Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 15.Trung tâm thiền minh sát Kanduboda

11/06/201317:17(Xem: 2218)
Chương 15.Trung tâm thiền minh sát Kanduboda

TRÚ QUÁN QUA ĐÊM
(Từ có nhà đến không nhà)
Tự Truyện của một Tăng Sĩ Hoa Kỳ

[Bản điện tử lần thứ ba với tu chính]

Tỳ kheo Yogagivacara Rahula
(Bhavana Society, 2005 )
Chơn Quán dịch Việt

Chương 15

TRUNG TÂM THIỀN MINH SÁT KANDUBODA [7]

Khóa học đã mãn, Chris và tôi lại phải nghĩ tới việc làm sắp tới--đi Kanduboda. Tôi đã viết thư gởi Thầy Saviili báo tin chuyến viếng thăm và ý muốn thọ giáo ông về pháp thiền minh sát. Bây giờ chúng tôi phải xuống sở di trú xin gia hạn chiếu khán, việc mà chúng tôi không thể chần chờ. Với chút nói khéo chúng tôi được gia hạn ba tháng không khó khăn. Tiếp theo, chúng tôi ra nhà băng đổi một rrăm tám mươi đô la và đem trình họ biên nhận; may là tiền đến đúng lúc nên tôi không gặp trở ngại nào hết. Rồi tôi xuống phố mua hai sà rong trắng và vài áo thun trắng sát nách để đem theo. Nghe nói ở trung tâm thiền nguời ta thường mặc trắng, và nếu được, nên mặc y phục cổ truyền với sà rong dài chấm gót và áo có tay. Màu trắng, theo phong tục Đông phương, là biểu tượng của sự trong trắng, nên sà ri trắng cho nữ giới và áo dài trắng cho nam giới là trang phục thích hợp nhứt trong các lễ­ hội hay khóa tu học. Tuy nhiên, vì khí hậu ở đây quá nóng và ẩm tôi không thích mặc áo dài tay nên mua áo thun sát nách trắng thay thế; nghe nói mặc như vậy cũng được.

Vì biết tôi quan tâm đến thiền minh sát, tôi được mách cho hai tựa sách hay về môn này: 'Thiền Phật Giáo Căn Bản[8]' của Thầy Nyanaponika Thera, một sư người Đức sống ở Sri Lanka và 'Thiền Minh Sát Thực Hành[9]' của Thiền sư Miến Điện Mahashi Sayadaw. Một sáng chủ nhựt rỗi rảnh nọ tôi xuống phố và may mua được luôn cả hai quyển trong một nhà sách. Tôi bắt đầu đọc liền quyển Thiền Phật Giáo Căn Bản vì nghe nói khóa học Kanduboda không cho phép đọc sách bởi chương trình học rất nặng. Sách nói về sự cần phải có tỉnh thức trong đời sống hằng ngày vì tỉnh thức giúp khám phá những u tối sâu thẳm trong tâm não, nhổ tận gốc mọi phiền trược, làm phát sanh bình an nội tại, và dẫn đến giải thoát. Tôi rất thích những lời dạy trực tiếp và rõ ràng này nên bắt tay thực tập luôn. Thiền minh sát mô tả trong sách khác với 'thiền quét' của Thầy Goenka nhưng giống phương pháp tôi nghe Joseph nói qua lúc ở Bodhgaya; đó cũng là đề tài mà tôi sẽ học ở Kanduboya. Xong quyển Thiền Phật Giáo Can Bản, tôi định đem quyển Thiền Minh Sát Thực Hành theo lên Kanduboda để lén đọc khi có dịp. Tôi nghĩ chắc không sao bởi sách chỉ nói về phương pháp mà tôi sẽ thực tập chớ không phải là gì khác.

Trung Tâm Kanduboda Vipassana Bhavana nằm trong vùng quê xanh tươi, cách Colombo không xa, chừng muời lăm dặm; vậy mà chúng tôi mất cả tiếng đồng hồ, vì xe ngừng nhiều trạm và đường đầy ổ gà. Tới nơi, Chris và tôi đi thẳng vô phòng tiếp tân nơi chỗ cổng vào gặp thơ ký. Tôi cho biết tôi có viết thư trước rồi, nhưng ông nói chúng tôi phải gặp Thầy truớc đã và cho chú tiểu đưa hai chúng tôi đi. Lối đi và các sân đều lót cát và được chăm sóc tươm tất. Chúng tôi đi qua khu có nhiều nhà thấp quét vôi trắng, nhiều hàng dừa cao thấp khác nhau với trái nặng trĩu và nhiều bông hoa nhiệt đới đủ sắc đủ màu. Khuông viên đượm không khí tĩnh mịch, linh thiêng. Thầy Sivali đang ngồi một mình trên sàn thảo am, thấy chúng tôi tới, mời vô. Chúng tôi cởi dép, bước lên, vái Thầy ba lạy, rồi ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn đặt trước mặt Thầy.

Thầy Sivali trạc tuổi trung niên nhưng trông rất trẻ. Thầy điềm đạm, khiêm tốn và định tâm. Khi nhìn thẳng vào tôi, mắt Thầy sáng hẳn lên tưởng chừng như có biết tôi rồi. Thầy bèn hỏi: "Anh có phải là anh Joseph không?" Nghe tôi trả lời rằng đúng, Thầy kể câu chuyện sau. Hai tuần lễ­ trước, CID có tìm tôi không biết có chuyện gì. Họ đến đây vì tôi đã khai Kanduboda là nơi tạm trú trong thời gian ở Sri Lanka. Viên công lực có trình hình tôi cho Thầy xem và có hỏi Thầy về tông tích của tôi. Thầy nói tôi có gởi thư nhưng chưa đến. Ông có vẻ bực và yêu cầu Thầy chuyển lời CID gọi tôi lên trình diện ngay. Bấy giờ, Thầy tỏ ra hơi lo âu và hỏi tôi việc gì đã xảy ra khiến cảnh sát phải tìm tôi. Tôi cũng bối rối như Thầy và thưa thật rằng tôi không biết. Tôi trình bày tự sự rằng tôi có đăng ký đến Kanduboda hồi tháng rồi, nhưng không đến liền được vì khóa du già mà không có khai báo lại. Thầy nói tôi phải trở lên Colombo để làm cho xong thủ tục mới có thể dự khóa thiền của Thầy được. Đã xế chiều song Thầy đề nghị tôi nên đi liền và ở lại Colombo tối nay. Tôi nghĩ đây chỉ là thủ tục thông thường và Thầy lo hơi xa, nhưng Thầy có lý riêng của Thầy. Chris không phải lên lại Colombo vì công dân Anh không cần đăng ký. Chris được Thầy cho phép ở lại và bắt đầu học. Tôi thưa với Thầy là tôi sẽ cố gắng làm xong thủ tục nhanh và trở về trong một hai hôm. Thầy bảo tôi phải xin cho có cái giấy của CID Thầy mới có thể nhận tôi. Tôi đành trở ra bến xe ở ngả tư Delgoda và lên buýt với tâm trạng không mấy an. Tôi đi thẳng tới nhà anh Sam và đợi sáng mai lên CID sớm.

Anh Sam đã có ở nhà rồi trước khi tôi đến. Anh ngạc nhiên thấy tôi trở về. Tôi kể lại câu chuyện, anh đồng ý chỉ là một thông lệ, nhưng tôi hơi lo âu. Sáng hôm sau, tôi lên văn phòng trên lầu tư của CID lúc 9:00 giờ và được bảo ngồi chờ trên ghế dài dọc tường. Sau chừng mười lăm phút tôi được gọi vào bên trong và phải ngồi đợi thêm mười phút nữa. Sau cùng, viên sĩ quan ra với tập hồ sơ và hình của tôi trên tay. Ông hỏi: "Anh có lần nào bị bắt vì tội đem lậu cần sa vô Afghanistan không?" Câu hỏi bất ngờ làm tôi sửng sốt và tôi phải mất mấy giây mới trả lời được. Tôi nghĩ ông đã được thông báo, nếu không làm sao ông biết, và do đó ông muốn gặp tôi. Trấn tỉnh, tôi hỏi lại sao ông hỏi tôi như vậy. Ông cho biết tên và tội danh tôi có trong danh sách Interpol của các người bị nghi buôn lậu ma túy. Tôi trả lời rằng: "Hồi năm qua tôi có thử cái trò điên khùng đó và bị bắt ở tù. Tôi đã học được bài học đích đáng." Chuyện ấy, tôi nói thêm, xảy ra hồi năm trước khi tôi còn là một tên ngu, còn bây giờ tôi đã sang trang, đang tu làm Phật tử và học thiền. Tôi nói một cách quả quyết rằng tôi đã bỏ thuốc và là người sạch. Nghĩ ông là Phật tử, tôi tin ông hiểu lời tôi và tha cho tội tôi trong quá khứ.

Viên sĩ quan có vẻ thỏa mãn với lời khai của tôi. Ông hỏi tôi chớ học thiền ở đâu? Tôi thưa tôi đang chuẩn bị theo khóa tu học của Thầy Sivali ở Kanduboda. Ông phản ứng ngay: "Ồ! Đó là chỗ ưa thích nhứt của người phương Tây." Ông nói bà nhạc của ông là một dyaka (người hỗ trợ) của trung tâm và thỉnh thoảng có tới đó thiền. Ông không có đề cập đến việc người của CID đến đó tìm tôi. Trong lúc ông thu xếp giấy tờ tôi hỏi ông chớ còn chi nữa không. Ông nói: " Thế là xong đối với chúng tôi. Tôi không nghĩ chúng tôi phải quan tâm đến vấn đề nữa và anh có thể ra về." Nhớ tới lời yêu cầu của Thầy Sivali, tôi xin ông cấp cho tôi một chứng từ để làm yên lòng Thầy, nhưng ông nói là không cần thiết. Tôi phải giải thích thêm cặn kẽ, ông mới thuận viết mấy chữ trong một miếng giấy rồi ký tên và đóng mộc cho tôi cầm về. Sự không quan tâm của ông đối với vần đề thật là kỳ lạ. Tôi ghi nhận một lần nữa lối sống thoải mái của người phương Đông. Tôi thầm cám ơn nhưng nghĩ rằng thái độ đó không tốt lắm đối với những tội phạm chính tông. Trên đường trở lại nhà anh Sam, tôi chiêm nghiệm luật nhân quả và nhận biết rằng hành động của tôi làm từ hơn một năm rưỡi nay vẫn luôn luôn đeo đuổi tôi.

Tôi về lại Kanduboda xế hôm ấy với văn thư giải oan trong tay. Sau khi đọc kỹ văn thư, Thầy Sivali nói tôi có thể ở trong ba tuần. Thời gian ba tuần được ấn định vì trung tâm cần chỗ cho học viên khác; trung tâm của Thầy luôn luôn đầy người phương Tây đến học. Chỉ trong trường hợp đặc biệt hay vào đôi lúc ngoài mùa du lịch, thời gian ba tuần mới được gia hạn với sự cho phép của Thầy. Tôi ngồi xuống bồ đoàn nghe Thầy Sivali giải thích các điều lệ phải theo: giữ mười giới như đả học ở Kopan, không được đến gần khu nữ; không được nói chuyện, viết thư hay đọc sách; và không nên tập yoga. Thầy nói những điều cấm ấy chỉ có gây xao lãng cho hành giả đang cần tu tập tỉnh thức thuần thành và liên tục theo phương cách mà Thầy sẽ giảng sau. Thầy dành thời giờ vào mỗi buổi chiều để học viên tham vấn hay hỏi về tiến triển của mình. Kanduboda không chỉ là một trung tâm dạy thiền cho cư sĩ tại gia mà còn là một tu viện với một số tăng sĩ theo học. Nam học viên sẽ ăn sáng và trưa chung với Thầy trong trai đường. Và theo giới luật của tu viện, chúng tôi không có cơm sau ngọ mà chỉ có trà đen vào lúc xế và tối.

Thầy tiếp mô tả phương thức thiền. Thầy giải thích động tác phồng xẹp của bụng khi thở bình thường. Tôi phải tự nói 'phồng, phồng' lúc hít vô và 'xẹp xẹp' khi thở ra. Đó là mục tiêu cần chú ý đầu tiên trong lúc ngồi. Giữa hai hơi thở hoặc lúc nhận thấy hơi thở hơi yếu, phải biết chỗ hai gối và mông chạm sàn để tự nói 'chạm sàn, chạm sàn'. Nếu tâm bị dấy niệm, không thể ngồi và thở tỉnh thức nữa, lúc bấy giờ phải tự nhắc 'nghĩ, nghĩ' rồi trở về tỉnh thức bằng cách lập lại 'phồng, phồng' và 'xẹp, xẹp'. Nếu bị khuyấy động bởi tiếng ồn, tự nói 'nghe, nghe' cho đến lúc không còn nghe tiếng động nữa mới trở lại 'phồng, xẹp'. Sự ghi nhận trong tâm thức vừa mô tả có thể áp dụng cho các cảm giác khác như thị giác, xúc giác, khứu giác, và vị giác. Trong việc thực tập này, chỉ thuần túy ghi nhận chớ không phân tách hay luận bàn sự việc xảy ra. Chúng tôi ngồi thiền với tư duy sâu lắng như vậy suốt một tiếng và nhiều lần trong ngày. Giữa các thời tọa thiền, chúng tôi tập thiền hành, một hình thức tiếp nối của thiền tọa trong đó động tác phồng xẹp của bụng được thay thế bởi động tác của chân đi. Mỗi khi dở chân lên, tự nói 'dở, dở', đưa chân bước nói 'bước, bước', và đặt chân xuống nói 'đạp, đạp'. Tỉnh thức này áp dụng cho mỗi buớc trong khi chân đi liên tục và chẫm rãi. Để chế ngự tâm buông lung, chúng tôi áp dụng những gì đã học cho thiền tọa. Và đặc biệt nên nhớ chỉ ghi nhận hiện tuợng cảm nhận thô tiên khởi chớ không có phân tách hay bàn luận.

Những chỉ dẫn căn bản nói trên trùng hợp với những gì tôi đọc trong sách Thiền Phật Giáo Căn Bản và được mô tả tỉ mỉ trong Thiền Minh Sát Thực Hành. Thầy Sivaili bảo tôi nên ngồi thiền một giờ rồi đi thiền nửa giờ, thay phiên các thời tỉnh thức ấy càng nhiều càng tốt, từ sáng đến tối. Thầy khuyên tôi làm chậm lại các công việc hằng ngày như ăn uống, tắm rửa, đi cầu, vân vân; Thầy sẽ giải thích tại sao sau này. Để trả lời câu tôi hỏi về phép quán hơi thở bằng cách nghe hơi thở qua chót mũi mà tôi học với Thầy Goenka, Thầy nói theo dõi sự phồng xẹp của bụng là một cách của sổ tức quán và cách này giúp hành giả phát huy tỉnh thức nội tại dễ­ dàng hơn. Thầy nói thêm rằng không cần tập thêm gì khác nữa, chỉ nên bắt đầu chầm chậm, thư giãn, và để mọi việc đến tự nhiên. Tôi cảm thấy hữu lý và thỏa mãn. Sau đó, Thầy, vị thầy rất ôn tồn và nhỏ nhẹ, đưa tôi qua khu nam sinh, cấp cho tôi một phòng nhỏ ở đó, và chỉ tôi nơi vệ sinh cùng giếng tắm giặt.

Tôi dành một giờ để xếp đặt chỗ ở mới của mình. Có hai mươi đơn vị xếp dọc hai bên trong một kiến trúc vuông dài với hành lang chạy quanh. Trong hành lang, dùng làm lối thiền hành, tôi thấy Chris và một yogi phương Tây đang bước đi chầm chậm, mắt nhìn về phía trước xuống đầu chân mình. Họ trông như hai xác không hồn lửng thửng đi rất chậm. Mỗi đơn vị chỉ rộng chừng 5x7 bộ có một bệ xi-măng cao sát vách dùng làm giường ngủ với tấm nệm bằng xơ dừa, gối, và vải trải giường. Có thêm cái ghế thấp bằng cây tôi kê vô góc phòng để làm bàn thờ. Trên bàn thờ tôi trải chiếc khăn linh Benares rồi đặt lên đó bức hình vẽ Đức Thích Ca Mâu Ni theo lối Tây Tạng và ảnh của Lạt Ma Zopa tôi thỉnh ở Kopan. Tôi làm lư nhang bằng cách đổ cát vô cái ly nhỏ tìm gặp trong góc phòng. Nhang tôi có đem theo trong xách, còn đèn cầy và diêm quẹt có sẵn trong phòng, phòng bị những lúc không có điện. Đoạn tôi trải xuống sàn cái mền mỏng và áo jalaba lên nệm và bồ đoàn bằng rơm tôi đem theo. Tôi xếp bàn chải, kem đánh răng, sà bông, và khăn tắm ngay ngắn dưới chân giường. Và tôi dấu quyển Thiền Minh Sát Thực Hành dưới nệm. Tôi biến căn phòng nhỏ buồn bèo và ảm đạm thành một cốc khá tươi sáng và ấm cúng.

Bây giờ tôi đã sẵn sàng, tôi ngồi xuống giường để thiền. Ngay lúc ấy, Chris tới và lặng lẽ đứng dựa bên cánh cửa lưới. Tôi ngoắc vô và thì thầm kể lại chuyện ở CID, còn Chris cho biết một số điểm đặc biệt của thời khóa biểu. Có ba thời thiền tập thể hằng ngày, mỗi thời dài một tiếng, vào lúc 8:00-9:00 giờ sáng sau điểm tâm, 12:00-1:00 giờ trưa ngay sau ngọ thực, và 6:00-7:00 giờ tối. Lúc thiền các học viên yoga ngồi ngoài hành lang trước cửa cốc mình, và Thầy Sivali sẽ đến ngồi chung với mọi người. Mỗi sáng khi kiểng báo thức lúc 3:00 giờ khuya, mọi học viên thức dậy, rửa mặt nếu muốn, rồi ra hành lang bắt đầu tập ngồi và đi tỉnh thức. 5:00 giờ, có chú tiểu xách vò cháo đến mỗi phòng rót cho mỗi học viên một chén đầy. Chén dĩa do trung tâm phát và mỗi người tự giữ để đem theo lên trai đường ăn ngọ. 10:00 giờ có nước dừa; xế và tối có trà. Chris cho biết thêm là cơm rất ngon. Giữa câu chuyện có chú tiểu đem đến cho tôi chén dĩa, Chris rút lui êm và tiếp tục đi tỉnh thức. Cũng sắp tới giờ trà giải lao rồi giờ thiền tập thể, tôi phải hoãn ngồi thiền.

Trong thời ngồi tập thể, tôi bắt đầu làm quen với cái mới--sự chú ý nơi bụng. Nhờ biết cách thở sâu của yoga với sự chuyển động cách mô của du già, tôi thấy động tác phồng xẹp của bụng không khó lắm. Tuy nhiên sự chú ý của tôi không liên tục vì tâm còn nghĩ đến những chuyện xảy ra hôm nay, chuyện mà tôi cố gạt bỏ bằng cách tự nói 'nghĩ', nghĩ'; các niệm dấy lên có vơi phần nào. Lúc kiểng báo chấm dứt, tôi tự ngồi lại cho đến giờ đi ngủ quy định là 11:00 giờ đêm. Ngủ từ 11:00 đến 3:00 giờ tức chỉ có bốn tiếng; tôi hơi lo và không biết có chịu nổi không. Tôi có đọc sách thiền minh sát và biết rằng thành tâm tu tập tỉnh thức sẽ làm mất ngủ. Nhưng được biết Đức Phật chỉ ngủ có hai tiếng mỗi đêm, tôi an tâm. Vả lại, Chris có cho biết thêm không ai kiểm soát mình ngoài mình nên học viên có thể tăng giảm giờ giấc tùy ý.

Giờ đây tôi đang nôn nóng muốn tập thiền hành. Tôi ra hành lang đứng qua một bên để không cản trở năm sáu học viên khác đang đi thiền. Tôi cẩn thận và chầm chậm vừa dở chân mặt lên cách mặt sàn chừng năm phân vừa nói 'lên, lên', rồi 'dở, dở', và 'đạp, dập'. Tôi lập lại với chân trái và đi chầm chậm tới[10]. Tôi hơi bỡ ngỡ lúc đầu và cố giữ thăng bằng trong lúc đi quá chậm như vậy. Cố gắng, tôi thấy lần lần dễ­ ra và tôi có thể chú tâm mình vô đó rồi như quên hết thời gian. Phải mất rất nhiều phút mới đi hết một vòng hành lang, và sau hai vòng đi chân bắt đầu mỏi. Tôi bèn vô phòng lên giường ngồi tiếp tục chú ý tới bụng phồng xẹp, nhưng 'tâm viên[11]' không định nữa và giấc ngủ ùa đến. Chỉ mới là ngày đầu nên tôi dễ­ viện lý do là đã chạy đôn chạy đáo ở Colombo suốt buổi sáng này. Tôi nằm duỗi ra định tiếp tục tập thở phồng xẹp, nhưng ngủ hồi nào không hay. Lúc ấy mới 9:00 giờ.

Tiếng kiểng lọt vô tai nghe văng vẳng làm tôi tỉnh giấc. Tiếp theo là ba tiếng chuông của chiếc đồng hồ treo ngoài hành lang. Tôi quan sát cái tâm say ngủ đang nắm bắt tiếng kiểng 3:00 giờ và đang phản ứng lại sự phải dậy sớm. Tôi nghĩ tôi có thể nằm lại và tỉnh thức theo dõi sự 'phồng xẹp' nhưng rất tiếc, tôi đã ngủ lại. Tôi giựt mình nghe chuông đồng hồ đổ bốn tiếng và bật ngồi dậy với chút ân hận đã ngủ quá giờ. Sau khi tắm rửa, tôi tập vài thế yoga thư giãn với hô hấp sâu để thật tỉnh giấc rồi xếp gối làm bồ đoàn ngồi bắt đầu buổi tập căn bản sáng. 5:00 giờ: tôi nghe tiếng chú tiểu phát cháo. Tâm tôi theo chú từ phòng này tới phòng khác và bị chế ngự bởi dục trông chờ và tưởng tượng. Sau vài phút tôi mới biết mình đã xa rời tỉnh thức và lạc trong dòng suy tư. Tôi vội nói ' lạc rồi, lạc rồi' và trở về 'phồng, phồng', 'xẹp, xẹp'. Tôi để chén đựng cháo gần cửa như Chris dặn để khỏi phải đứng dậy trong lúc thiền. Khi chú tiểu mở cửa lưới múccháo vô chén tôi nói 'nghe, nghe'. Mắt tôi nhắm nhưng tôi hình dung rất rõ và tôi nói 'nghĩ, nghĩ'.

Canda là tiếng Sinhalese chỉ một loại nước uống xanh đặc, làm bằng gạo, nước dừa, rau mùi, và đuờng được dùng trong các thiền viện trước bữa ăn sáng. Hôm nay tôi nhấm canda lần đầu tiên và cảm thấy mình bị 'cám dỗ' ngay vì khá ngon miệng. Sau khi cạn ly tôi rất thỏa dạ và có cảm tưởng như đã dùng sáng xong. Tôi nảy ra ý không ăn sáng nữa mà chỉ ăn ngọ thời. Tuy nhiên khi nghe kiểng đổ tôi xách chén dĩa ra đi.

Tất cả các học viên du già cư sĩ xếp hàng một sau hai tăng sĩ Tây phương cũng dự khóa này. Mắt nhìn xuống tới gót chân của người đứng trước, chúng tôi bước chầm chậm và tỉnh thức trên thềm xi măng vô trai đường. Các tăng Tích Lan trú ở khu vực khác trong thiền viện đã vào bàn ngồi dọc theo tường, với Thầy Sivali ngồi đầu bàn. Hai tăng Tây phương vô ngồi đầu dưới của hàng tăng sĩ. Cư sĩ chúng tôi ngồi vào hàng ghế đối diện. Thức ăn đã bày sẵn trên bàn. Trong lúc chờ đợi, mọi người ngồi yên lặng, ngó xuống hay nhắm mắt. Ăn cũng là hành thiền nhưng tôi chưa được chỉ dẫn chi tiết ngoại trừ phải ăn chậm. Tôi ngồi chú ý tới động tác phồng xẹp của bụng trong lúc cố gắng cưỡng lại thị dục muốn biết hôm nay ăn món gì.

Trai thời của Kanduboda do một số thí chủ cung cấp và chiêu đãi. Họ đi quanh bàn múc thức ăn vô dĩa của học viên hay bình bát của tăng sĩ; mọi người hoan hỷ chấp nhận, không chọn lựa mà cũng không ưu tư. Khi thấy vừa đủ cho mình, chỉ cần đưa tay lên dĩa hay bát là thí chủ sẽ ngưng và quay sang tiếp người kế bên. Vì chưa biết thủ tục, tôi để dĩa mình đầy nhóc thức ăn mà tôi chắc không thể nào ăn hết. Vả lại, tôi không thấy đói lắm vì ly canda lớn một giờ trước đó. Nhưng không thể bỏ mứa và muốn thử vì hiếu kỳ, tôi ăn mọi thứ. Tiếp theo, chuối, đu đủ, thơm, và xoài xắt miếng được bưng ra. Mắt tôi hoa lên vì tôi đã no tới cổ rồi. Vậy mà tôi không thể không ăn nên ăn thêm trái chuối và miếng đu đủ. Tiếp theo, mỗi người được trao cho một tô nước để rửa tay mặt mình bị dính thức ăn; nước dơ được đổ bỏ trong thùng/ống nhổ do thí chủ mang tới. Sau khi mọi người đều xong, Thầy Sivali đi đầu dẫn các vị tăng ra trước rồi tới các học viên chúng tôi.

Trong giờ thiền tập thể lúc 8:00 giờ tôi nghe bao tử làm việc, kêu ọt ọt, và cảm thấy buồn ngủ chắc tại tôi ăn no quá. Tôi xem những vấn đề này như những kinh nghiệm giúp tìm hiểu phân lượng đúng cho bữa ăn, giấc ngủ và thời thiền. Sau thời thiền tập thể chúng tôi được tự do cho tới 11:00 giờ, lúc tất cả sẽ tập họp cho bữa ăn trưa. Chúng tôi có thể đi tắm, hay giặt đồ, hay tiếp tục ngồi và đi thiền. Thầy Sivali chỉ mới cho tôi biết đại khái nên tôi mong được hiểu rõ chi tiết; do đó tôi dùng khoảng thời gian này để đóng cửa phòng lén đọc tiếp quyển Thiền Minh Sát Thực Hành..

Sách dạy nhiều phương pháp cụ thể kèm theo một ít lý thuyết. Quan sát bụng phồng xẹp là cách đưa tỉnh thức và vô thường vào một nhịp điệu chung: chu kỳ hít thở tượng trưng cho vòng sanh diệt của các hoạt động thân tâm. Áp dụng tỉnh thức vào hoạt động căn bản của đời sống, ta tự dưng nhìn thấy được nhiều hiện tượng khác rõ ràng. Sự chú tâm giữ tâm thức linh hoạt trong tình huống hiện tại và giúp phá trừ chấp trước một cách khách quan. Sự chú ý 'đơn thuần' ấy rất hữu hiệu trong việc thiết lập khoảng không gian tâm linh khả dĩ làm tiêu tan nhiều phản ứng tự phát thông thường của thân và tâm, và như thế, làm vơi nhiều khổ đau tương ứng. Đó là một phép tự chữa bịnh bằng tâm lý vậy.

Nói về 'ghi nhận', sách đề cập đến hầu hết các sinh hoạt của thân xảy ra hằng ngày. Lúc quay cổ, nói 'quay, quay'; nháy mắt, nói 'nháy, nháy'; bưng lên, để xuống, dang tay, co chân, nói 'lên, lên', 'xuống, xuống', dang, dang', 'co, co', vân vân. Mỗi động tác cần được thực hành trong tỉnh giác, và như vậy bị kéo chậm lại rất nhiều. Khi động tác làm vừa đủ chậm và tỉnh thức, buớc đầu và bước cuối của động tác, cũng như thời gian hành động, được phân biệt minh bạch. Và mỗi động tác có chủ đích luôn luôn được tâm thức điều động. Ai cũng biết cái thân tứ đại không thể hành động nếu không được tâm chỉ huy. Lúc ăn, ta cũng có thể tập tỉnh giác. Lúc nhìn thức ăn, nói 'nhìn, nhìn'; vo thức ăn trong tay, nói 'vo, vo'; đưa thức ăn lên miệng, há miệng, bỏ thức ăn vô miệng, nhai, thưởng thức, và nuốt, ta ghi nhận các hành động riêng rẽ ấy theo như cách tỉnh thức nói trên. Cùng lúc, nếu có sự thích hay không thích, ham muốn hay mong cầu điều gì khác, đừng quên ghi nhận.

Sách còn liệt kê nhiều tâm trạng có thể thấy dấy lên trong lúc hành thiền; cũng phải quan sát và ghi nhận tất cả. Sau đây là một số thông thường: tưởng tượng, băn khoăn, lo âu, ham muốn, ghét, giận, chán, mệt, nản, hiếu kỳ, so sánh, phê phán, hãnh diện, tự cao, thèm, ghen, sợ, nghi hoặc, ngã lòng, hỗn loạn, bực mình, bằng lòng, hoan hỷ, an tịnh, trắc ẩn, thương, vân vân. Nếu chúng phát sanh, phải quan tâm xác định chúng bằng phương pháp ghi nhận khách quan cho đến lúc chúng ra đi. Làm vậy là để trưởng dưỡng sự quán chiếu vào thực thể của sự phối hợp giữa thân với tâm và vào các yếu tố bao hàm hầu hiểu rõ tính vô thường, duyên khởi và vô ngã. Trong lúc tôi say mê đọc sách, chú tiểu đến đem cho nước dừa của giờ giải lao sáng. Tôi lật đật dấu sách và giả bộ đang thiền. Khi chú đi khỏi, tôi định tỉnh ghi nhận ý muốn uống chất nước ngon ngọt đó và làm các động tác vói bưng ly, đưa lên miệng, đổ vô, thưởng thức vị ngon ngọt, nuốt, để ly xuống--và lập lại tiến trình này cho đến khi ly cạn.

Biết thêm một số chi tiết, tôi hăm hở vào cử thiền trước thời quá đường. Tôi đứng lên, duỗi chân cho máu lưu thông rồi ngồi xuống trong thế hoa sen và bắt đầu thở sâu theo lối du già. Lúc trở lại hô hấp bình thuờng, tôi bắt đầu chú ý đặc biệt đến lúc khởi, khoảng thời gian ngắn và lúc kết của cử động phồng xẹp của bụng. Tôi nhận biết tỉnh thức giúp giữ tâm linh hoạt, và tôi cũng ghi nhận được rõ ràng cảm xúc của nhiều phần thân thể khác; chúng đến rồi đi cũng như các tiếng động bên ngoài. Khi tôi phóng tâm, tôi cũng ghi nhận được ngay nên không bị lạc. Lúc tôi thấy gối, mông và mắt cá mỏi bởi thế ngồi kiết già, tôi không thèm quan tâm mà chỉ ghi nhận 'đau, đau', như sách đã dạy.

Tôi hầu như thành công hầu trọn vẹn trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên sau khoảng nửa giờ ngồi kiết già, tôi phải kéo một chân xuống, ngồi lại thế bán già. Tôi theo sách và cố làm chầm chậm trong lúc ghi nhận mỗi động tác riêng biệt. Vì chưa quen với cách chuyển thế và vì còn lật đật, tôi ghi nhận thiếu nhiều chi tiết. Ngoài ra, tôi đang nghĩ tới cơm trưa nên khi kiểng đổ tôi không kịp nói 'nghe, nghe'. Nhưng trễ còn hơn không, tôi liền nói 'nghĩ, nghĩ', 'mong, mong' và 'nghe, nghe'. Tôi biết tôi còn phải học nhiều, nhưng tôi thích thú và tin tưởng nơi khả năng của phương pháp ấy và của sự tu học nói chung.

Tất cả xếp hàng và tiến chầm chậm vô trai đường như hồi sáng. Lúc đi ngang bàn giữa, tôi không thể không ngó qua các nồi, chảo, tô, dĩa để đầy trên đó. Có tới hai ba thứ cơm, đủ thứ rau và cá, cộng với cả đống chuối và trái cây xắt miếng, cùng nhiều thau đậu hũvà nhiều dĩa bánh ngọt. Tôi thấy mình đang toan tính, nhưng cố làm ngơ. Tôi chưa thấy đói bởi bữa điểm tâm quá nặng. Tôi cũng không muốn làm lại lỗi lầm hồi sáng. Tuy nhiên, vì đang tập hành động chậm trong chánh niệm, tôi không kịp đưa tay ngăn đám đông thí chủ đứng múc thức ăn vô dĩa tôi đầy vun. Tôi cố không để ý tới những gì nối tiếp xảy ra; nhưng tôi lại nhận thấy sự cần liếc trộm. Tôi đặc biệt chú ý đến cách tập ăn theo lối thiền tả trong sách và thấy kết quả tốt. Tôi ăn thật chậm, và như thế phải ăn ít lại. Dầu đã biết rồi, tôi vẫn còn tham chọn ăn món tôi thích hay lạ nhứt và vẫn cân nhắc chừa bụng để ăn trái cây, tàu hũ và bánh ngọt, trong lúc miễ­n cưỡng ghi nhận 'muốn, muốn'. Cơm tôi ăn không hết được trút vô thùng lớn mà các thí chủ xách đi quanh bàn; cơm thừa sẽ đem cho súc vật ăn.

Trong vòng mười lăm phút trở về phòng tôi lật đật đánh răng để còn ra hành lang ngồi dọc theo vách thiền tập thể. Tôi biết tôi đã ăn nhiều nên cảm thấy nặng nề và không còn nhanh nhẹn; tôi sẽ phải chống lại sự buòn ngủ như đám mây đen đang xâm chiếm tâm tôi. Chỉ ít phút sau đầu tôi theo trọng lực gục xuống; trước khi tôi giựt mình, cằm tôi đã chấm ngực và tôi đã ngủ gục rồi--buồn cho hình ảnh của một thiền giả du già. Tôi phải mất vài phút để nhận diện sự hôn trầm và tập trung ý chí gượng dậy để rồi lại gục xuống liền theo đó. Tôi cứ gượng lên gục xuống trong suốt thời gian ngồi thiền và buổi tọa thiền ấy chẳng đem lại cho tôi lợi lạc nào cả. Đấy mới biết tại sao hôn trầm được liệt kê là một trở ngại lớn của thiền quán.

Tò mò nhìn quanh xem các bạn thế nào, tôi hơi yên tâm khi thấy hầu hết gục gặc như con do do--cả Thầy Sivali ngồi đằng đầu hành lang. Tôi không hiểu tại sao phải thiền ngay sau bữa ăn và chợt mừng khi nghe đồng hồ gõ một tiếng báo giờ thiền đã vãn. Tôi chú ý làm từng động tác một, lúc đứng lên và bước đi, động tác giúp tôi xả bỏ sự mệt mỏi thể xác lẫn tinh thần.

Chiều giữa 3:00 và 5:00 giờ, như thường lệ, Thầy Sivali lên ghế trong hành lang chính để bắt đầu buổi tham vấn hằng ngày. Đợi các bạn xong rồi tôi mới lên. Tôi l­ễ Thầy bằng các lạy thông thường trước khi ngồi vào bồ đoàn trước mặt Thầy. Thầy hỏi tôi chớ đã học được kinh nghiệm gì chưa. Tôi thưa rằng tôi đang trong vòng thích nghi, tâm còn lăng xăng quá, và buồn ngủ sau bữa ăn. Thầy cười và giải thích tại sao tâm viên cũng như tâm uể oải là hai trong năm trở ngại thông thường của người mới học. Thầy cho biết sự tập trung vào hơi thở sẽ giúp làm lặng tâm lăng xăng, còn muốn chống lại sự buồn ngủ sau bữa ăn thì phải gắng ngồi lâu. Sự cố gắng và quyết tâm giúp vượt qua những khó khăn này để đến trạng thái nhẹ nhàng và sáng sủa hơn. Thầy nói ăn quá no là nguyên nhân chánh của hôn trầm và Thầy để tôi tự giải quyết chuyện ấy.

Thầy giảng chi tiết của cách làm chậm lại và cách ghi nhận tất cả những gì xảy ra cho thân và tâm, hiểu theo lý vô thường và duyên khởi như tôi đã đọc qua. Thầy lặp lại rằng tôi phải trưởng dưỡng tâm tỉnh thức từ lúc mở mắt tới lúc đi ngủ, trong hành động đi, đứng, nằm, và ngồi. Đi cầu, rửa tay, đánh răng, và cả tắm giếng, Thầy nói, cũng là những dịp tốt để hướng về nội tâm. Thầy khuyên tôi nên tự nhiên trong lúc thực hành, bắt đầu chầm chậm rồi để việc gì tới sẽ từ từ tới, không nên quan tâm đến kết quả. Bấy giờ có một số hiểu biết lý thuyết rồi, tôi chỉ cần thời gian thực tập và cố chuyên cần. Không còn gì để hỏi, tôi bái tạ Thầy và đi xuống trong tỉnh thức.

GIA TĂNG NỘI QUÁN

Trong tuần lễ kế tiếp tôi đã quen với thông lệ và thấy sự tập trung/tỉnh thức của mình tăng dần. Tôi bắt đầu hiểu sâu thế nào là vô thường. Khi lưu ý tới sự phồng xẹp của bụng, tôi nhận biết mỗi phồng xẹp bao gồm nhiều động tác riêng biệt, như động tác bắt đầu, động tác ngưng và thời gian giữa hai động tác đó. Quán xét như vậy, tôi chia cái tổng thể xem chừng như bất khả phân thành nhiều phần nhỏ riêng biệt. Sự tỉnh thức cao giúp tôi nhận biết nhiều cảm giác khác nữa khi chúng đến và đi; có khi chúng đến và đi rất bất ngờ. Vào thời điểm bận rộn, tôi không kịp ghi nhận hết bởi chúng vụt qua quá nhanh. Tôi bực bội đôi khi. Rồi tôi chú ý làm chậm lại bằng cách trở về với 'phồng xẹp' của bụng và để cho các tác nhân kích thích tiếp tục dồn đống theo đà của chúng.

Với tất cả chuyện xảy ra đó, tôi nhận biết thế nào là bản tánh của tâm khởi, cái tâm nhận vô, xác định và phản ứng với một số tác nhân kích thích quen thuộc và lờ bỏ cho số tác nhân kích thích còn lại trôi qua. Khi tâm chọn một cảm quan nào đó, tác nhân kích thích đó trở thành trọng tâm chú ý và đảm nhiệm vai trò chủ đề. Quán chiếu như vậy và sâu thêm, tôi biết ra rằng tất cả trong thế giới vật lý chung quy chỉ là cảm giác hay vi ba năng lượng--màu sắc, âm thanh, mùi vị, và xúc giác--mà tâm khởi tưởng tượng dựng lên để nhận thế giới đó là thật. Theo cùng một tiến trình tâm linh như vậy, các niệm thích/không thích, khoái lạc/đau khổ, tốt/xấu đều có bản chất tương tợ. Do nơi được giáo dục từ tấm bé, chúng ta có thói quen dính mắc và phản ứng với một số cá thể đặc biệt, tức nhóm người và vật mà tâm ta quen mặt. Cuộc sống của chúng ta thiệt sự chỉ xoay quanh những cảm thọ tâm linh được xác định trước đó; tâm thức của chúng ta tìm cách nhận và giữ những gì ưa thích hay tốt lành và gạt bỏ những gì không hạp, khó ưa, hay xấu xa. Lúc quán chiếu tổng thể tiến trình ấy, tôi nhận biết rằng quan niệm chẳng qua là do ảo giác tạo tác chớ vật thể tự nó không có thật. Từ đó, tôi hiểu lời nói của Du Già và Phật Giáo rằng: "Thế giới là ảo ảnh do tâm tạo." Tôi cũng hiểu thêm thế nào là Không.

Những quán xét nội tâm ấy còn giải lộ đặc tánh vô ngã (anatta) của tiến trình. Tôi không quyết định được chuyện gì xảy ra cả; cảm giác cũng như hoạt động tâm linh tự đến rồi tự đi, để lại dấu vết tương ứng--không được tôi đồng ý mà còn nghịch ý tôi nữa. Tôi chỉ muốn theo dõi hơi thở mình một cách tĩnh lặng, nhưng tôi kinh ngạc thấy máy chiếu phim trong tâm tôi cứ chiếu hết tuồng này tới tuồng khác. Vài tấn tuồng xảy ra hằng ngày giúp chứng nghiệm sinh hoạt tâm linh và chứng thực tánh vô ngã. Một trong những tuồng đó không hay lắm nhưng cứ lập đi lập lại hoài là tuồng chú tiểu đem canda tới hồi sáng. Chỉ bằng vào tiếng động, tâm biết lúc nào chú đến, mở cửa, rót canda, rồi ra đi. Lắm lúc câu chuyện như là một chuỗi ý tưởng, lúc khác như cuốn phim màu sặc sỡ. Thường nó gây sự chờ đợi, mong muốn, nôn nóng, và phân vân. Tôi tự hỏi nên để canda đó, lờ sự thèm khát, hay ngắt thiền để uống trước khi nó trở lạnh.

Đồng hồ gõ cũng tạo nên hoạt động lập trình. Tôi hầu như luôn nghĩ tới lúc đó là mấy giờ và cùng đếm tiếng chuông hay thử tiên đoán. Nếu là 3:00 giờ sáng, tôi tự thuyết phục mình nằm chợp mắt thêm, hoặc vừa nằm vừa tập theo dõi hơi thở, và định bụng sẽ dậy đúng lúc 3:30. Nhưng tôi thường ngủ quên tới 4:00 giờ để rồi tự giận mình và tự nguyện sẽ không làm như vậy nữa. Lúc chuông đổ 5:00 giờ, tôi nghĩ tới canda và 5:30 lại nghĩ có nên đi ăn sáng không hay chỉ ăn cháo là đủ rồi. Nhiều lần tôi bỏ ăn sáng để tiếp tục ngồi thiền, nhưng tôi lại lý luận rằng mình đang ốm tong nên cần ăn để thêm ký lô--má tôi chắc thích tôi làm như vậy. Có lúc tôi muốn nhịn ăn ngọ hay nhịn ăn nguyên ngày để làm một chàng du già lý tưởng dưới mắt của các bạn đồng khóa. Nhưng vô ích, tôi luôn luôn đi ăn quá đường. Và, thay vì tập bỏ dính mắc, tôi vẫn tiếp tục chọn thứ rau đậu tôi thích nhứt (sống, luộc sơ sơ, và ít cay), tránh thịt và chừa bụng cho trái cây và đậu hũ tráng miệng. Tôi bào chữa mình bằng cách tự nói rằng tôi phải chọn thức ăn vì tôi ăn theo cách du già và muốn giảm sự hôn trầm trong lúc thiền sau bữa ăn. Tôi còn muốn, dầu chỉ là chút muốn khiêm nhường, làm mình hơn thiên hạ, kể cả Thầy, khi cố ngồi ngay ngắn với tâm tỉnh thức--kết quả rất như ý!

Một dịp tốt khác để quan sát phản ứng duyên khởi là lúc tôi bị ruồi muỗi vo ve bên tai hay đáp xuống quấy rầy; chúng ở quanh đây rất nhiều. Chỉ mới nghe tiếng chúng tới là còi báo động trong tôi ré lên rồi; và tấn tuồng được di­ễn ra như sau: "Con gì đó, mong rằng nó không đáp xuống tôi." Nếu là ruồi tôi sợ lây vi trùng. Nếu là muỗi, tôi sợ bị chích đau và bị lây sốt rét. Nếu nó đáp xuống, tôi tự hỏi nên đuổi hay cắn răng chịu cho nó cắn đến lúc nào nó chán thì thôi. Tôi thọ giới thứ nhứt nên cố tránh đập chúng chết, nhưng không phải lúc nào tôi cũng kiểm soát được mình. Nhứt là khi ruồi sà xuống môi hay khóe mắt tôi, hoặc nhiều muỗi đua nhau hút máu tôi cùng một lúc, tôi có thể đuổi nhẹ chúng đi. Tất cả những niệm ấy dấy lên chỉ vì thính giác hay xúc giác của tôi bị xúc tác!

Tôi cố quan sát các chuyện ấy với tâm càng ít chấp trước càng tốt và dùng phép ghi biết khi thuận tiện; kết quả rất khả quan. Đôi lúc tôi không khỏi cười thầm cái vô lý, sợ hãi và phản ứng của mình. Lúc khác tôi chán ghét sự ti tiện và đần độn của tôi trong nhiều dằn co nội tâm. Tỉnh thức thâm sâu ấy làm phơi bày nhiều khía cạnh của tâm lý mà tôi chưa hề ý thức và nghĩ cần phải giải quyết. Lâu nay tôi chỉ xem chúng là tự nhiên và không có suy tư nào cả. Nhưng bây giờ tôi bắt đầu biết rằng các tập quán đó do yếu tố tâm linh thiếu lành mạnh tạo nên và nuôi dưỡng để rồi con người bị giầy vò bởi những bâng khuâng, lo lắng, sợ hãi, vân vân.

Với tôi, kẻ quậy phá nhứt là "cái-tôi-thân-yêu" rất ương ngạnh luôn luôn hiện diện với nhiều ma thuật tinh vi. Nhận diện được nó, tôi lần hồi hiểu rõ hơn thế nào là Khổ Đế và Tập Đế. Mọi chứng nghiệm của chúng ta trong thế giới vật chất và tinh thần đều liên tục đổi thay và vượt ngoài vòng kiểm soát của chúng ta; nắm bắt chúng với ham muốn ích kỷ và thiếu hiểu biết, chúng ta chỉ chuốt lấy phiền não. Khi nắm bắt được, cái được đã thay đổi rồi hay có khi không còn nữa. Và, cái tâm không kiên định đã hết ham thích cái bắt được rồi và muốn có cái gì khác để thay thế. Túi tham không bao giờ có đáy! Tập quán ung đúc bởi tham, sân, si tác tạo biết bao hành động hạ tiện và ác độc khiến đau khổ chồng chất. Đó là Khổ (Dukkha) mà Đức Phật đã nói tới trong Tứ Diệu Đế. Khám phá và quán xét Khổ là việc làm sáng suốt cũng như hấp dẫn, nhưng nhận Khổ thuộc nội tâm thật rất khó và đáng sợ.

Bây giờ tôi thấy được một cách sâu thẳm hơn những gì tôi phải đương đầu với. Tôi không biết tri kiến của con nguời có giới hạn nào không. Tôi cũng nhận biết giữa hai phương pháp minh sát thông thường có sự khác biệt. So với những gì tôi đang theo học tại đây, thiền quét của Thầy Goenka được xem như là một chương mở đầu vào đại trí tuệ của nhà Phật. Trong lúc thiền quét đặt trọng tâm nơi vô thường, điều tôi đang thực tập (với sáu căn tỉnh thức trong bốn thế đi, đứng, nằm, và ngồi) đi thẳng vào và phát hiện tất cả ba đặc tánh vô thường, duyên khởi và vô ngã, nhứt là hai tánh sau. Đức tin và niềm tin của tôi vào Phật pháp ngày càng lớn mạnh. Hứng khởi, tôi quyết lập lại các chú nguyện Tây Tạng mà tôi xao lãng từ lúc rời Goa, với cảm và ứng mới.

Nơi cuối hành lang là một điện thờ nhỏ, trong ấy có tượng Đức Thích Ca, nhang, đèn dầu, đèn cầy, và diêm quẹt để ai muốn tới lễ­ tùy ý. Lúc đi thiền ngang qua, tôi thoang thoáng thấy có người phương Tây đang thiền hay làm lễ­ puja gì đó. Với tín tâm mới phục hồi, tôi về điện mỗi đêm: tôi khêu sáng đèn lu, thay mới nhang tàn, và đảnh l­ễ Phật. Khi mồi đèn, tôi cầu nguyện 'Mọi chúng sanh nhóm lên đốm lửa trí tuệ trong tâm mình để xua bóng tối vô minh, như tôi đang thắp ngọn đèn này.' Lúc đốt nhang, tôi nguyện 'Như khói hương đẩy lùi ô uế trong phòng này, mọi chúng sanh và tôi xa lìa tam độc và trưởng dưỡng đức hạnh của Thế Tôn.' Rồi tôi lạy Phật; số lạy thay đổi tùy theo tâm tư tôi lúc bấy giờ, hay số niệm tiêu cực của tôi trong ngày, hay thấy ngã chấp mình còn quá nặng. Tôi lễ­ bái với tâm nguyện xả bỏ bản ngã và chấp trước, mong tới gần bờ giác, và cũng xin hồi hướng công đức mình. Tôi chấp tay quỳ nguyện quy y Tam Bảo và hành Ngũ Giới. Kế, tôi ngồi kiết già và xướng toàn bộ lời nguyện Tây Tạng mà tôi còn nhớ trong lúc chiêm nghiệm sự tái sanh. Không khí làm tôi hồi tưởng Kopan-- sự hồi tưởng sống động và đầy cảm xúc đến đỗi tôi phải bật khóc đôi khi. Tôi kết thúc lễ­ bằng sự rải tâm Từ đến ba má tôi, các vị sư Goenkaji, Swami Gitananda và Lạt Ma Zopa, và tôi hồi hướng công đức tới mọi chúng sanh. Trước khi rời điện Phật, tôi cúi đầu xá rồi ra đi thiền chầm chậm.

Mỗi đêm, sau lối một giờ phát tâm tỉnh giác trong điện Phật, tôi cảm thấy mình ngập tràn suối nguồn sinh lực an bình và cảm thọ linh hoạt. Tôi có thể tiếp tục kinh hành và tọa thiền d­ễ dàng trong sự tỉnh thức cao độ. Tôi về lại cốc khoảng giữa 10:00 và 11:00 giờ đêm. Tôi nằm nghiêng bên mặt theo 'thế nghỉ sư tử' của Phật, chú tâm tỉnh giác cho tới lúc chợp mắt. Kiểng đổ 3:00 giờ sáng, tôi 'nghe, nghe', 'mở, mở' mắt và thức dậy ngay. Bằng những động tác riêng biệt rõ ràng, tôi ngồi dậy, vương vai, rồi đứng lên. Làm vậy, tôi xua đưổi sự buồn ngủ đang níu kéo tôi và tôi có thể giữ tâm tỉnh thức trong suốt buổi sáng.

Tôi sử dụng các thời tọa thiền để tập gia tăng thời lượng ngồi kiết già. Mục tiêu của tôi là phải ngồi cho được tư thế hoa sen trong suốt một tiếng đồng hồ sau ba tuần l­ễ tới. Mỗi thời tôi rán chịu tê ngồi thêm một hai phút. Điểm đau nhứt là chỗ hai xương ống chân tréo đè lên nhau; tôi bị nhức rang sau khi ngồi chừng ba mươi phút. Một điểm đau nữa là chỗ mặt chân trái đè lên vế mặt. Bị đau là một dịp để tôi tìm cách đối trị. Tôi thấy nếu tách rời được cái niệm đau khỏi tâm, tôi có thể vượt mọi đau đớn, kể cả sự tấn công của đám muỗi. Tôi liền 'thắt dây an toàn', cắn răng, và ráng chịu đau thêm một chút. Sau hai tuần tôi đạt được mục tiêu đề ra là ngồi liền một tiếng. Ít ngày sau đó tôi ngồi thoải mái trong suốt ba suất thiền tập thể, và tôi dùng các suất này để 'quyết tâm' kéo dài thời gian ngồi kiết già. Một chứng cớ cho thấy những gì trong tầm tay, tôi đều có thể nắm bắt nếu tôi trì chí. Hãnh diện, tôi nói với tâm vỗ nhẹ lên vai tự khen mình.

Tiếp tục đọc quyển Thiền Minh Sát Thực Hành, tôi bị thu hút bởi tiến trình từng bước làm thế nào để tới bờ giác ngộ[12]. Tiến trình mô tả gồm chín bước nội quán nối tiếp tuần tự, và bước thứ chín dẫn đến Niết Bàn. Chín bước ấy tương ứng với chín thiền tuệ[13] thấy và biết rõ (1) danh pháp và sắc pháp sinh diệt liên tục, (2) chúng tan hoại dễ dàng, (3) sự tan hoại của chúng thật đáng kinh sợ (Bố Úy Trí-Bhayanàna)), (4) chúng đầy tội chứng và là mối hiểm nguy (Quán Hoạn Trí-Ádinavanàna), (5) chúng đáng nhàm chán (Yếm Ly Trí-Nibbidànàna), (6) muốn giải thoát khỏi chúng (Dục Thoát Trí-Muncitukamyatànàna), cần minh sát trở lại, (8) có tâm xả hoàn toàn với chúng (Hành Xả Trí-Sankhàrupekkhànàna), (9) sự chứng ngộ Niết Bàn. (xem ghi chú IV). Trên lý thuyết, đường đi có vẻ trực tiếp và rõ ràng như một công thức hay một lộ trình tới bờ giác được vẽ sẵn trên họa đồ. Đã rành rành như vậy, thế mà tôi chưa thấy biết trong số sách Phật tôi đã đọc. Tôi bèn đọc đi đọc lại và nôn nóng muốn tập thiền quán ngay theo pháp chỉ dẫn. Dẫu chưa biết nhưng đã sẵn có chút kinh nghiệm trong một số bước, tôi nghĩ chắc không mấy khó thực hiện.

Trong suất ngồi thiền theo sau đó, tôi vừa chú tâm vào động tác phồng xẹp của bụng vừa từ từ nới rộng tâm tỉnh thức sang các cảm giác khác, đặc biệt để ý đến cái lúc mà cảm quan tác động. Tôi tò mò tìm xem có thể thật sự phát hiện khoảnh khắc mà một cảm thức xuất lộ như một hiện tượng riêng biệt rồi biến mất hoàn toàn, nhường cho cảm thức khác đến (như sách đã nói). Mỗi cảm thức có một khoảnh khắc riêng của mình, nhưng chuỗi cảm thức đến với tôi như một đoạn phim trong ấy các hình riêng biệt được chiếu liên tục. Sách có nói diễ­n tiến xảy ra cực kỳ nhanh, nhưng với tỉnh giác cao ta có thể nhận ra từng cảm thức đó lúc đến cũng như lúc đi. Bấy giờ tôi chưa nhận thức được như vậy một cách rõ ràng, nhưng tôi có cảm tưởng mình kinh nghiệm được một dòng với nhiều cảm thọ nối đuôi nhau hiện biến. Lúc không còn kiểm soát được nữa, tôi đổi qua bước thứ nhì và chú ý quán xét sự tan hoại của các pháp thế gian. Những tan biến tức khắc nối đuôi nhau từng loạt như những tràng đạn lửa mất hút trong đêm tối mà tôi nhớ đã thấy lúc tập bắn súng liên thanh M-60 hồi mới nhập ngũ. Cũng vậy, tôi đang chứng nghiệm một dòng cảm nhận nối đuôi tan biến trong tâm tôi. Tôi không thể phân biệt được đó là cảm thọ gì, xúc giác hay thính giác; chúng bay vù qua và mất hút nhanh đến đỗi tôi không đủ thì giờ phân biệt. Nhiều tư tưởng ngẫu nhiên (không mời mà tới) cũng có đến nhưng cũng biến nhanh.

Tuy chứng kiến thụ động nhưng tôi có cơ hội hiểu rằng các pháp ấy vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Rồi tôi chiêm nghiệm thấy trọn tiến trình (sinh diệt) không gì hơn là đau khổ, một mối nguy tiềm tàng đáng sợ (nếu ta bị dính mắc hay bám víu vào) như sách đã dẫn. Biết vậy rồi tôi sang bước nhàm chán. Tôi có thể nhận thấy tâm không còn ưa hay ghét sắc pháp hay danh pháp nào cả và cảm thấy chút thanh thản, nhẹ nhàng và hoan lạc vi tế. Một lần nữa, như sách đã đề cập, tôi chiêm nghiệm Niết Bàn như trạng thái an bình thật sự và hạnh phúc toàn vẹn trong ấy tâm không còn ao ước hay vương vấn bất kỳ sự việc gì trên thế gian này. Tôi cảm thấy vui hơn nữa. Ý tưởng Niết Bàn đối với tôi rất hấp dẫn, dầu chỉ mới nghĩ đến, nhứt là trong tâm trạng nhàm chán. Tới đây, tôi đi được năm bước trên chín bước thiền tuệ, tức khá xa và tôi rất thỏa mãn. Ngoài ra, tôi đã ngồi thiền hơn một giờ rồi. Chưa thật sự mệt mỏi nhưng tôi muốn xả thiền một đỗi. Chén trà xế chú tiểu đem đến đã nguội.

Xế chiều, lúc vào tham vấn với Thầy Sivali, tôi cảm thấy không thể không hỏi Thầy về thiền tuệ. Dầu tôi không nêu đích danh nhưng Thầy có vẻ biết tôi muốn nói gì. Sở dĩ tôi không đề cập thẳng vì sợ Thầy sẽ hỏi tôi học ở đâu mà biết, trong lúc tôi muốn dấu chuyện đọc sách lén. Thầy hỏi tôi đã trải qua kinh nghiệm nào rồi. Tôi thưa có thấy thân mình như một tập hợp vật thể thay đổi liên tục liên tục và tâm mình như một dòng mảnh vụn cảm thọ, nhận thức, ký ức, cảm xúc, tư duy quen thuộc của bản ngã, vân vân. Tôi cũng có nói tôi nghĩ rằng bản ngã là nguyên nhân và cũng là chủ nhân của tất cả các tham ái, ghét bỏ, bâng khuâng, sợ hãi, vân vân. Đại để, tôi nói những gì mà tôi nghĩ Thầy muốn nghe hay làm Thầy nghĩ tôi đang đi đúng đường , dầu các chứng nghiệm toi đạt được đều thật. Nghe xong, Thầy điềm tĩnh gật đầu và khuyên tôi tiếp tục thực tập như vậy nhưng đừng kỳ vọng kết quả bởi mong cầu là một chướng ngại.

Trong nhiều thời thiền tiếp theo, tôi có thể quán xét năm bước đầu một cách nhanh chóng và tiếp tục qua bước giải thoát. Theo sách, tôi minh sát mọi pháp của thế gian khởi sanh[14] như một khối đau khổ đang bừng cháy, đáng sợ như một đống than hồng, và tôi mong được xả bỏ tất cả. Chiêm nghiệm như vậy giúp tôi xa lánh và cách ly tâm thiền quán của mình khỏi các cảm thọ ùa đến hằng loạt từ bên trong lẫn bên ngoài[15]. Tôi mặc nhiên không còn muốn dính dáng với chúng nữa và tâm tôi quay lưng tránh xa chúng. Ý thức về 'cái tôi' mờ lần sau hậu trường, làm suy giảm mối liên hệ giữa vật và chủ đối với tiến trình của thân và tâm. Bản ngã trở nên rất mong manh trong khi sự tỉnh thức còn đó rất rõ ràng. Tâm không còn bị lôi kéo hay uốn nắn bởi chủ thể kích thích nào hết. Tôi nghĩ đó là trạng thái bình thản hay gần bình thản. Trạng thái ấy, rất tiếc, không kéo dài lâu vì tâm tôi chưa đủ mạnh lúc bấy giờ. Tôi cần thiền nhiều thời nữa mới có thể làm quen với trạng thái tâm linh tinh vi và tế nhị đó. Trong trạng thái bình thản, bản ngã bắt đầu thoái hóa dần. Lúc nầy, thế giới quen thuộc của chủ/vật bị đảo lộn và rã rời như kẹo bơ (taffy) hiểu theo nghĩa bóng. 'Cái tôi' bị khủng hoảng bởi đất dụng võ của nó sụp đổ và giềng mối buộc giữ nó với cái thế giới duy nhứt mà nó biết bị cắt đứt. Nó rất lo. Nó sợ cái xa lạ nên lùi về cái quen thuộc. Đó là những gì tôi chứng nghiệm và hiểu được. Chứng nghiệm của tôi đạt được tới mức mà tôi có thể bước vô giai đoạn của tâm xả hoàn toàn đối với các pháp thế gian (tức bước thứ tám, Hành Xả) trong vòng 10 tới 15 phút. Tôi cũng có thể giữ tuệ hành xả này dễ­ dàng trong suốt buổi thiền 1-tiếng đồng hồ hay lâu hơn.

Theo sách, bước tới là chứng ngộ Niết Bàn. Tôi đoán biết Niết Bàn sẽ đạt được khi mối dây buộc 'cái-tôi-thân-yêu' với thế giới an toàn bị cắt đứt, khi có bước nhảy vọt lượng tử qua cái không biết, tức cõi Siêu Tam Thế[16]. Trong cõi nầy bậc chứng ngộ đầu tiên là Thánh Nhập Lưu (Sotapanna) có nghĩa là bậc đã thoát tục, vừa nhập vô dòng Tứ Thánh[17], và không quay lui mà tiến tới theo dòng đến mục tiêu tối hậu là Niết Bàn trong thời gian ngắn.

Dẫu đã được Thầy Sivali khuyến cáo chớ nên kỳ vọng, tôi vẫn có chút mong cầu được chứng quả, trong lúc bản ngã tôi lại có chút e dè. Mỗi khi tiến gần đến mức nhảy vọt, hình như sự do dự hay sợ hãi tiềm tàng ra tay ngăn cái bước nhảy vọt ấy lại. Có lúc tôi nghĩ 'cái tôi' như được cân bằng ở điểm nhảy vọt ấy, nhưng tôi không thể để nó mất. Phải chăng tôi cố gắng quá hoặc có nhiều kỳ vọng quá. Dầu sao đi nữa, tôi vẫn nghĩ rằng đó là phương pháp phát triển tốt nhứt mà tôi cần trì hành để hóa giải mọi nghi ngờ, sợ sệt và chấp trước vi tế tiềm tàng đang lôi kéo 'cái tôi' lại. Và tôi chấp nhận tôi cần thời gian. Tôi chiêm nghiệm luân hồi trong ấy con người từ vô thỉ vô chung phải qua sáu đường và đã tích tụ biết bao tạp nhiễm. Mong rửa sạch trong thời gian ngắn (sáu tháng) quả là một ảo tưởng. Đối với tôi bây giờ không có chọn lựa nào mà cũng không có gì cấp thiết nên nếu có phải chờ cả đời tôi để hoàn thành lộ trình đó, tôi vẫn cứ chờ.

Chiêm nghiệm lại sự tái sanh làm người của mình, tôi nghĩ rằng mình là một cá nhân mà nghiệp đạo đã chín muồi--hình như tôi chỉ có đường vô chớ không còn lối ra. Trong suốt thời kỳ tu học năng nổ qua, tâm tôi không sao tránh khỏi bị một ít tư lự lấn chiếm. Thỉnh thoảng tôi có nghĩ tới vài người bạn và tới chuyện về thăm nhà hay đi du lịch thêm. Tuy nhiên, đó chỉ là những tưởng nhớ vụn vặt sót lại trong ký ức hay tập quán mà thôi; chúng tan biến nhanh trước khi tôi lưu ý tới.

Đi thiền (thiền hành) và hoạt động chẫm rãi giúp tôi đạt kinh nghiệm nội tâm dưới một hình thức khác. Cử động với dụng ý thật chậm đòi hỏi sự chú ý mẫn cán và dĩ nhiên sự tỉnh thức cao độ. Mỗi lần dở chân lên, đưa chân tới trước và đạp chân xuống hay mỗi lần quay đầu, duỗi tay, vân vân, tôi có thể phân biệt lúc bắt đầu, lúc kết thúc và khoảng thời gian giữa hai lúc một cách rõ ràng. Tôi có để ý và nhận thấy cử động xảy ra cùng lúc với tâm thứcvận hành. Ít ra là có một lần, tôi chứng nghiệm tâm thức vận hành 'như nhảy theo' cử động. Nó lóe lên rồi mất ngay trong khoảng trống không của tâm. Đó cho thấy tỉnh thức vận hành như chiếu phim hát bóng, khúc phim là một dây liên tục gồm nhiều ảnh (tâm sở) riêng biệt mà mỗi ảnh riêng không có vai trò quan trọng nào hết.

Minh sát thâm sâu như vậy cho thấy bản chất rắn đặc của vật thể trong thế giới vật lý chỉ là ảo ảnh; thật sự chúng chỉ là cái rỗng không. Tôi thích thú nhớ lại và so sánh sự vận hành của thân/tâm với hoạt động của máy vi tính mà tôi có chút kinh nghiệm. Thân (phần cứng) chỉ có thể hoạt động nếu có hệ thống thần kinh chuyển vi ba (dữ liệu) từ giác quan (thiết bị nhập liệu) đến não (bộ nhớ); tại đây, dữ liệu được lập trình và xử lý (phần mềm); rồi thân được chỉ thị đi, ngồi, ăn, nói, vân vân (thiết bị xuất).

Sau chừng mươi ngày, sự cử động chậm vào sâu trong tiềm thức tôi; nó trở thành tự nhiên, liên tục và không cần cố gắng. Ngày ngày, bắt đầu từ lúc mở mắt đến lúc nhắm mắt, tôi luôn luôn tỉnh giác trong mỗi hành động và không cần vận dụng trí năng nữa. Một trong những sinh hoạt ưa thích hằng ngày của tôi là tắm giếng mà mỗi cử động sau đây đều được thực hành một cách khoan thai, chẫm rãi: nhìn thấy gàu, vói lấy, thả xuống giếng sâu, kéo nước lên, giơ cao khỏi đầu, xối, nghe ướt mát lạnh--lập lại tiến trình này nhiều lần cho đến khi toàn thân sũng ướt. Kế tiếp, theo cách tỉnh giác vừa nói, tôi thoa xà bông khắp châu thân, dội thêm nhiều gàu nước nữa cho trôi hết bọt, lấy khăn, lau khô, vận chiếc xà rong mới và giặt xà rong cũ nều cần. Như cái xác không hồn nhưng rất tỉnh thức, tôi nhận thấy mọi vật rõ ràng, trong sáng và sống động--gàu, nước, tường che với vết nứt có cây đơm rễ, xà bông trên người tôi, và lớp da của tôi. Rồi trong những sinh hoạt khác như đại tiểu tiện, đánh răng, dọn dẹp phòng, vân vân, tôi cũng làm bằng cách chẫm rãi tỉnh thức đó.

Tôi say mê theo dõi tiến trình. Tôi có cảm tưởng như mình đang xem ai đó trong phim chiếu bóng; nhiều lúc tôi như trong mơ dầu tỉnh thức. Cảm thọ mới này không khác gì mấy cảm thọ mà tôi trải nghiệm khi hút ma túy. Thực tập theo kiểu này là một phương cách hữu hiệu để đưa thiền vào mọi hoạt động lớn nhỏ hằng ngày. Nói cách khác, hành thiền không phải chỉ là trong lúc ngồi tĩnh lặng mà là trong mọi công việc chúng ta làm hằng ngày.

Tuy không được phép nhưng mỗi sáng tôi đều tập vài thế yoga. Tôi thuờng bắt đầu bằng năm mười phút thở sâu ba từng để đem oxy vô máu, rồi tiếp theo là thế gập nguời về phía trước và ngửa người ra phía sau để làm giãn sống lưng, một ít thế giãn thân, và một hai thế đứng một chân để tạo thăng bằng và chú ý. Tôi tập theo lối tỉnh thức nói trên nên không làm gián đoạn sự hành thiền minh sát. Tôi nghĩ chắc không có gì tai hại. Trái lại, tôi nhận thấy lề thói ấy rất có ích cho sự tuần hoàn và làm tăng năng lượng. Tôi còn lập lại hoặc tập vài thế mới vào buổi chiều trước giờ thiền tập thể. Dĩ nhiên tôi tập lén trong phòng lúc mà chú tiểu không có mặt.

Thỉnh thoảng, tôi không thể bỏ lỡ dịp tốt nên có thì thầm chuyện trò với Chris cũng như hai nhà sư phương Tây. Tôi muốn biết Chris nghĩ thế nào về khóa tu thiền đầu tiên của anh và anh đã chứng nghiệm được gì rồi. Anh nói anh đang cần cù theo học phần căn bản, cố dìm cái 'tâm viên' của anh, và thường thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, anh thích khung cảnh tĩnh mịch, không khí vắng lặng, sự cô độc, cơm ngon, và các khám phá mới về anh. Với hai nhà sư, một nguời Anh và một người Gia Nã Đại, tôi được biết sự thọ giới ở Sri Lanka không khó lắm. Chánh quyền và dân chúng rất cảm thông tình trạng của khách ngoại quốc nên sẵn sàng hỗ trợ cho ai muốn thành tăng. Người muốn học Phật hay vừa học Phật học thiền lâu dài đều được cấp giấy tạm trú một năm. Tin này làm tôi phấn khởi và tôi ước ao được thọ giới để trở thành tăng sĩ sống đời khổ hạnh.

Khóa tu sẽ mãn trong ít ngày nữa, tôi bắt đầu nghĩ đến chương trình sắp tới. Tôi hơi ngứa chân và sẵn sàng thay đổi không khí. Tôi cảm thấy đã có chút kinh nghiệm và thỏa mãn với sự tu tập. Tôi nghĩ sẽ tiếp tục lối tu tập này và sẽ tự tập thêm yoga, có lẽ ở một bãi biển vắng nên thơ nào đó của Tích Lan. Một chương trình khác là xuống Kataragama dưới miệt Đông Nam của đảo Sri Lanka nơi nghe nói có ashram yoga của Đạo Sư Hindu Swami. Ashram nằm trên bờ con sông cái và Đạo Sư Swami có một số phòng và cốc cho người phương Tây.

Tuy nhiên, trước mắt Chris và tôi phải trở lại Colombo ở với Sam trong dịp lễ Vesak. Tôi muốn thấy tận mắt dân Sinhalese cử hành lễ Phật quan trọng nhứt này. Sam có kể rằng sẽ có pandal khổng lồ với màu sắc rực rỡ dựng trên nhiều đường phố và đèn Vesak treo trước mọi nhà mà Sam muốn chúng tôi xem cho biết. Sam mong chúng tôi sẽ về lại thủ đô ở với anh ít ngày để anh có dịp hướng dẫn chúng tôi đi xem lễ­ hội.

Hôm chia tay, tôi thu xếp đồ đạc, vào điện lễ Phật lần chót, đứng nhìn cảnh vật chung quanh, rồi mạnh dạn lên đường. Chris cùng đi với tôi đến liêu của Thầy Sivali để cám ơn về những chỉ dẫn minh triết và bổ ích cũng như thạnh tình và lòng kiên nhẫn mà Thầy đã dành cho. Tôi thưa rằng tôi đã học được nhiều phương pháp thâm sâu, thực tiễn và hữu ích mà bấy lâu nay tôi chưa từng biết có trong thiền Phật giáo. Với giọng ôn hòa và điềm đạm Thầy chúc hai chúng tôi mọi điều tốt đẹp trên đường học Phật. Chúng tôi bái Thầy, lui ra, và Thầy trở về thế giới tĩnh lặng riêng của Thầy. Theo thói quen, chúng tôi bước chậm và tỉnh thức, qua vòm ngọ môn, đi lối một phần tư dặm xuống bến xe buýt ở góc Delgoda--chúng tôi trở lại thế giới Ta Bà.



[7] Xem mục II, Phụ Bản I (nd)

[8] The Heart of Buddhist Meditation (tg).

[9] Practical Insight Meditation (tg).

[10] Từ đây, tôi không gọi thân mình hay sinh hoạt của mình là 'của tôi' nữa mà chỉ nói trổng là thân hay sinh hoạt để nhấn mạnh tánh duyên khởi, vô ngã, vô chủ, và tự nhiên của thân-tâm theo nhãn quan của vipassana (tg).

[11] Thành ngữ 'tâm viên' có nghĩa là tâm lăng xăng như con vượn đu từ cành nầy sang cành khác không ngừng nghỉ (nd).

[12] Xem thêm mục IV, Phụ Bản I (nd).

[13] Gọi là thiền tuệ hay trí tuệ thiền thấy và biết rõ các danh pháp và sắc pháp (nd).

[14] Tức là các danh pháp và sắc pháp của thế gian duyên khởi (nd).

[15] Nói về danh pháp và sắc pháp (nd).

[16] Tức trên ba cõi dục giời, sắc giới và vô sắc giới (nd).

[17] Nhập Lưu hay Tu Đà Hoàn (Sotapanna), Tư Đà Hàm hay Nhất Lai (Sakadàgàmin), A Na Hàm hay Bất Lai (Anàgàmin), và A La Hán (Arahat). Xem thêm mục VI, Phụ Bản I (nd).

---o0o---

Nguồn: BuddhaSasana

Trình bày: Vĩnh Thoại

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2021(Xem: 3292)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
30/11/2021(Xem: 24301)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
26/11/2021(Xem: 3264)
“‘Giống như một vị Bồ Tát’ là người mà tôi có thể mô tả về thuyền trưởng Jeon Je Young,” ông Nguyễn Hùng Cường, người tổ chức lễ tưởng niệm vị thuyền trưởng vừa qua đời, tại chùa Huệ Quang, Santa Ana, nói hôm Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Hai. Ông Cường là một trong 96 người được vị thuyền trưởng vớt trong hành trình vượt biển vào lúc 6 giờ 45 phút chiều ngày 14 Tháng Mười Một, 1985, trong lúc chiếc thuyền chở ông đang lênh đênh trên Biển Đông, bị nhiều tàu khác làm lơ trước đó. Ông Cường nói thêm: “Ông là ‘tộc trưởng’ của nhóm 96 người chúng tôi. Ông vừa ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng ông để lại biết bao yêu thương của không những 96 người, mà với cộng đồng Việt Nam.”
25/11/2021(Xem: 28758)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
23/11/2021(Xem: 14559)
314. Vua, Thiền Sư Trần Thái Tông Người thiết lập nền tảng cho Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Đây là Thời Pháp Thoại thứ 314 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 23/11/2021 (19/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
18/11/2021(Xem: 23854)
312. Thiền Sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đời Vua Lý Huệ Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 311 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 18/11/2021 (14/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
16/11/2021(Xem: 4401)
Sào Phủ Hứa Do là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由). Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của): Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Hứa Do trả lời: "Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua." Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm." Sào Phủ lại nói: "Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi." Huỳnh Tịnh Của phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."
16/11/2021(Xem: 4797)
Sức mạnh của thiên nhiên rốt cuộc đáng sợ như thế nào? Thông qua những hình ảnh dưới đây, chúng ta cùng cảm nhận. Ngày nay, dưới vòng hào quang của sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, rất nhiều người đã dần quên rằng, con người thực tế chỉ là một bộ phận của thiên thiên. Thế nên con người mới sinh ra tư tưởng làm chủ thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, ‘bắt thiên nhiên’ phục vụ con người, và lầm tưởng rằng, thiên nhiên cũng chẳng qua như thế mà thôi. Con người đã đánh mất cái tâm kính úy đối với thiên nhiên. Nhưng sự thực có thực như vậy không? Trước sức mạnh tuyệt đối của thiên nhiên, tất cả những gì mà chúng ta lấy làm tự hào đều bị hủy diệt trong khoảnh khắc. Khi núi lửa Kilauea phun trào ở Hawaii, dùng nham thạch nóng chảy giống như một dòng sông của địa ngục...
16/11/2021(Xem: 6345)
Hạnh phúc luôn là “KPI” của mỗi người và mỗi quốc gia. Mỗi người hạnh phúc sẽ góp phần xây nên một một quốc gia hạnh phúc. Vậy quốc gia nào hạnh phúc nhất thế giới? Hãy cùng mayvesinhmienbac.com.vn gọi tên top 10 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới trong năm 2021 nhé!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567