp. Nếu chúng ta không thể tìm ra được một tiếng nói cho Phật pháp nghe lớn và rõ hơn, vượt lên trên sự ồn ào huyên náo của thế giới khích động này, khả năng để Phật pháp làm lợi ích tất cả loài người ở thời điểm này sẽ không bao giờ được thực hiện.

Thế giới hiện đại thưởng công những người nói lớn. Ngày nay cả ngàn tiếng nói hét vang lên từ mỗi góc phố, từ mỗi màn hình máy tính. Chúng luôn đưa ra điều mới tiếp theo. Sẽ là một nhầm lẫn khi cố hét át chúng, cạnh tranh sự chú ý nơi một đấu trường của giải trí và những quan tâm luôn thay đổi. Đức Phật khiển trách những lời nói vô bổ, khiển trách những lời nói đưa tinh thần con người rời xa những giá trị sâu sắc hơn. Sự cảnh báo này quan trọng hơn ngày hôm nay, khi mà thị trường đi theo chúng ta vào tận nhà và vào trong đầu của chúng ta, tràn lan và thâm nhập khắp mười phương. Nếu người thực hành Phật pháp bằng lòng sử dụng ngôn ngữ của thị trường, họ sẽ đưa ra một con đường tâm linh quá ư đơn giản được thiết định để làm cho người ta cảm thấy tốt cho họ, hơn là để chỉ một con đường giải thoát. Tất cả chúng ta biết những điều đó có thể kết thúc như thế nào, và những kết quả sẽ hết sức buồn chán như thế nào. Không… tiếng nói của Phật pháp cho thời hiện đại phải nói bằng một nhịp điệu và âm giọng khác. Nó phải thể hiện độ sâu và tầm nhìn rộng của lời dạy Đức Phật. Điều đó không bao giờ là một nhiệm vụ dễ dàng. Bây giờ nó càng khó khăn hơn bao giờ hết.

Tất nhiên, chúng ta không thể từ bỏ. Chúng ta phải nỗ lực hết mình. Ở đây tôi muốn tập trung vào một khía cạnh cụ thể của trách nhiệm này. Tại thời điểm quan trọng nơi lịch sử Phật pháp và lịch sử thế giới này, chúng ta phải nhằm đến việc trao tiếng nói cho Phật pháp bằng những ngôn ngữ của phương Tây, mà không đánh mất tinh thần và ý nghĩa của Phật pháp khi chúng ta làm như vậy.

Cho phép tôi nói điều này rõ hơn. Bây giờ và những năm đến, Phật giáo phải học nói tiếng Anh. Tại sao? Bởi vì tiếng Anh đang nhanh chóng trở thành ngôn ngữ chung của thế giới. Nhưng tiếng Anh chúng ta sử dụng bây giờ là ngôn ngữ của kinh doanh và thương mại, ngôn ngữ của giải trí và công nghệ, ngôn ngữ được thiết định để nói với chúng ta những cái mới của “cái mới tiếp theo”. Dạng tiếng Anh đó hoàn toàn không giúp hiểu được ý nghĩa đầy đủ giáo pháp thâm sâu của Đức Phật. Do vậy công việc sắp đến là lớn hơn trước đây chúng ta có thể tưởng tượng. Công việc chuyển dịch kinh Phật sang tiếng Anh đã được thực hiện hơn một thế kỷ, và nhiều việc đã được thực hiện. Nhưng bây giờ không chỉ cần có thêm những bản kinh được chuyển dịch, mà còn cần một giải pháp hoàn toàn mới. Nếu các bản dịch không chứa đựng được ý nghĩa đầy đủ của Phật pháp, có nghĩa chúng chưa được chuẩn bị đủ. Chúng ta phải mạnh dạn hơn. Chúng ta phải thực hiện mục đích là biến tiếng Anh thành một ngôn ngữ của Phật pháp.

Tại sao thực hiện công việc này là thực sự quan trọng? Tại sao tiếng Anh phải trở thành một ngôn ngữ của Phật pháp? Bởi vì những ngôn ngữ Phật pháp mà chúng phục vụ chúng ta qua hàng thế kỷ đang có nguy cơ biến mất. Có bao nhiêu người ngày hôm nay có thể đọc được tiếng Pāli? Có bao nhiêu người ngày hôm nay biết tiếng Sanskrit hay những ngôn ngữ khác của Phật giáo Đại thừa? Nếu chúng ta nhìn về trước thêm 20 hay 50 năm nữa, có bao nhiêu người còn biết đến những ngôn ngữ này? Sự hợp lý nội tại của một xã hội đang gia tăng tính toàn cầu đòi hỏi rằng dân chúng của thế giới phải nói cùng một ngôn ngữ. Nếu Phật pháp không thể tìm thấy tiếng nói của mình ở nơi ngôn ngữ đó, nếu nó không thể nói ngôn ngữ đó với đầy đủ thẩm quyền, tính chính xác và chiều sâu của nó, nó sẽ không có vị trí nơi nền văn hóa toàn cầu mới mẻ.

Một vài người có thể đáp lại rằng Phật pháp đã nói tiếng Anh rồi. Xét cho cùng, chúng ta ở đây, tập trung lại với nhau từ tất cả mọi nơi trên thế giới, chia sẻ quan điểm của chúng ta bằng tiếng Anh. Vậy không phải chúng ta có một ngữ vựng Phật pháp chung rồi sao? Chúng ta không phải đã có thể trình bày giáo pháp đến thế giới hiện đại rồi sao?

Có sự thật nơi lời khẳng định này. Những vị thầy lớn đang dần học cách trình bày giáo pháp bằng tiếng Anh, hay nói thông qua những người phiên dịch đã học sâu giáo pháp. Những người Tây phương cũng đang học và thực hành theo những con đường xưa, để họ có thể chia sẻ với người khác lợi ích của việc thực hành của họ. Và nếu những nỗ lực để tái thiết lại Phật pháp ở Ấn Độ được tiếp tục, những nỗ lực mà ở đó tôi tự hào đóng một vai trò nhỏ, thì triển vọng sẽ sáng sủa hơn, vì Ấn Độ là duy nhất trong việc kết hợp những truyền thống tâm linh vững mạnh với một sự am hiểu sâu về tiếng Anh.

Lại nữa, để ỷ lại vào những sự phát triển này, để nghĩ rằng những vấn đề sắp được giải quyết rồi, là bỏ qua một điểm cơ bản. Đây là một câu hỏi cần xem xét: Điều gì khiến chúng ta nghĩ rằng ngữ vựng tiếng Anh chúng ta sử dụng ngày nay trong những bài pháp thoại và những bản dịch của chúng ta là chuyển tải được sức mạnh và chân lý của lời dạy Đức Phật? Ngay đối với những thuật ngữ căn bản nhất điều này có thể là một giả định sai lầm.

Một nhà thơ vĩ đại người Anh thế kỷ XIX, Percy Bysshe Shelly, từng viết rằng “những nhà thơ là những nhà lập pháp không được thừa nhận của cuộc đời”. Điều ông muốn nói là rằng những người trao cho chúng ta ngôn từ của chúng ta, những người tạo ra ngôn ngữ luôn thay đổi của chúng ta, sẽ định hướng cách chúng ta hiểu thực tại. Vì vậy chúng ta phải hỏi: những gì là thực tại mà những bản dịch và thuật ngữ tiếng Anh của ngày hôm nay xây dựng nên? Từ ngữ gì họ sử dụng để chuyển tải đến thính giả chân lý giáo pháp Đức Phật? Nếu những dịch giả chỉ nắm được nghĩa tương đương gần nhất của Tây phương về những thuật ngữ Phật học vốn có nghĩa uyên áo, thì thực sự có thể chuyển tải được bao nhiêu?

Điều này không phải là một quan tâm học thuyết hay học thuật. Xung quanh chúng ta, chúng ta có thể nhìn thấy những người Tây phương diễn đạt những quan điểm giới hạn của họ về chân lý huyền nhiệm mà Đức Phật đã thiết định. Ví dụ, có một xu hướng mạnh mẽ biến Phật giáo thành một giáo lý tự lực hơn, mà thật sự là phương cách khác dành cho những người bị vướng vào trong những chiếc bẫy của văn hóa hiện đại nhằm tìm kiếm sự khuây khỏa, thoát khỏi stress, lo lắng và rối trí. Nếu ngôn từ chúng ta sử dụng cho việc truyền bá Phật pháp có gốc rễ của chúng ở nơi nhưng quan tâm và mục đích như vậy, làm cách nào ta có thể đưa con tim và tâm trí của những người lắng nghe ta đến việc giải thoát ra khỏi luân hồi? Ngay cả những vị thầy vĩ đại nhất cũng không thể truyền tải những gì ngôn ngữ sẽ không để cho họ nói.

Bị giáng xuống đến tầm mức này, giáo lý chân thực của Đức Phật sẽ bị đánh mất. Điều tệ hại là, những thế hệ tương lai sẽ không thể nhận biết những gì đã xảy ra. Họ sẽ không bao giờ biết rằng ý nghĩa nội tại của giáo pháp đã bị làm cho tan chảy.

Cho phép tôi đưa ra một vài ví dụ. Tất cả chúng ta nói về sự giác ngộ (enlightenment) của Đức Phật, lễ kỷniệm lần thứ 2.600 mà chúng ta cử hành tại cuộc họp này. Nhưng từ “enlightenment” có đúng với sự giác ngộ của Đức Phật không? Thuật ngữ tiếng Anh “enlightenment” có phụ nghĩa lịch sử mà nó không phù hợp với Phật pháp. Nó được liên kết với khoa học và thế giới vật chất, liên kết với sự khẳng định rằng tính hợp lý quy ước và năm giác quan có thể truyền đạt phạm vi tổng thể của những gì là đúng, và liên kết với thẩm quyền của mỗi cá nhân để tuyên bố chân lý của riêng mình. Không có phụ nghĩa nào trong các nghĩa này phù hợp với Phật pháp. Chúng ta có thể làm cho tốt hơn không?

Lại nữa, từ sati (S. smṛti, niệm) thì hầu như được dịch là “mindfulness”. Ngày nay kháiniệm “mindfulness” này thì rất phổ biến. Việc tu tập được gọi là mindfulness - được đặt cơ sở nơi việc làm giảm bớt căng thẳng đã mang lợi ích cho hàng chục ngàn người qua việc giảng dạy một sự thực hành được gọi là “sự chú ý đơn thuần” (bare attention). Đây rõ ràng là một sự phát triển tích cực. Tuy nhiên có phải “mindfulness” được hiểu như “bare attention” đưa đến trí tuệ (paññā/ prajñā) không, sự hiểu biết khai mở bản chất thật sự của các pháp? Khi chúng ta giải quyết quan điểm này, có phải chúng ta đang để Phật pháp nói bằng tiếng nói của chính nó không? Hay là chúng ta chỉ giữ chặt những chọn lựa được thực hiện mà không có sự hiểu biết chân thật và nghiên cứu cẩn thận.

Tôi đã chọn hai trường hợp này bởi vì chúng là căn bản, và bởi vì từ ngữ tiếng Anh tương đương với thuật ngữ Phật pháp trong mỗi trường hợp được thiết lập quá vững chắc. Đó là tôi không chạm đến ngữ vựng triết học phức tạp của Abhidharma và những truyền thống luận tạng, nơi sự hiểu biết chính xác và chuyển dịch đúng dựa vào những suy xét tinh tế và phức tạp. Hãy xem từ “vedanā” (thọ), hầu như luôn được dịch là “feeling”. Những sinh viên mà tôi dạy từng gặp khó khăn với thuật ngữ này, bởi vì từ tiếng Anh “feeling” có một phạm vi nghĩa rộng hơn vedanā. Để cứu họ ra khỏi sự bối rối này, chúng ta phải nên nhìn bằng những đôi mắt sáng rõ vào cách thuật ngữ này đã được sử dụng khắp các kinh luận như thế nào. Chúng ta phải nhìn rõ vào cách nó được dịch sang những ngôn ngữ Phật pháp khác như Hán ngữ, Tạng ngữ, v.v… Sau đó, chúng ta phải tìm hiểu từ tiếng Anh “feeling” và phạm vi ý nghĩa của nó, cố gắng làm rõ và nói những giới hạn mà việc hiểu phương Tây về cách tâm thực sự đóng chức năng. Kết luận, tôi sẽ hỏi có một sự thay thế nào tốt hơn không, điều đáp ứng mục đích đầy đủ hơn.

Lại thêm một vấn đề cũng trong chiều hướng đối nghịch. Mới đây tôi có tham dự một hội nghị, ở đó nhiều học giả Tây phương giỏi nhất về Phật giáo đã thảo luận về vấn đề đạo đức học Phật giáo. Trong hầu hết mọi cuộc thảo luận, những câu hỏi căn bản đã được nêu ra. Có phải những thuật ngữ đạo đức (ethics)và “luân lý” (morality)thực sự chuyên chở được ý nghĩa của thuật ngữ “sīla/ śīla” (giới) không? Những thuật ngữ phương Tây như “tự do” (freedom)và “tự do ý chí” (free will)có giúp cho những sinh viên hiện đại học Phật pháp hiểu những gì muốn nói là giải thoát khỏi luân hồi (saṃsāra)và ý muốn đạt đến giác ngộ? Không có ai có câu trả lời cho những câu hỏi này. Thậm chí không mấy người hỏi về chúng. Nó là một sự nối kết đang thiếu trong việc truyền bá Phật pháp vào thế giới hiện đại.

Trong nhiều năm qua, tôi là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam(Mangalam Research Center for Buddhist Languages). Ở đấy, làm việc với những học giả hàng đầu, chúng tôi đang cố gắng làm một vài điều về sự nối kết đang thiếu này. Chúng tôi hy vọng tham gia với các vị thầy của tất cả các truyền thống trong công việc này, và khuyến khích sự cộng tác, sử dụng công nghệ số của phương Tây để tạo nên tri thức cần đến. Chúng tôi tận tâm tạo nên một nguồn tài liệu trực tuyến có tên gọi là Buddhist Translators Workbench, và qua đây chúng tôi hy vọng thực hiện một sự đóng góp khiêm tốn đối với những nhu cầu cấp bách mà tôi đã trình bày.

Càng làm tôi càng nhận thấy đề án này là rộng lớn và thật sự cấp bách. Nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử tưtưởng để làm rõ ý nghĩa của giáo pháp không phải là một quan tâm học thuật. Những gì chúng tôi làm sẽ giúp định hướng tương lai Phật pháp. Nó sẽ giúp quyết định Phật pháp có một tương lai hay không.

Tất cả mọi truyền thống Phật pháp đồng ý rằng ngôn ngữ không bao giờ có thể khai mở chân lý cao nhất. Nếu điều đó là như vậy thì vấn đề ngôn ngữ chúng ta sử dụng có thật sự quan trọng không? Vâng… nó là quan trọng. Nó hết sức quan trọng. Chân lý của Phật pháp vượt qua ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ chỉ ra chân lý, giống như một tấm bản đồ chỉ hướng đúng để đi. Ngôn ngữ là tiếng nói mà thông qua đó chân lý mở ra, mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc hành trình vào những lĩnh vực không được biết. Nếu ngôn ngữ của chúng ta dẫn chúng ta đi lạc đường, nếu chúng chỉ hướng sai hay đánh lừa chúng ta về mục đích, cuộc hành trình sẽ kết thúc ở nơi sự thất vọng hay sự lừa gạt.

Để tìm một tiếng Anh có thể chuyển tải được Phật pháp, chúng ta cần những học giả giỏi nhất từ phương Tây, những học giả được đào tạo về ngôn ngữ đúng cách mà họ đang trở nên quý hiếm ngay cả ở nơi những trường đại học Tây phương có uy tín nhất. Chúng ta cũng sẽ cần sự giúp đỡ của những vị thầy giỏi Phật pháp từ tất cả mọi truyền thống, những vị đạo sư có thể rót trí tuệ và hiểu biết của họ vào trong những chiếc bình ngôn ngữ nói và viết.

Đây là nơi sự đối thoại phải bắt đầu. Đây là cách Phật pháp sẽ tìm lấy tiếng nói của nó: với sự quan tâm, nhiệm vụ và tính chính xác. Nếu tiến trình này thành công thực sự, tiếng Anh sẽ trở thành một ngôn ngữ Phật pháp, và Phật pháp, được tái tạo để nói với thế giới hiện đại, sẽ ảnh hưởng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày, định hướng sự nhận thức. Phật pháp sẽ thêm một lần nữa làm công việc chuyển đổi kỳ diệu của mình. Như ở trong những thế kỷ qua, người ta sẽ hiểu bằng tất cả con tim rằng giải thoát khổ đau là có thể. Họ sẽ biết điều này bởi ngôn ngữ mà họ sử dụng, kháiniệm mà họ học để suy nghĩ, thực tại mà từ ngữ lập nên. Nếu điều này xảy ra, giáo pháp của Đức Phật sẽ thật sự tìm ra tiếng nói của nó cho thế giới hiện đại, và chúng ta có thể hy vọng rằng Phật pháp sẽ trường tồn.

Nguồn: www.mangalamresearch.org.

Jack Petranker(*)- Nguyên Hiệp dịch

(*)Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2010(Xem: 4237)
Phải chờ thêm 12 năm nữa, cho đến 1871, khi không thể giấu mãi niềm tin chắc của mình, ông mới xuất bản tác phẩm "Thủy tổ của con người". Darwin viết thầm trong Nhật Ký: "Để tránh khỏi phải nói rằng tôi đã trở thành duy vật đến thế, tôi phải nhẹ nhàng trong cách nói, chỉ nói rằng những cảm xúc, những bản năng, những mức độ tài năng, tất cả đều di truyền, bởi vì bộ não của đứa bé giống như bộ não của cha mẹ nó" (18). Ông viết trong thư gửi Karl Marx: Đừng tấn công trực tiếp Thiên chúa giáo làm gì, vô ích đối với quần chúng; "hãy làm giàu trí óc con người bằng tiến bộ của khoa học, chỉ nhờ thế tự do tư tưởng mới phát triển thêm. Và bởi vậy, tôi tránh nói đến tôn giáo, chỉ hạn chế vào khoa học" (19).
16/07/2010(Xem: 7975)
Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.
04/07/2010(Xem: 5195)
1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi ngày làm đẹp thêm nếp sống ấy.
03/07/2010(Xem: 5223)
“Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư.
03/06/2010(Xem: 4101)
"Phải có gì của riêng ta thì mới dung thông được với cái của người. Khi ta không biết ta là ai mà mở cửa đón nhận thì mất luôn cả mình. Điều đáng sợ nhất trong văn hóa VN là đánh mất bản sắc của mình, vậy nhưng, hình như ta còn chưa nhất trí được bản sắc của mình là gì nữa"
21/05/2010(Xem: 4512)
Tôi mới đây được xem bộ phim 'Kẻ trộm sách' của đạo diễn Brian Percival và trong đầu luôn ghi nhớ hình ảnh cô bé xinh xắn, đáng yêu Liesel Meminger nghiêng mình bên trang sách.
20/05/2010(Xem: 4885)
30 tháng 7, 2009 Vấn đề Alexandre de Rhodes chưa thể quên đối với người dân Việt nhất là với giới nghiên cứu vì vài lý do: a- Sau năm 1993 “bia 1941” của A. de Rhodes, được dựng lại tại khuôn viên thư viện Hà Nội và tên đường A. de Rhodes cũng được tái lập tại TP. Hồ Chí Minh/
10/03/2010(Xem: 3835)
Ông Đỗ Trung Hiếu là người Khánh Hòa, nguyên là giáo sư của trường Trung học Bồ Đề Nha Trang. Khoảng năm 1962-1963, Ông xuất hiện trong phong trào tranh đấu Phật Giáo Nha Trang và Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc . Sau đó không ai biết tông tích ông. Sau năm 1975 ông xuất hiện và giữ vai trò trọng yếu trong Ban Tôn Giáo chính phủ. Năm 1990 ông đã được ra khỏi đảng do bất đồng chính kiến. ‘Niềm Riêng’ ở cuối bài Thống nhất Phật giáo nói lên rất nhiều điều.
26/09/2009(Xem: 6296)
Thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch thành lập cơ cấu mới của Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan gồm những thành viên trung kiên theo đường lối dân tộc và Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
15/09/2009(Xem: 6451)
Để đối phó với tình hình khó khăn, bị vu cáo trắng trợn và đe dọa thường trực, Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành Giáo chỉ thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo mới
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567