Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài đặc điểm độc đáo về Phật Giáo Việt Nam triều đại nhà Lý trong lớp Giáo Lý online lần 2 được TT Thích Nguyên Tạng giảng dạy từ 4/3/2021 đến30/11/2021.

09/12/202118:07(Xem: 17578)
Vài đặc điểm độc đáo về Phật Giáo Việt Nam triều đại nhà Lý trong lớp Giáo Lý online lần 2 được TT Thích Nguyên Tạng giảng dạy từ 4/3/2021 đến30/11/2021.


266_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Thao Duong
Vài đặc điểm độc đáo về Phật Giáo Việt Nam triều đại nhà Lý trong lớp Giáo Lý online lần 2 được TT Thích Nguyên Tạng giảng dạy từ 4/3/2021 đến30/11/2021. 


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật .

Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney, khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi, tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì, vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . " What it comes to that COVID really delivers.

Thế nhưng, đạo tràng ĐGĐQĐ lại khác........,qua nhiều lần phong tỏa chúng tôi có quyền hy vọng rằng TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ tiếp tục lớp giáo lý online lần 3 sẽ đi tiếp hết các thiền Sư VN thuộc Tổ Sư Thiền (Đốn, Ngộ ) tiếp theo sau Vua Trần Thái Tông ....

Được tin Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng sẽ phát chứng chỉ mãn khoá Giáo Lý online năm thứ hai tại Tu Viện Quảng Đức vào trưa thứ bảy ngày 18/12/2021 lúc 14:00 pm do sự phối hợp một cách khéo léo trong khoá tu Phật Thất 3 ngày vào dịp cuối năm, và cũng là ngày tưởng niệm Viá Phật A Di Đà mà trước đó đại chúng đã được nghe bài pháp thoại do TT Thích Viên Tịnh thuyết giảng .

Tôi luôn có một ước nguyện rằng sẽ có một ngày .....mình sẽ tổng kết lại những gì mình đã học hỏi suốt khóa học này qua 105 bài pháp thoại ( bắt đầu từ Thiền Sư Nam Viên Huệ Ngung (860-952) vị Đệ Tam Tổ Thiền phái Lâm Tế cho đến bài pháp thoại thứ 316 về thi kệ Bốn Núi của Vua, Thiền Sư Trần Thái Tông vào ngày 30/11/2021 ......nhưng có lẽ ưu tiên nhất là nói đến sự phát triển của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và thiền phái Thảo Đường đã đạt đến độ hưng thịnh phát triển cao nhất tại VN và được xem là quốc giáo để rồi tiếp tục cho một thời đại Nhà Trần.

Hẳn ai đã từng nghe pháp thoại với Ngài đều công nhận Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng với kinh nghiệm hoằng pháp và chuyên nghiên cứu sâu về lịch sử Phật Giáo Thế giới đã mang tâm huyết mình truyền trao lại cho hội chúng trong lớp giáo lý lần 2 này rất tuyệt vời và quảng bác !

Kính xin Giảng Sư và các đạo hữu trong đạo tràng ĐGĐQĐ cho phép con được mạo muội ghi nhận lại theo thứ tự các bài pháp thoại đã được Giảng Sư bắt đầu trở lại lớp Giáo Lý online lần 2 từ 6/3/2021 đến 30/11/2021 qua những kệ thị tịch của quý Thiền Sư đã triệt ngộ và đã được ghi lại hành trạng trong tác phẩm thiền học và đặc biệt là Thiền Sư Việt Nam của Đại Trưởng Lão HT Thích Thanh Từ .

Hẵn các bạn nghe pháp đều nhớ : bài pháp thoại bắt đầu của khóa Giáo Lý online lần 2 là bài pháp thoại 211 về Thiền Sư Huệ Ngung (860-952) cho đến bài pháp thoại thứ 236 về Thiền Sư Mộc Trần Đạo Mân (1596-1674) Tổ thứ 68 (tính từ Sơ Tổ Ca Diếp), Đời thứ 35 sau Lục Tổ Huệ Năng và cũng là Tổ thứ 31 của Thiền Phái Lâm Tế. ) mà cuối bài thường là Thơ tán thán công hạnh do HT Hư Vân đã tóm tắt lại công hạnh quý Ngài theo thể thơ Đường và được HT Minh Cảnh Việt dịch

Nhưng bắt đầu từ bài pháp thoại 245 về Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi chúng tôi cũng được Thầy Thích Chúc Hiền cúng dường đến mỗi Thiền Sư được giảng hôm đó một bài thơ đường tóm tắt hành trạng của mỗi vị phỏng theo sách Thiền Sư VN ( đã nói ở trên ) được Giảng Sư Nguyên Tạng ngâm vào lúc kết thúc bài giảng. Sau này Thầy Chúc Hiền mới bắt đầu soạn lại từ Ngài Khương Tăng Hội trở về sau ( dường như tổng cộng 100 bài )

Trước khi tóm tắt vài chi tiết đặc biệt thời nhà Lý . ....Kính mời xem lại bài kệ thị tịch của TS Nam Viện Huệ Ngung:

Như bên vực thẳm lướt trên băng

Nhiếp hạnh kiệm lời rõ thánh tăng

Việc ác không theo thường khắc kỷ

Điều lành vâng giữ chẳng ai bằng

Công viên quả mãn nên cơ nghiệp

Phước đủ huệ đầy vượt khó khăn

Thị tịch vô sanh luôn tự tại

Tông phong Nam Viện mãi truyền đăng.

Ta sẽ nhớ lại Ngài khi thượng đường dạy chúng: " Trên cục thịt đỏ vách đứng ngàn nhận. Và đặc biết nhận tương đương 8m (đơn vị đo lường).

Và bài pháp thoại 236 nói về Thiền Sư Mộc Trần Đạo Nhân

Lĩnh Nam thường hiện bậc thâm uyên

Hoằng Giác đại sư đợi đủ duyên

Nối Pháp Tây Thiên truyền ấn tín

Tiếp dòng Đông Chấn hóa Trung Nguyên

Nghìn sông, trăng chiếu lìa điềm báo

Vạn dặm, mây trôi vẫn lặng yên

Tám đạt, bảy thông luôn tự tại

Hàng Tô dạo đến Triệu cùng Yên.

Ta sẽ nhớ đến sự triệt ngộ của Ngài Mộc Trần Đạo Nhân qua Công án "Ương Quật Sản Nạn “ và chính Ngài đã tiêu biểu cho Lòng Từ và là nhân vật Phật Giáo rất quan trọng trong lịch sử truyền thừa phái Lâm Tế vào VN thời Trịnh Nguyễn phân tranh ( đàng trong) với bài kệ truyền pháp phái đã đi vào nước Việt .

Và đương thời, Thiền sư Đạo Mân có bài kệ truyền pháp và hình thành nên pháp phái Thiên Đồng thuộc dòng thiền Lâm Tế như sau :

Bài kệ pháp phái Thiên Đồng
Đạo bổn nguyên thành Phật Tổ tiên
Minh như hồng nhật lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chân đăng vạn cô huyền.

Chi phái này sau đó truyền đến ngài Nguyên Thiều và ngài đã đến Việt Nam truyền bá thiền khắp miền Nam.

Trong khuôn khổ bài viết này có lẽ chúng ta đang nôn nóng muốn biết tại sao Tông Lâm Tế lại có mặt tại VN và do Thiền Sư nào truyền vào ?

Chúng tôi đã học hành trạng Ngài Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung và được biết tên tuổi Ngài đã gắn liền với linh hồn Phật Giáo Việt Nam...Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, Tổ thứ 34 của Thiền Phái Lâm Tế đến Việt Nam truyền giáo vào cuối thế kỷ 17.

Theo nhiều nguồn tài liệu, Thiền sư Tử Dung đến VN vào năm Ất Dậu, ngày 28 tháng giêng, năm 1695, do lời mời của TS Nguyên Thiều, Ngài đến Hội An cùng với phái đoàn thập sư truyền giới bao gồm: TS Thạch Liêm, TS Minh Hải-Pháp Bảo, TS Minh Vật-Nhất Tri, TS Minh Lượng-Thành Đẳng v.v… chứng minh giới đàn truyền giới ở Huế, có 1400 giới từ tại gia và xuất gia, sa di, tỳ kheo, Bồ Tát, có công hầu khanh tướng, và Chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền một giới đàn riêng, có pháp danh là Hưng Long. Sau giới đàn này, Ngài Tử Dung không về Trung Hoa mà ở lại nước An Nam để hoằng Pháp. Lúc đầu Ngài Tử Dung lập am tu bằng tre lá trên núi Hoàng Long ở Thuận Hóa. Sau đó, am tu được biến cải thành chùa và có tên là chùa Ấn Tông với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ".

(Chùa Ấn Tông còn gọi Chùa Từ Đàm ngày nay) mời nghe bài ca "Từ Đàm Quê hương tôi" qua giọng hát ngọt ngào của Quang Lê.

Theo tài liệu của một Sử gia Nguyễn Hiền Đức trong sách “Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong” (ấn hành năm 1995) mới biết ngài Minh Hoằng Tử Dung là đệ tử của đại sư Đại Sa Siêu Trường, ngài Siêu Trường là đệ tử Ngài Tuyết Giậu Chơn Phát, ngài Chơn Phát là đệ tử của Tổ Mộc Trần Đạo Mân, Tổ Lâm Tế đời 31, qua bài kệ truyền pháp của Tổ 12 Vạn Phong Thời Ủy:

Tổ Đạo Giới Định Tông,
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hạnh Siêu Minh Thật Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.


Dịch nghĩa:

Giới định là tông chỉ,
Rộng khắp chứng thần thông
Hạnh vượt sang bờ Thật,
Tỏ ngộ đến chơn không.

Ngài Minh Hoằng Tử Dung là đệ tử thứ 13 và đệ tử của Ngài ở Việt Nam là Thiệt Diệu Liễu Quán, đời thứ 14, theo bài kệ truyền nói trên .

Và Ta đã được gặp Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán với bài kệ truyền thừa

“Thiệt tế đại đạo

Tánh hải thanh trừng

Tâm nguyên quảng nhuận

Đức bổn từ phong

Giới định phước huệ

Thể dụng viên thông

Vĩnh siêu trí quả

Mật khế thành công

Truyền trì diệu lý

Diễn xướng chánh tông

Hạnh giải tương ưng

Đạt ngộ chân không”.

Thật tuyệt vời mỗi câu truyền thừa là một pháp tu !

Thiệt Diệu, thật Diệu là sự thật nhiệm màu là Phật tánh chân như, là định hướng tu tập của đệ tử.

Thiệt tế đại đạo là con đường lớn giúp cho đệ tử dẫn đến địa hạt, phạm vi của “thật tại hiện tiền”, đó là chơn tâm, là Phật tánh.
Tánh Hải thanh trừng là tâm lắng yên, trí tuệ phát sanh để vào biển tánh thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na.

Tâm Nguyên quảng nhuận, là nguồn tâm tuệ giác thấm nhuận khắp nơi.

Đức Bổn Từ Phong, là gốc đức của mình phải vun bồi để làm nền tảng vững chắc. Đức là âm bên trong. Phước là thấy bên ngoài. Phước và Đức phải lưỡng toàn mới bước vào Phật địa.

Thể dụng viên thông, thể là bên trong, dụng là bên ngoài, phải viên thông.
Vĩnh siêu trí quả, là người đạt đến quả vị thánh trí sẽ siêu thoát vĩnh viễn vượt qua cõi giới luân hồi, không còn trở lại.
Mật khế thành công, lặng lẽ nhưng khế hợp mới thành công.

Truyền trì diệu lý, xiểng dương chánh tông, đệ tử của thiền phái này sau khi liễu ngộ rồi phải biết gìn giữ lý mầu để truyền trao cho thế hệ kế tiếp, đó là trách nhiệm, bổn phận “nối đèn tiếp lửa” để mang ánh sáng Chánh pháp giúp cho mọi người đạt đến chơn không diệu hữu, điều mà Tổ Liễu Quán mong muốn.

Kệ thị tịch

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới,

Không không, sắc sắc đã dung thông,

Hôm nay nguyện mãn về chốn cũ,

Nào phải ân cần hỏi tổ tông?

Và từ đó dòng Lâm Tế đến nay đã truyền thùa đến đời 45 .

Hoặc một Minh Hải Pháp Bảo, Nguyên Thiều Siêu Bạch .....

Được biết :

Sau khi khai sơn Chùa Chúc Thánh, ngài Minh Hải bắt đầu thuyết pháp giảng kinh, tiếp tăng độ chúng. Ngài đã để lại cho đời bài kệ truyền pháp như sau:


Minh Thiệt Pháp Toàn Chương

Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường
Đắc Chánh Luật Vi Tông
Tổ Đạo Giải Hạnh Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung.


Bài kệ phó pháp của Ngài đúc kết đời tu để lại cho thế gian:

Nguyên phù pháp giới không
Chơn như vô tánh tướng
Nhược liễu ngộ như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng

Dịch nghĩa

Pháp giới như mây nổi
Chơn như không tánh tướng
Nếu hiểu được như vậy
Chúng sanh với Phật đồng.

Riêng Thiền Sư Nguyên Thiều Siêu Bạch

Vào năm 1677 (Đinh Tỵ), vào thời Chúa Nguyễn Phúc Tần, Sư theo tàu buôn sang Việt Nam để hoằng Pháp. Ban đầu Ngài cư trú tai phủ Quy Ninh (Bình Định bây giờ), lập chùa Thập Tháp Di Đà trên đồi Long Bích phía bắc thành Đồ bàn thuộc địa phận làng Thuận Chánh huyện Tuy Viễn, Bình Định nơi thành Đồ Bàn có 10 tháp cổ của người Chàm, khi Ngài Nguyên Thiều đến thấy thập tháp bị sụp đổ, Ngài gọi dân làng gom 10 tháp lại và xây thành một chùa và từ đó có tên là chùa Thập Tháp Di Đà.

Ngài viên tịch tại chùa Kim Cang vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (20.11.1728) thọ thế 81 tuổi. Trước khi tịch Ngài cho tập chúng, dặn dò mọi chuyện và truyền lại bài kệ sau :

“Tịch tịch cảnh vô ảnh

Minh minh châu bất dung

Đường đường vật phi vật

Liêu liêu không vật không”

Sư ông Nhất Hạnh dịch:

Lặng lẽ gương không chiếu bóng

Sáng trưng ngọc chẳng thâu hình

Rõ ràng vật không phải vật

Mênh mông không chẳng là không.

Để rồi chúng ta lại tự hỏi vì sao Thiền Tông VN lại có rất sớm từ thế kỷ thứ 3 do Ngài Khương Tăng Hội mang sang Trung Quốc ? Và vì sao có Thiền phái Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi có nhiều truyền thừa nhưng rồi cuối cùng vẫn sát nhập cùng Thiền phái Thảo Đường....để trở thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mà Vua Trần Thái Tông là người xây dựng nền móng này .

Mời xem lời khai thị của Sơ Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi

"Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. (Lời khai thị của Tổ Sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi ")

Riêng Tư tưởng thiền của Đại sư Khương Tăng Hội âm thầm lan tỏa vào từng ngóc ngách của Phật giáo Việt Nam suốt gần 20 thế kỷ nay, vì Ngài là người có công dịch Kinh An Ban Thủ Ý (Thiền quán niệm hơi thở do Đức Thế Tôn giảng dạy).và ta sẽ tự nhủ thầm NHIỀU NGƯỜI ĐỌC TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA NHƯNG CÓ MẤY AI BIẾT ĐƯỢC THỜI ẤY NƯỚC TA ( GIAO CHỈ) đã CÓ SƠ TỔ THIỀN SƯ VN đã áp dụng Lục Diệu pháp môn chính là : SỔ, TUỲ , CHỈ , QUÁN, HOÀN, TỊNH vào thiền tông rồi.

Bây giờ mời các bạn cùng trở lại triều đại nhà Lý nhé….với các bài pháp thoại tuyệt vời của Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng nhưng trước nhất mời xem thêm từ bên ngoài :

Các nhà luận giải đã từng cho rằng ( trích đoạn : Phật giáo nhà Lý - Tác giả Trúc Phương trên trang mạng vansudia.net )

Hệ thống tổ chức tăng quan phát triển cả về số lượng và quyền lực chánh trị Tăng sĩ thường được trọng dụng nhờ đạo cao, học vấn uyên bác và vị Thiền Sư được làm Thày dạy của vua nên được phong hiệu Quốc Sư như Thiền Sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ .

....

Phật giáo VN thời nhà Lý đã tạo nền tảng cơ bản về giáo lý, văn hoá đi sau vào đời sống nhân dân và có ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau của Phật Giáo Nhà Trần, đặc biệt sự ra đời của Trúc Lâm Yên Tử )

Và HT Thích Thiện Hoa đã từng dạy rằng:

"Nếu ở Trung-hoa, đời Đường là đời Phật giảo được thịnh hành nhất, thì ở Việt-nam, đời Lý là đời Phật giáo được thạnh hành nhất." (Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, khoá V, trang 51).

Theo lịch sử các triều đại nhà Lý :

1* Lý Thái Tổ (1010 - 1028)

2* Lý Thái Tông (1028 - 1054)

3* Lý Thánh Tông (1054 - 1072)

4* Lý Nhân Tông (1072 - 1127)

5*Lý Thần Tông (1128 - 1138)

6* Lý Anh Tông (1138 - 1175)

7* Lý Cao Tông (1176 - 1210)

8* Lý Huệ Tông (1211 - 1224)

9- Lý Chiêu Hoàng (1224-1225)

Kính xin đơn cử 5 vị vua đầu tiên của triều đại Lý mà qua đó các Thiền Sư đã làm hưng thịnh quốc gia Đại Việt .

1. Lý Thái Tổ (l010 - l088)

Ngài tên húy là Công Uẩn, con nuôi một vị sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn, sau thọ giáo với ngài Vạn Hạnh. Lớn lên ngài theo ngài Vạn Hạnh vào Hoa Lư làm quan với nhà Lê đến chức Tả Thân Vệ Điện Tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất thì ngài đã 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền - Lê lắm, nên ở trong triều có bọn ông Đào Cam Nuộc, cùng với Tăng Thống Vạn Hạnh mưu tôn ngài lên làm vua. Ngài lên ngôi Hoàng Đế tức là vua Thái Tổ , nhà Lý, đóng đô ở thành Thăng Long (Hà Nội), lấy niên hiệu Thuận Thiên.

Thái Tổ vốn ở trong phái Phật học mà ra nên khi ở ngôi vua, ngài hết sức sùng trọng Phật giáo. Ngay khi mới lên ngôi đã sắc ban phẩm phục cho các hàng Tăng sĩ

Về đời Lý Thái Tổ, trong nước đã cường thịnh, các nước ngoài như Chiêm Thành, Chân Lạp đều chịu triều cống, bên Trung Hoa nhà Tống cũng giao hiếu không sanh sự, dân tình được an lạc, vua và triều đình lại hết tâm ủng hộ, nên Phật giáo ở nước ta hồi ấy có thể gọi là hồi thạnh nhất từ trước đến sau. Bấy giờ Hán học tuy đã phổ thông khắp dân chúng, nhưng Nho giáo hình như chỉ là phần phụ ít ai để ý đến, vì chưa có khoa cử, nên Phật giáo vẫn đứng địa vị độc tôn. Bởi thế, văn hóa và học thuật trong nước vẫn là ở trong phái Phật học cả.

Những vị Thiền sư có danh tiếng thời bấy giờ như Vạn Hạnh Thiền sư, Đa Bảo Thiền sư, Sùng Phạm Thiền sư đều ở hai phái Tì Ni và Vô Ngôn mà ra cả.

2. Lý Thái Tông, (l028 - l054).

Thái tử Phật Mã nối ngôi Thái Tổ, tức là Lý Thái Tôn, lấy niên hiệu Thiên Thành. Ngài cũng là người sùng đạo Phật, thường thường họp các bô lão, Tăng sĩ ở các chùa để bàn luận về đạo Phật.

Những Thiền sư có danh tiếng hồi ấy như Huệ Sinh Thiền sư, Định Hương Trưởng lão Thiền sư (phái Tì Ni), Cứu Chỉ Thiền sư v.v . . .

3. Lý Thánh Tông (l054 - l072)

Thái tử Nhật Tôn nối ngôi Thái Tôn hiệu là Thánh Tôn, đổi quốc hiệu là Đại Việt[2] niên hiệu là Long Thụy Thái Bình (l054). Ngài là một ông vua sùng đạo Phật và nhân từ nhất. Những mùa lạnh ở trong cung, ngài thường nghĩ thương đến tù phạm và những kẻ nghèo. Một năm, trời rét lắm, Thánh Tôn bảo những quan hầu cận rằng :

"Trẫm ở trong cung ăn mặc như thế này mà còn rét, nghĩ những tù phạm phải giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc, vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, lỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm "

Năm Kỷ Dậu (l069), vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và nhiều dân lính làm tù binh. Các tù binh ấy vua Thánh Tôn ban cho các quan triều làm quân hầu Trong số các quan triều ấy có một vị Tăng Lục.

Khi biết rõ tung tích của Thảo Đường Thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong ngài chức Quốc sư, cho khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Đệ tử đến theo học rất đông. Ngài biệt lập ra một phái, sau người ta gọi là phái Thảo Đường, tức là phái Thiền thứ 3 ở ta vậy.

Lý Thánh Tôn cũng thọ giáo với Ngài . Sau Vua Thánh Tông đắc đạo được Ngài truyền tâm pháp và là đệ tử đầu tiên của phái Thảo Đường. Sau phái Thảo Đường truyền xuống được 5 đời, đắc đạo cộng được 19 người.

Thế là trong đời vua Lý Thánh Tôn, Phật giáo ở nước ta lại thêm một thiền phái nữa

4. Lý Nhân Tông (1072 - 1127)

Thái tử Càng Đức con bà Ỷ Lan Thái Phi, nối ngôi Thánh Tôn lấy đế hiệu là Lý Nhân Tôn. Nhân Tôn lên ngôi vua thì hãy còn nhỏ tuổi, nhưng được Thái sư Lý Đạo Thành và các quan triều hết lòng lo việc nước, nên sau ngài cũng thành một vị vua thông minh và anh dũng. Trong đời này vua Nhân Tôn có mở khoa thi tam trường, lập trường Quốc tử giám và lập tòa Hàn Lâm, khuyến khích việc Nho học, nhưng ngài vẫn không xao nhãng về vấn đề Phật giáo

5- Lý Thần Tông (chữ Hán: 李神宗 1116 – 1138) là vị hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Lý nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1128đến khi qua đời năm 1138, tổng cộng là 10 năm.

Thay lời kết:

Kính xin mượn vài dòng hành trạng của Quốc Sư Viên Thông (1080 - 1151) Đời 18 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

(Thời Vua Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông & Lý Anh Tông)

- "Việc trị loạn còn ở các quan, được lòng người thì trị an, mất lòng người thì loạn lạc. Tôi trải xem các đế vương đời trước, chưa từng chẳng do dùng quân tử mà được hưng thạnh, vì dùng tiểu nhân mà bị nguy vong. Xét lý do như thế, không phải tại ngay một sớm một chiều, mà nguyên do của nó phát từ từ đã lâu lắm vậy."

Và Thiền Sư Thường Chiếu (? - 1203) Đời 12, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Cao Tông)với bài kệ về chữ Tâm về chữ Phật, về bản lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn, với đầy đủ yếu nghĩa của nó :

(Tại thế vi nhân thân,

Tâm vi Như Lai tạng,

Chiếu diệu thả vô phương,

Tầm chi cánh tài khoáng.)

HT Thích Thanh Từ dịch

Ở đời làm thân người,

Nơi tâm Như Lai tạng.

Chiếu soi cùng khắp nơi,

Tìm đó lại càng rỗng.

Sư thường bảo:

- Tánh của tâm chính là tánh của Như Lai tạng tâm. Thế nên Tự tánh tâm thanh tịnh vậy.

Và ta đã học rằng Bản lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn : Đó là tự tánh thanh tịnh của chúng sanh. Nghĩa là mặc dầu bị vô minh phiền não mà tự tánh vẫn hằng thanh tịnh rỗng rang như hư không, xa lìa các tướng phân biệt, bặt đường nói năng, suy nghĩ, cái tánh ấy xưa nay vẫn một màu vắng lặng. Đây là Niết Bàn của hàng phàm phu vậy.

Kính đa tạ Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ cho hàng Phật Tử chúng con thấy ra được chủ đích của Thiền Tông VN . Đó là phải thấy Đạo qua mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện mà quên Đạo.

Chính vì thế, nên nói “chỉ thẳng tâm người, thấy Tánh thành Phật”. Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu, chính là Tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra Tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật.

Tâm chân thật này cũng gọi là Tánh giác hay Phật tánh.

Thấy được Tánh giác thì thành Phật không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả.

GChỉ cho người nhận được Bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông.

Kính nguyện cầu cho Giảng Sư luôn được dồi dào sức khỏe và Phật sự hoằng pháp luôn viên thành để chúng con hàng Phật tử có thể được nghe lớp giáo lý online lần thứ ba vào năm 2022 theo lịch trình đã lên dù đại dịch sẽ sớm đi vào ổn định .

Kính trân trọng.

Huệ Hương 

Melbourne 10/12/2021 





Trở về Mục Lục
Lễ Mãn Khóa Năm Thứ Hai

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6933)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17736)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5215)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6167)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5076)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4093)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5341)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3884)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3007)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567