Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vị Trí Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trung Quốc (phần 2)

26/09/201009:07(Xem: 3116)
Vị Trí Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trung Quốc (phần 2)

Vị Trí Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trung Quốc (phần 2)
Thích Tâm Mãn

Đăc Trưng Hình Thành Lịch Sử Văn Hóa Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trong Nền Kiến Trúc Tôn Giáo Trung Quốc.

(CMT) PhậtGiáo là một tôn giáo ngoại lai không có nguồn gốc từ Trung Quốc, kiến trúc Phật Giáo cũng không được sinh ra từ nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc. Phật Giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và phát triển ở vùng đất có nền văn minh cổ xưa này, dựa vào tư tưởng văn hóa truyền thống của Trung Quốc kết hợp thành một tôn giáo ngoại lai có sự kết hợp giữa giáo nghĩa Phật Giáo và truyền thống văn hóa Trung Quốc. Điều dễ nhận thấy nhất là nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc không phải là phiên bản của kiến trúc Phật Giáo Ấn Độ, nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo là sự kết tinh của văn hóa Phật Giáo và truyền thống văn hóa tư tưởng Trung Quốc.

Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo thể hiện sự hoằng truyền giáo nghĩa Phật Giáo, biểu đạt ý niệm Phật Giáo, lấy sự sùng kính Đức Phật làm mục đích sáng tạo nghệ thuật. Trong kiến trúc Phật Giáo, Phật tự là quần thể kiến trúc chính, là nơi biểu thị sự sùng bái mẫu vật hình tượng, Phật tháp, thạch quật cũng có chung một mục đích. Phật Giáo lý tưởng hóa ý thức sùng bái lên hình tượng Phật tự, Phật tháp, thạch quật, các kiến trúc thờ Phật khác, vay mượn nhiều hình thức nghệ thuật để biểu đạt những cảm tình của tôn giáo, cử hành cả những nghi thức tôn giáo.

Phật tự là nơi Tăng Lữ phụng thờ Đức Phật, Xá Lợi, các di vật của Đức Phật, và là chỗ ở hằng ngày của chư Tăng cũng như cử hành các hoạt động tôn giáo, nghi lễ Phật Giáo là nơi đại diện cho văn hóa Phật Giáo, đồng thời cũng là cơ sở truyền giáo của Phật Giáo. Phật tự có nguồn gốc từ Ấn Độ, tại Ấn Độ được gọi là Tăng GiàLam, khi truyền đến Trung Quốc được gọi bằng nhiều danh xưng như Phù Đồ, Lan Nhã, Thiền Lâm, Tháp Miếu, Tự, Am, Miếu…

Phật tự là danh xưng được bắt nguồn từ một cơ sở hành chính quan lại nhà nước đời nhà Hán. Năm Vĩnh Bình thứ 10đời nhà Hán, công nguyên năm 67 từ Ấn Độ có hai vị cao Tăng là Trúc Pháp Lan và Nhiếp Ma Đằng đến Trung Quốc. Khi đến hai vị Tăng ở Hồng Lô Tự là cơ quan ngoại giao của nhà Hán, sau đó nhà vua cho xây dựng già lam làm cơ sở cho hai vị Cao Tăng hoằng pháp nhưng vẫn giữ tên cũ là “Tự” để đặt cho cơ sở mới, vì con ngựa trắng có công chở tượng Phật, Kinh điển đến Trung Quốc nên ngôi chùa đầu tiên có tên là Bạch Mã Tự và từ đó cơ sở Phật Giáo được gọi là Tự cho đến ngày nay.

Từ hình chế kiến trúc, bố cục của tự viện thể hiện lên văn hóa Phật Giáo và tư tưởng văn hóa truyền thống Trung Quốc được kết hợp trong nghệ thuật kiến trúc của Phật GiáoTrung Quốc. Bố cục chính của kiến trúc Phật Giáo Ấn Độ là “ Tứ Phương Cung Phật Tháp”, tháp là kiến trúc chính nơi thờ phụng Xá Lợi và di vật của Đức Phật làm trung tâm, bốn bên xây các phòng ốc làm nơi cư trú cho chư Tăng, hầu hết các kiến trúc tự viện Phật Giáo Ấn Độ đều dùng gạch đá làmvật liệu xây dựng chính. Khi kiến trúc phật Giáo được truyền đến Trung Quốc, do sự ảnh hưởng của phương thức xây dựng và các qui phạm của lễ chế, lối kiến trúc Tứ Phương Cung Phật Tháp bị dần dần thay thế bằng lốikiến trúc Lầu Các.

Phật tháp là kiến trúc trung tâm diễn hóa thành, Điện Đường là nơi cung phụng Phật Tổ, kiến trúc gạch đá được thay thế bằng kết cấu gỗ, xuất hiện một lối kiến trúc mới Lan Viện Phật Tự, hình thành một bố cục đa nguyên hóa gồm một tổ hợp: Điện, Tháp, Lầu Các, Viện, Phường. Làm cho Phật Giáo hoàn toàn thích ứng với văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tăng lữ cũng như Phật tự từ nơi quần thể kiến trúc đó cảm nhận được những luân lý, quan niệm và những nhu cầu tâm lý về Phật Giáo.

Nghệ thuật kiến trúc tháp Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ấn Độ gọi Phật tháp là Tốt Đổ Ba, gồm đài tháp, thân tháp bát úp, bảo sàng, tướng luân tạo thành. sự chuyển hóa của Tốt Đổ Ba thành Phật tháp ở Trung Quốc chẳng những là sự biến đổi về hình thức, màlà phản ánh sự tiếp nối của nội dung. Văn hóa Phật Giáo và tư tưởng truyền thống văn hóa Trung Quốc, nghệ thuật kiến trúc đã hòa hợp để biếncải hình chế Phật tháp của Ấn Độ, thành hình chế kiến trúc lâu các thápcủa Trung Quốc, nhiều tầng nhiều mái và kết hợp giữa đình và lâu, hình chế Tốt Đổ Ba được cải thành tháp sát được đặt trên vị trí cao nhất của đỉnh tháp, khiến cho Phật tháp của Trung quốc cụ bị tính chất tôn giáo, và công năng lên cao nhìn rộng tượng trưng cho trí tuệ siêu việt của Phật Giáo.

Chiếu theo vật liệu xây dựng, có thể phân ra được những chủng loại tháp như sau: Tháp Đá, Tháp Gạch, Tháp Gỗ,Tháp Đồng, Tháp Lưu Ly… Từ công dụng của tháp có thể phân ra những loạitháp như sau: Lầu Các Tháp, Mật Diêm Tháp, Kim Cang Tháp, Lạt Ma Tháp, Hoa Tháp, Nhiên Đăng Tháp, Tổ Sư Tháp, Song Tháp, Tam Tháp, Tháp Lâm.v.v… Hình dáng của tháp cũng được phân ra những loại như sau: Tháp 4cạnh, 6 cạnh, 8 cạnh, 12 cạnh, 16 cạnh.v.v… Lối vẽ bích họa và tô màu truyền thống của Trung Quốc cũng được sử dụng rộng rãi cho việc trang trí các công trình kiến trúc của Phật Giáo, thư pháp và nghệ thuật khắc bia của Trung Quốc cũng được Phật Giáo sử dụng nhiều trong các công trình kiến trúc của mình. Có thể nói Phật Giáo đã dung hợp văn hóa của chính mình vào nền văn hóa truyền thống tư tưởng và nghệ thuật kiến trúcTrung Quốc.

Thạch quật, Tự viện là kiến trúc Phật Giáo Ấn Độ, tuy về hình thức kiến trúc cũng như phong cách kiến trúc không giống với kiến trúc tự viện nhưng nghệ thuật và công năng đều không khác với tự viện. Hình chế của thạch quật tự viện là một động vuông, hoặc là một động có 2 phòng, hoặc ở giữa động có 1 trụ tháp, mặt bằng của động được phân bố cân xứng, trong động các tượng Phật được đặt để các vị trí lớn nhỏ, chủ khách phân minh, trên dưới rõ ràng, những thủpháp nghệ thuật này thể hiện những qui phạm về quan niệm luân lý, lễ chế qui phạm của văn hóa truyền thống cổ đại Trung Quốc. Trên các trần nhà Phật động thường trang trí đường viền xung quanh hoa sen chính giữa và các họa tiết phi thiên, rồng, đây là lối không hoàn toàn của nghệ thuật trang trí Ấn Độ.

Trụ tháp giữa động không còn hình dáng bát úp của tháp Ấn Độ mà đã cải thành hình chế nhiều tầng lầu theo kiến trúc truyền thống cung đình Trung Quốc, mỗi tầng tháp đều có điêu khắc giá đỡ, tháp trụ cũng như diềm mái và Phật tượng ngồi ở trong tháp. Có một số thạch quật Phật tự phần ngoài được dùng kết cấu gỗ để thể hiện, một số thạch quật được chạm khắc cổng vòm, hoặc phù điêu hình dáng giốngnhư kiến trúc gỗ, làm cho quần thể thạch động nhìn bên ngoài giống như được dùng gỗ để cấu tạo thành, đây là sự thể hiện rõ nét văn hóa dân tộcTrung Quốc hòa nhập vào nghệ thuật kiến trúc thạch quật Phật tự, đồng thời cũng thể hiện nên những đặc trưng văn hóa và lịch sử hình thành củanghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc.

images-2010-quy3-kt5_526002925

images-2010-quy3-kt6_263490008

images-2010-quy3-kt8_150884354

images-2010-quy3-kt9_337889324

images-2010-quy3-kt10_736764253

images-2010-quy3-kt11_734031214

images-2010-quy3-kt12_957484514

images-2010-quy3-kt14_239651775

images-2010-quy3-kt15_942334955

Chùa Bạch Mã-Lạc Dương

images-2010-quy3-kt18_427061560

Tháp Chùa Kim Sơn- Trấn Giang

images-2010-quy3-kt19a_328233833

images-2010-quy3-kt20_581912772

images-2010-quy3-kt21_539605257

images-2010-quy3-kt22_228124877

Tháp Chùa Hàn Sơn-Tô Châu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2013(Xem: 3961)
Video: Mô hình kiến trúc Chùa cổ Việt Nam
27/07/2013(Xem: 5658)
Video: Mô hình kiến trúc Chùa Một Cột
27/07/2013(Xem: 3700)
Video: Mô hình kiến trúc Chùa Tây Phương
20/06/2013(Xem: 8756)
Phật giáo bắt rễ đến đâu là thâm nhập ngay vào mọi sinh hoạt của quần chúng nhân dân. Phật giáo Việt Nam là một tiêu biểu rõ nét: trong suốt hai ngàn năm gắn bó với đất nước và dân tộc, những ngôi chùa là những chứng tích lịch sử, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật, in dấu những sinh hoạt của người Việt Nam qua các thời đại.
11/04/2013(Xem: 3821)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
10/04/2013(Xem: 19083)
Cũng như triều đại nhà Ðinh (968-980) trước đó, triều đại Lê Ðại-Hành (980-1005) (1) là một triều đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước của nước ta, nhưng sự nghiệp ấy quá ngắn ngủi vì sự phá nát của vua Lê Long-Ðĩnh (1005-1009) (2), cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay. Phú cường và an cư lạc nghiệp là những nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc, và đó đã là động cơ thúc đẩy Lí Công-Uẩn (3) lên nắm chính quyền (1010-1028) để phục hưng quốc gia, bảo vệ tinh thần đạo đức của dân tộc.
10/04/2013(Xem: 5637)
Ngày xưa, một nhà nho tên là Lê Quát, học trò của Chu Văn An, đã từng thắc mắc về đạo Phật rằng: “Đạo Phật chỉ đem điều họa phúc mà lay động lòng người, sao mà sâu xa bền chắc đến như vậy. Trong từ kinh thành, ngoài đến thôn phủ, đường cùng ngõ hẻm, không hiểu mà theo, không thề mà tin, hễ nơi nào có người ở là nơi ấy có chùa Phật. Bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại”. Nếu hiểu đúng thì không phải chỉ có hai chữ họa phúc mà động lòng người được. Kinh nói họa phúc là cốt nói hành động thiện ác, bởi vì hành động thiện gây ra phúc, hành động ác gây ra họa.
10/04/2013(Xem: 12784)
Chùa Từ Đàm được khai sáng vào khoảng năm 1690, tức vào cuối thế kỷ thứ XVII, đến nay đã trên 300 năm vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ngài Minh Hoằng -Tử Dung – một vị thiền sư Trung Hoa sang Thuận Hóa thời bấy giờ sáng lập chùa này. Đầu tiên, ngài đặt tên là Ấn Tông Tự – ấn tông nghĩa là “dĩ tâm ấn vi tông”, tức lấy sự truyền tâm làm tông chỉ. Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc Tứ Ấn Tông Tự. Đến thời Thiệu Trị, vua đặt thêm một tên khác là “Từ Đàm Tự”. Từ đàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho đức Phật, cho hình ảnh ngôi chùa Việt Nam như đám mây lành che mát cho chúng sanh.
09/04/2013(Xem: 16971)
Borobudur là một bảo tháp hùng vĩ và lớn nhất của PG thế giới và được xem là một trong 70 kỳ quan của thế giới được Tổ chức Unesco ghi nhận là một Thánh tích quan trọng và đã tài trợ để trùng tu vào năm 1973.
02/10/2010(Xem: 3431)
Trong đó nghệ thuật kiến trúc và tư tưởng truyền thống văn hóa Trung Quốc, đặc biệt triết học cổ đại Trung Quốc, điêu khắc, thư pháp và các loại tạo hình nghệ thuật khác được hổ tương thẩm thấu hòa hợp thành một di sản nghệ thuật Phật Giáo cụ bị văn hóa truyền thống Trung Quốc có ý nghĩa thẩm mỹ và nghệ thuật cao siêu. Hình tượng nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo thể hiện nội hàm văn hóa và lịch sử phát triển của Phật Giáo Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567