Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Các Thuật Ngữ Văn Chương và Một Số Kinh Nghiệm Viết Văn

28/11/201819:40(Xem: 7356)
Các Thuật Ngữ Văn Chương và Một Số Kinh Nghiệm Viết Văn

Các Thuật Ngữ Văn Chương

và Một Số Kinh Nghiệm Viết Văn

 
I - CÁC THUẬT NGỮ VĂN CHƯƠNG (*)
Am tường những thuật ngữ của văn chương tức là hiểu được những yếu tính của văn chương để rồi từ đó ứng dụng vào tác phẩm của mình hầu làm cho tác phẩm trở nên hay- đẹp, đúng ý mong muốn.
Chúng ta phải công nhận rằng về bộ môn này, Tây Phương đã phát triển lên tới đỉnh cao cho nên không có điều chi xấu hổ nếu chúng ta phải học hỏi nơi họ. Có thể những tác phẩm hay của tổ tiên chúng ta cũng đạt tới đỉnh cao này nhưng vì tổ tiên chúng ta không chịu phân tích, không hệ thống hóa mà chỉ ngầm hiểu hoặc hiểu theo linh tính cho nên con cháu đời sau muốn tìm hiểu những thành tố của văn chương không biết nương tựa vào đâu. Trong khi đó, vì chuộng tinh thần khoa học cho nên Tây Phương đã phân tích và liệt kê ra. Sau đây là một số những thuật ngữ văn chương - giống như những dụng cụ quý báu trợ lực cho người làm thơ, viết văn:
 
Alliteration: Lập lại phụ âm đầu.
Thí dụ: Đó là anh chàng ngờ nghệchngốc nghếch.
             Cô ta vừa dịu dàng vừa duyên dáng.
AllusionNói bóng nói gió, ám chỉ.
Chẳng hạn người con trai muốn cưới người con gái khâu giúp mình cái áo trong bài ca dao “Tát Nước Đầu Đình” nhưng lại nói bóng nói gió như sau:
Mai mốt lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp  em một thúng xôi vò.
Một con lợn béo một vò rượu tăm.
Giúp em đôi chiếu em nằm.”
Anecdote: Giai thoại
Là một đoạn văn ngắn được chen vào để mua vui hoặc phong phú hóa câu chuyện.
Aphorism: Cách ngôn
Là câu nói dường như có giá trị muôn đòi. Thí dụ: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Ăn mặn khát nước v.v..
Characterization: Xây dựng nhân vật (sao cho độc đáo)
Climax: Cực điểm của câu truyện, là chỗ phăng ra manh mối và từ đó căng thẳng giảm dần và câu truyện đi vào kết thúc.
Conflict: Xung đột, mâu thuẫn (để đẩy truyện đi tới)
Connotation/denotation: Nghĩa rộng, sự bao hàm
Description: Sự mô tả, miêu tả
Đó là cách mà người viết văn vẽ nên một hình ảnh, một khủng cảnh, một con người, một biến cố, một tình huống qua việc chọn chữ, nhất là các tính từ (adjectives) phải hết sức cẩn thận. Mọi sự cường điệu, làm dáng, buông thả sẽ làm hư tác phẩm.
Dramatic irony: Tình huống trớ trêu. Một thí dụ của tình hưống trớ trêu là khi Romeo tưởng Juliet đã chết cho nên lấy dao tự sát trong khi khán giả hay người đọc biết chắc rằng Juliet vẫn còn sống.
Event: Diễn biến của câu truyện.
Exposition: Sự phơi bày
Là đoạn văn quan trọng trong bố cục để giới thiệu bối cảnh, nhân vật cốt lõi của câu chuyện. Thí dụ, tác giả có thể mở đầu câu chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” như sau, “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh là cuộc tranh giành Công Chúa Mỵ Nương con Hùng Vương, kéo dài đã hơn 5000 năm nay.”
Falling action: Xung đột / căng thẳng giảm dần (sau cực điểm của câu truyện).
Figurative language: Dùng ngôn ngữ bóng bẩy.
Thiếu ngôn ngữ bóng bẩy thì không phải là tác phẩm văn chương. Sau đây là một đoạn văn sử dụng ngôn ngữ vừa hiện thực vừa bóng bẩy của Margaret Mitchell khi  mô tả Scarlett trong tác phẩm “Cuốn Theo Chiều Gió” ( Gone With The Wind)
 “Vào buổi chiều rực nắng của Tháng Tư năm 1861, tại đồn điền của cha nàng, Scarlett nổi bật như một bức tranh tuyệt đẹp khi nàng ngồi ở dưới hàng lan can dâm mát cùng với Stuart Tarleton và Brent Tarleton. Chiếc váy màu xanh trang điểm hoa hồi trải dài mười một bộ trên chiếc giá đỡ thật hợp với đôi dép da dê mà cha nàng mới mua cho nàng ở Atlanta. Chiếc váy làm tăng thêm vẻ tuyệt mỹ của chiếc eo thon nhỏ và bộ ngực nảy nở của lứa tuổi mười sáu được nâng bởi chiếc nịt bó sát lấy thân hìnhCho dù dưới chiếc váy trải dài nề nếp, mái tóc được búi trong lưới, đôi bàn tay trắng nhỏ để yên trên lòng, nàng vẫn không thể nào giấu được con người thực của nàng. Trên khuôn mặt khả ái, đôi mắt ấy thật hiếu động, phá phách và tràn đầy nhựa sống, hoàn toàn khác hẳn với vóc dáng đoan trang, thùy mị của nàng. Phong thái đó là do mẹ nàng đặt để lên nàng bằng những lời khuyên răn nhẹ nhàng và bằng kỷ luật khắt khe của bà vú – nhưng còn đôi mắt thì kia thì là cái gì riêng tư của nàng.” (Bản dịch của tác giả)
Flashback: Hồi tưởng, hồi ức
Thí dụ, nhà văn có thể đang đi trên con đường ngày hôm nay nhưng nhớ lại những kỷ niệm đã có trên con đường này thuở ấu thơ.
Foil: Nhân vật tương phản, phản diện, cũng còn gọi là antagonist
Foreshadowing: Báo hiệu, báo trước, điềm báo trước (để dẫn dắt độc giả)
Chẳng hạn đôi tình nhân đang đứng tâm sự bên cầu, người con gái khẽ thở dài, vân vê tà áo nói, “ Em không biết cuộc tình chúng mình rồi đây sẽ ra sao! ” Câu văn này chính là điềm báo trước cho một cơn dông bão sẽ xảy đến. Nhưng nếu sau này chẳng có biến cố gì xảy ra cả thì đoạn văn trên là một đoạn văn thừa. Chẳng hạn đoạn Kiều nghe Vương Quan kể chuyện Đạm Tiên “ Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa “ rồi sau đó nàng thắp hương khấn vái, rút trâm trên đầu, vạch da cây mà “Vịnh bốn câu ba vần “ rồi “Lại càng mê mẩn tâm thần” chính là điềm báo trước cuộc đời cô sau này cũng sẽ “đoạn trường” như Đạm Tiên.
Hyperbole: Ngoa ngôn, cường điệu (để nhấn mạnh và gây ấn tượng)
Thí dụ: Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.
            Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn.
             Ngửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa (Nguyễn Gia Thiều)
            Thân hình bà ấy to như cái bồ sứt cạp.
             Lưng bà ấy rộng như cái cánh phản cho nên
 thiên hạ gọi bà ấy là Bà Phán Cảnh.
Imagery: Giàu hình ảnh/ tượng hình. Một tác phẩm giàu hình ảnh sau này quay thành phim sẽ hấp dẫn khán giả.
Inference: Để người đọc có thể suy luận, suy diễn ra
Inversion: Sự đảo ngược thứ tự của chữ trong một câu để tạo nên chất thơ:
Thí dụ: Hai câu sau đây nếu để nguyên thì không giầu chất thơ:
Em đến chơi chiều thu
Lá vàng rơi lác đác
Nhưng nếu đảo ngược thì lại có nhiều chất thơ:
Chiều thu em đến chơi
Lác đác lá vàng rơi
Và ta có thể thêm hai câu nữa để kết thúc bài  thơ này:
Mắt em chìm trong mộng
Tình anh đã chín rồi.
Irony:  Mỉa mai, cay đắng.
Main character: Nhân vật chính là nhân vật được nhắc nhở nhiều nhất và sẽ xuất hiện từ đầu tới cuối, qua đó nhà văn xây dựng đề tài của mình. Mọi diễn tiến, mọi tình huống phải xoay quanh nhân vật chính. Tôi đã đọc một “truyện ngắn” đăng trên một nhật báo lớn nhất ở San Jose năm 1995 với đoạn nhập đề như sau: “Hôm đó Nga tình tờ gặp Trí. Trí có người chị tên Bích và Bích có người anh rể tên Hoàng .” Ngay phần nhập đề, tác giả đã “quay” độc giả chóng cả mặt bằng cách giới thiệu một lúc bốn nhân vật mà không biết ai là nhân vật chính ! Có lẽ học trò Lớp Năm ngày xưa cũng không viết một đoạn văn kỳ lạ đến như vậy. Rất may cho chúng ta là tác giả không viết tiếp:“Hoàng có đứa con gái tên Lisa Nguyễn và bạn nó là Catherin Lê mới vừa thi hoa hậu áo dài và nó có thằng bồ tên Tony. ” Đọc một đoạn văn dẫn nhập như thế chắc độc giả sẽ ngã ra bất tỉnh nhân sự ! Thế nhưng khuyết điểm này tôi thường gặp ở khắp mọi nơi nhất là trong thể loại truyện ngắn hiện đang có khuynh hướng phổ biến ở hải ngoại.
Main idea: Ý chính
 Ý chính đây là ý chính của một đoạn văn. Một truyện được nối kết bằng nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn có một ý chính. Nếu đọc một đoạn văn mà độc giả hoặc nhà phê bình không thể đúc kết được ý chính thì đoạn văn đó trở nên vô giá trị dù tác giả có trổ hết tài văn chương như thế nào đi nữa. Như chúng ta đã biết một tác phẩm hay sau này có thể được viết rút gọn lại để cho phù hợp với nhiều trình độ khác nhau. Nếu các nhà biên soạn không sao hiểu được ý chính của một đoạn văn chắc chắn họ sẽ xếp tác phẩm ấy sang một bên. Sự kết thúc ý chính của một đoạn văn thường được nhận thấy bằng dấu chấm xuống hàng và thụt lui đầu dòng.
Metaphor: Phép ẩn dụ, so sánh gián tiếp hai vật khác nhau nhưng lại có những nét chung.
Thí dụ:
            Sao là những ngọn nến lung linh trên trời.
            Mẹ già như chuối ba hương
           Như sôi nếp một như đường mía lau  (Ca Dao)
            Em là dòng dõi Nàng Tô Thị (Cung Trầm Tưởng)
Mood: Tâm trạng tức trạng thái tâm lý do tác giả tạo ra trong truyện.
Motif: Yếu tố chủ yếu, mấu chốt trong chuyện. Chẳng hạn cô gái kết hôn với hoàng tử  trong các câu truyện thần tiên. Cô gái hóa thành chồn tinh trong truyện Liêu Trai Chí Dị.
Motivation: Động lực, lý do thầm kín.
OnomatopoeticXử dụng những chữ tượng thanh.
Thí dụ: Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
 Om sòm bên vách bức tranh gà
            Chí cha chí chát khua giày dép
                                              (Trần Tế Xương )
            Tiếng suối chảy róc rách.
            Súng nổ ầm ầm.
            Tiếng pháo nổ đì đùng
            Tiếng trẻ nhỏ nói bí bô.
            Ông Tây xí xô xí xào.
            Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Kiều)
            Tiếng lá rơi xào xạc.
            Những chiếc lá khô khốc lăn lông lốc trên đường.
Personification: Nhân cách hóa
Gán cho đồ vật, con vật một ý nghĩ, cảm xúc như  con người.
Thí dụ:
-Chiếc xe lửa nặng nề, mệt nhọc, thở dài một tiếng rồi dừng lại trên sân ga.
- Từng đợt sóng vỗ bờ rì rào thong thả chạy vào bờ, trào bọt trắng như muốn vỗ về xóm chài nhỏ bé       đang chìm đắm trong giấc ngủ về đêm.(Trích truyện dài Chọn Lựa)     
          -  Giấc mơ đó cứ thì thầm bên gối nàng biết bao đêm như vậy.
Plot: Bố cục
Cách sắp xếp các diễn biến sao cho hợp lý, hấp dẫn.
Point of view: Quan điểm của tác giả.
Pun: Lối chơi chữ
Với mục đích khôi hài, mỉa mai, châm biếm. Điều này có thể thấy rất nhiều trong văn chương bình dân Việt Nam, chẳng hạn như “lớn lại” là “lái lợn”, “tượng lo” là “lọ tương”.
Realism: Hiện thực - tức mô tả sự kiện đúng như trong cuộc sống, không lý tưởng hóa, lãng mạn hóa hoặc cường điệu.
Resolusion: Kết cuộc, kết thúc.
Rhyme and Rhythm: Xử dụng vần điệu, nhạc điệu của ngôn ngữ để tạo tính trầm bổng cho bài văn, bài thơ.
Thí dụ: Trong Quê Mẹ của Thanh Tịnh, đoạn văn sau đây rất trầm bổng và đầy nhạc điệu:
 “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức, hoang mang của buổi tựu trường. Buổi mai hôm ấy, buổi mai đầy sương thu và đầy giá lạnh…”
Rising action: Xung đột mỗi lúc mỗi trở nên căng thẳng.
Satire: Tính trào phúng, tính trào lộng.
Setting: Bối cảnh, khung cảnh mà câu truyện xảy ra thường bao gồm thời gian và không gian/địa điểm. Nếu không nói rõ không gian và thời gian, sau này các nhà đạo diễn sẽ vô cùng bối rối nếu tác phẩm được quay thành phim.
Simile: Ví von
Dùng những chữ như: Như thể, giống như, chẳng khác nào.
Thí dụ:
Sương như búa bổ mòn gốc liễu. (Cung Oán Ngâm Khúc)
- Nàng vũ nữ có thân hình uyển chuyển như  một con mèo.
- Nó nói dối như cuội.
Stereotype: Rập lại khuôn mẫu có giá trị bất di bất dịch. Thí dụ:
            - Mai cốt cách, tuyết tinh thần. (Kiều)
(Tuyết tượng trưng cho sự trong trắng, Mai tượng trưng cho sự thanh cao)
- Chẳng hạn như bà mẹ ghẻ trong các câu truyện thần tiên (Tấm Cám, Cinderella, Cô Bé  Lọ Lem)
    - Gian ngoan như Tào Tháo
Style: Lối hành văn – chẳng hạn như Hemingway nổi tiếng vì đã dùng  những câu văn ngắn gọn và dễ hiểu.
Supporting details: Những chi tiết, tình tiết để dẫn chứng cho một hình ảnh mà tác giả đưa ra. Chẳng hạn khi tác giả nói hắn là một gã lưu manh thì phải có những chi tiết dẫn chứng xem gã lưu manh như thế nào.
Symbol: Tượng trưng, tiêu biểu
Theme: Chủ đề (tình yêu, chiến tranh, xã hội, tù đày…)
Tone: Văn phong
Văn phong là nét độc đáo của từng tác giả. Có tác giả thích lối văn cầu kỳ, có tác giả thích lối văn châm biếm cay độc hoặc hài hước hoặc lãng mạn, bình dị.
Voice: Tính độc đáo – Không thể tìm thấy nơi tác giả khác. Nếu nhà văn không tạo được tính độc đáo thì tác phẩm của mình sẽ chết trong đám loạn quân.
 
II- CÁC THỂ LOẠI VĂN CHƯƠNG (*)
Nền văn chương của Tây Phương đã phát triển tới đỉnh cao cho nên hết sức đa dạng và phong phú. Sau đây là một số thể loại văn chương:
-        Truyện Ngụ Ngôn ( Allegory)
-        Tự Truyện (Autobiography) viết về cuộc đời của mình
-        Tiểu Sử ( Biography) viết về cuộc đời của người khác
-        Thơ Trào Phúng (Burlesque)
-        Bình luận (Criticism)
-        Truyện Trinh Thám (Detective Story)
-        Nhật Ký (Diary)
-        Kịch (Drama)
-        Thiên Sử Thi, Thiên Anh Hùng Ca (Epic)
-        Thơ viết dưới dạng thư gửi cho ai (Epistle)
-        Tiểu Luận ( Essay)
-        Truyện Cổ Tích (Fable)
-        Truyện Quái Đản, Hoang Đường (Fantasy) chẳng hạn trong đó có những con thú, cái máy biết nói tiếng
          người. Tây Du Ký thuộc thể loại vừa Dã  Sử , Huyền Thoại (Legend) vừa hoang đường (Fantasy).
-        Tiểu Thuyết (Fiction)
-        Truyện Dân Gian (Folklore)
-        Truyện Ma (Ghost Story)
-        Huyền Thoại, Dã Sử (Legend) truyện thêm thắt dựa vào một nhân vật lịch sử có thật.
-        Truyện Thiếu Nhi (Literature for Children)
-        Bài Hát Ru Con (Nursery Rhyme)
-        Thơ Nhại (Parody) nhại một bài thơ khác
-        Thơ (Poetry)
-        Tiểu Thuyết Diễm Tình (Romance)
-        Trường Thiên Tiểu Thuyết (Saga)
-        Hài Kịch (Satire)
-        Truyện Ngắn (Short Story)
-        Truyện Kinh Dị (Suspense Story) không phải truyện ma, trong đó tạo ra những tình huống kinh hoàng khi
          con người phải đối đầu với cái chết. Tây Phương phát triển rộng rãi bộ môn này và lan qua kịch kinh dị,
         phim kinh dị “toát mồ hôi lạnh”như loại phim Hitchkok cuối thập niên 1960. Còn văn chương Việt Nam
        ít thấy truyện kinh dị, có lẽ do tâm tính, văn hóa và ảnh hưởng tôn giáo chăng?
-       Truyện Phóng Đại (Tall Tell) như đấm một cái chết con voi, búng một cái chết con cọp, nhảy một cái qua
        ngọn núi.






dao van binhNhà văn Đào Văn Bình và phu nhân.


II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM VIẾT VĂN
Tôi nghĩ rằng bất cứ nhà văn nào sau một thời gian cũng sẽ rút ra được một số kinh nghiệm. Đối với tôi, giai đoạn từ 1986 tới 1995 là giai đoạn say sưa viết và chưa rút ra kinh nghiệm hoặc chỉ kinh nghiệm chút ít. Dĩ nhiên kinh nghiệm của mỗi nhà văn đều khác nhau nhưng cùng chung một mục đích sao cho tác phẩm hoàn thiện, tránh những khuyết điểm nhỏ nhặt đáng tiếc làm hư tác phẩm.
Thứ nhất: Phải viết bằng cả khối chân tình và rung động. Không ai buộc nhà văn phải trải qua những tình huống đề cập trong truyện bởi không một ai có thể có đủ mọi thứ kinh nghiệm trên cõi đời. Do đó nhà văn có thể tưởng tượng hoặc hư cấu. Nhưng dù hư cấu, tưởng tượng như thế nào đi nữa, nhà văn phải rung động hoặc thích thú với những gì mình viết ra. Bất kỳ một sự làm dáng, cường điệu nào cũng sẽ làm hỏng tác phẩm. Ngoài ra, viết theo mệnh lệnh, viết theo thiên kiến, viết theo thị hiếu của quần chúng, xu thời cũng sẽ hỏng tác phẩm.
Thứ hai: Không có một luật lệ nào buộc nhà văn phải viết thế này, phải viết thế kia. Trong khi viết văn, nhà văn là Ông Trời. Ông ta có thể cho người chết đã ngàn năm, sống dậy và nói chuyện khơi khơi với chúng ta. Ông ta cũng có thể cho một cô công chúa cành vàng lá ngọc lấy một tên vô loại xấu xa. Ông ta có thể cho một bà mệnh phụ lấy ngay người đầy tớ của mình. Nhưng cho dù hư cấu như thế nào đi nữa nhà văn vẫn phải thuyết phục được độc giả chấp nhận câu chuyện mà ông ta bịa đặt, rồi vui buồn, phẫn nộ, thống khoái, kinh hoàng với những gì ông ta viết. Đó chính là thiên tài của nhà văn làm cho câu truyện sống động, hợp lý.
Thứ ba: Nhà văn không phải đơn thuần diễn tả sự kiện vì tác phẩm còn bao gồm tư tưởng và xúc cảm do chứng kiến, do hồi ức hay do tưởng tượng. Nếu muốn tìm hiểu sự kiện không thôi thì nên đọc báo. Nhà văn có thể dùng ngôn ngữ rất bóng bẩy hoặc lối văn hàm ngụ hoặc ẩn dụ cho nên một đoạn văn có thể tối nghĩa với người này nhưng lại gây thích thú cho người khác. Do đó muốn thưởng thức văn chương cũng cần phải làm quen với văn chương, phải đọc nhiều, phải suy nghĩ nhiều. Người đọc không cần phải từng trải việc đời nhưng cần có đầu óc bén nhạy để hiểu được và cảm được những gì người khác đã trải, đã cảm nghiệm, đã suy nghĩ.
Nói vậy không có nghĩa nhà văn muốn viết thế nào thì viết. Dù dùng nhiều ẩn dụ, dù dùng ngôn ngữ bóng bẩy, dù dùng lối văn hàm ngụ - vẫn có một giới hạn - đó là người đọc phải hiểu nhà văn viết cái gì. Muốn người đọc hiểu mình viết gì, nhà văn phải dùng những câu văn trong sáng. Có điều luẩn quẩn là, muốn tạo một đoạn văn trong sáng chỉ cần tránh một đoạn văn tối nghĩa. Đoạn văn tối nghĩa là đoạn văn mà người đọc không hiểu tác giả muốn nói gì. Khi chính nhà văn còn chưa rõ ý nghĩa của câu văn mình viết ra thì nên bỏ câu văn hoặc đoạn văn đó, đừng tiếc. Muốn có một đoạn văn trong sáng thì nhà văn phải dùng chữ cho chính xác. Một đoạn văn dùng chữ không chính xác có khi chưa hẳn là đoạn văn tối nghĩa nhưng khiến người đọc hiểu lầm ý của mình. Sau đây là một vài thí dụ về cách xử dụng chữ cho chính xác:
1.     Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám tâm sự cùng nàng.
2.     Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám ngỏ ý cùng nàng.
Câu 1: Chàng không dám tâm tình với nàng chuyện gì đó.
Câu 2: Chàng không dám nói rằng (ngỏ ý rằng) chàng đã yêu nàng.
3.     Chàng ta hùng hổ tiến tới.
4.     Chàng ta hùng dũng tiến tới.
Câu 3: Chàng ta tiến tới với thái độ gây hấn.
Câu 4: Chàng ta tiến tới với thái độ tự tin.
Nói tóm lại, phải chọn chữ và câu văn thích hợp để trình bày, diễn tả một không khí thống nhất, thích hợp với một tình thế nào đó. Chẳng hạn không thể có một chữ, một câu văn bỡn cợt trong đoạn văn đang mô tả một không khí trang nghiêm - nếu không phải là truyện hài hước. Tôi còn nhớ kỷ niệm “tập làm văn” năm 1955 khi còn học Đệ Thất (Lớp 6 bây giờ). Trong một bài luận văn, để diễn tả nỗi vui của trẻ thơ, học sinh tôi đã dùng danh từ “khoái tỉ “. Sau khi chấm bài xong, giáo sư gọi tôi lên nói “Chữ “khoái tỉ” không được đứng đắn em không nên dùng trong văn chương.” Nghe thầy dạy thế, tôi hiểu ngay. Hai chữ “khóa tỉ” tức vui sướng- là ngôn ngữ đường phố của bọn trẻ con chúng tôi. Trải qua 57 năm tức hơn nửa thế kỷ mà tôi vẫn còn nhớ bài học văn chương quý giá này. Ngoài ra, chúng ta phải chọn chữ thật dịu dàng, dễ thương, thật nhẹ và thật thơ mộng để mô tả buổi gặp gỡ đầu tiên của mối tình đầu. Chúng ta hãy đọc một đoạn văn mô tả một cảnh vượt thác dưới đây để xem khả năng chọn chữ của tác giả: “ Chiếc phao nổi chở bốn người chồm lênnhảy xuống theo dòng nước cuộn chảy. Nước từ trên cao đổ xuống ầm ầm làm cho người ta có cảm tưởng họ đang vật lộn với con thủy quái hung dữ đang vùng vẫylàm bắn tung bọt nước trắng xóa.” (Trích trong Reading Literature của nxb McDougal, Littell)
Thứ tư: Phải tránh những đoạn văn thừa thãi. Đoạn văn thừa thãi làm sự tập trung của độc giả bị gián đoạn và đôi khi gây phản ứng bực bội. Mỗi câu văn viết ra đều có ý tứ, không ngoài mục đích dẫn dắt độc giả đi tới. Do đọc nhiều, tôi nhận thấy những đoạn văn thừa thãi phát xuất từ tính dễ dãi của người viết hoặc người viết muốn khoe kiến thức của mình. Do có những đoạn văn thừa thãi mà tác phẩm trở nên nhạt nhẽo khiến không hấp dẫn người đọc.
Chúng ta nên nhớ rằng một tác phẩm văn chương không phải là một tài liệu phô diễn kiến thức. Muốn tìm hiểu kiến thức người ta sẽ không tìm đến sách văn chương. Khi nhà văn đang mô tả đôi tình nhân trong một quán nhỏ ngồi bên nhau với ly ruợu, má người đàn bà ửng hồng vì men rượu song cũng vì men tình mà tác giả lại chuyển sang bàn về hằng trăm thứ rượu chát (rượu vang) có trên cõi đời này để khoe kiến thức thì đúng là tiểu thuyết kiếm hiệp câu giờ của Kim Dung. Những chi tiết thừa thãi này sẽ làm hỏng tác phẩm.
Một tác phẩm có giá trị là một tác phẩm cô đọng. Cô đọng không có nghĩa là thiếu, nhưng chắc chắn không thừa. Sau hai mươi năm viết văn, giả thử bây giờ cho tôi viết lại tất cả các tác phẩm mà tôi đã xuất bản, thì tất cả những tác phẩm đó chỉ còn lại hai phần ba số trang là cùng. Nói khác đi, mới khởi đầu viết người ta có khuynh hướng viết cho thật nhiều, viết tràng giang đại hải. Nhưng khi đã viết nhiều rồi thì lại muốn viết ngắn, viết cô đọng. Cái khác biệt giữa nhà văn mới vào nghề và nhà văn trưởng thành ở chỗ đó.
Thứ năm: Thời gian và không gian của tác phẩm cần phải nêu rõ và chính xác. Không nên viết về những gì mà mình không chắc chắn. Những gì không chắc chắn nên coi lại các tài liệu lưu trữ. Cách trang phục, ăn nói của mỗi thời đại, mỗi nơi đều khác nhau. Trí nhớ và đầu óc tưởng tượng của con người dù sao cũng có giới hạn. Ngoài ra nhiều hình ảnh cũng đã phai mờ theo thời gian và lầm lẫn niên hiệu, ngày, tháng. Leon Tolstoi khi viết bộ Chiến Tranh và Hoà Bình đã phải đi đến tận nơi quan sát địa thế để viết về những trận đánh. Khi viết truyện ngắn “Songkhla Dậy Sóng” tôi đã phải mở sách tham khảo để nghiên cứu về Thái Lan, Thị Trấn Songklha cùng một số bờ biển Thái Lan cũng như các tên gọi như Surat, Thom, U Thai, Khamphaeng đều lấy ra từ những tài liệu này. Nhờ đã từng đi qua các nơi như Phan Thiết, Vũng Tàu và một vài bến cảng ở Hoa Kỳ cùng đọc những truyện về cướp biển– chính những kinh nghiệm đó đã giúp tôi tìm ra được những cái tên như Quán Biển Xanh, Quán Giang Hồ, Con Tàu Lươn Biển, Con Tàu Sóng Thần làm cho câu truyện vừa thơ mộng, vừa có tính trinh thám. 
Thứ sáu: Nên viết truyện ngay trên máy điện tử. Trước đây ở vào những năm đầu của thập niên 1990 khi máy điện tử đã trở nên cực kỳ phổ thông và giá đã hạ, một số người khuyên tôi nên dùng máy điện tử để viết văn, tôi một mực từ chối. Lý do thứ nhất là viết văn trên máy điện tử đòi hỏi phải học đánh máy là điều tôi ghét thậm vì khó và phải đánh máy cả mười ngón tay. Thứ hai viết văn bằng máy điện tử làm mất cả hứng. Nhà văn với cây bút đã trở thành thói quen cả mấy trăm năm nay rồi. Nay buộc ngồi trước chiếc máy điện tử coi bộ gò bó quá. Nhà văn cần phải lang thang vớ vẩn, có khi phải nằm dài ra để suy nghĩ, có khi phải nhâm nhi cà-phê, phì phèo thuốc lá. Cho nên tôi nhất định không chịu viết văn trên máy điện tử. Thế nhưng do nhu cầu đọc và viết điện thư cho nên dù muốn dù không tôi cũng phải ngồi trước chiếc máy điện tử đánh máy lai rai. Lâu rồi cũng thành thói quen và từ năm 1997 đến nay tôi đã chính thức viết văn bằng máy điện tử mà không thấy trở ngại và cũng chẳng thấy gì gọi là mất hứng. Điều này giúp tôi giải quyết một vấn nạn đã làm tôi khổ tâm trong bao năm nay là phải chép lại vài trăm trang của bản thảo – một công tác mà tôi coi như lao động khổ sai.  Dĩ nhiên khi đi xa không thể đem theo máy điện tử, tôi có thói quen đem theo một xấp giấy bỏ trước túi áo. Tưởng tượng ra điều gì hoặc sáng tác được bài thơ nào tôi ghi ra ngay và khi về thì đánh máy lại. Viết văn bằng máy điện tử quen rồi cũng thấy thú vị và trở nên ghiền và nhất là tiết kiệm được vài trăm đô-la nếu sau này chúng ta có ý định xuất bản tác phẩm. Ngoài ra lại còn tránh được tai nạn hỏi – ngã đang là một vấn nạn lớn ở hải ngoại bây giờ. Nếu mình nhờ người ta đáng máy, phần lớn những người đánh máy thuê ăn tiền trình độ học vấn thấp cho nên thường lẫn lộn giữa dấu hỏi và dấu ngã làm cho người đọc hết sức bực mình và làm giảm giá trị của bài văn, bài thơ, và có thể di hại đến nhiều thế hệ sau này nhất là thế hệ trẻ ở hải ngoại không được học cũng như không được dạy Việt Ngữ đúng mức.
Vào ngày 11 Tháng 9, năm 2001 khi khủng bố tấn công vào Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở New York và Hoa Kỳ đã mở cuộc tấn công vào hang ổ của nhóm khủng bố Taliban và từ đó cái tên A Phú Hãn xuất hiện trên mặt báo chí không thiếu một ngày nào. Thế nhưng ở San Jose và Westminster không thiếu gì những tờ báo lớn đã nhiều lần đi những hàng chữ lớn A Phú Hản (dấu hỏi) thay vì A Phú Hãn (dấu ngã). Nếu sai sót này cứ kéo dài mãi thì chẳng bao lâu nữa sẽ xuất hiện một thứ “Việt Ngữ “ quái đản ở hải ngoại với Hoàng Xuân Hãn, Trần Nguyên Hãn sẽ biến thành Hoàng Xuân Hản và Trần Nguyên Hản  và những câu thơ trác tuyệt trong Kiều hay Chinh Phụ Ngâm hoặc Cung Oán Ngâm Khúc cũng sẽ lộn tùng phèo như sau:
Dưới cầu nước chãy trong veo
Bên cầu tơ liểu bóng chiều thướt tha (Kiều)
 
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẫu vẻ người tang thương (Cung Oán)
 
Vầng trăng ai xẽ làm đôi
Nữa in gối chiếc nữa soi dặm trường ( Chinh Phụ Ngâm)
        Không phải chỉ hải ngoại mới có “thảm họa hỏi- ngã “ mà ngay trong nước cũng vậy. Tình cờ vào một siêu thị tôi thấy trên chai nước chấm sản xuất ở Việt Nam ghi Nước Mắm Pha Sẳn thay vì phải ghi Nước Mắm Pha Sẵn.
Sau hết, viết văn trên máy điện tử dù tiện lợi song có điều ai cũng phải công nhận là đối với những nhà văn có tài, người đời sau muốn mua lại các bản thảo thì đành chịu thua. Viết văn trên máy điện tử người ta có khuynh hướng sửa chữa ngay cho nên không thể nào có bản thảo - ngoại trừ các tác phẩm viết dở dang đã được lưu trữ vào đĩa và có thể coi đó như bản thảo.
Đào Văn Bình
(Trích sách 20 Năm Viết Văn xb năm2004)
(*) Sách Literature của McDougal , Littell
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6984)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17871)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5250)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5488)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6200)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5100)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4113)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5354)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3899)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3014)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567