Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 9.Chuyến đi Bodhgaya

11/06/201316:44(Xem: 2558)
Chương 9.Chuyến đi Bodhgaya

TRÚ QUÁN QUA ĐÊM
(Từ có nhà đến không nhà)
Tự Truyện của một Tăng Sĩ Hoa Kỳ

[Bản điện tử lần thứ ba với tu chính]

Tỳ kheo Yogagivacara Rahula
(Bhavana Society, 2005 )
Chơn Quán dịch Việt

Chương 9

CHUYẾN ĐI BODHGAYA

Vậy mà tôi ở lại Kathmandu tới hai tuần. Tôi mướn một phòng trong nhà ngủ nhỏ và tiếp tục ngồi thiền mỗi ngày. Qua ngày thứ hai tôi cảm thấy cần vô quán cà phê của dân híp pi để hút hết chút thuốc mà tôi giữ bao lâu nay. Tôi thầm nói với chính mình không nên vì làm vậy sẽ không sao tránh khỏi bị lôi trở về thói quen cũ. Tuy nhiên, tôi lý luận, cũng nên vô quán nghe nhạc rock củ của một thời thử xem phản ứng tâm lý mình như thế nào. Và tôi cũng muốn biết mình có còn phê như lúc trước không hoặc có cảm giác mới nào khác hôn. Chút cần sa hash bắt đầu bốc cháy trong túi tôi, hay đúng ra là trong tâm tôi, vì tôi biết mình đã ra khỏi môi trường cấm đoán của khóa học rồi. Tôi chịu thua và chọn vô quán cà phê trên con đường nhỏ dưới đầu phố, nơi có nhạc quen thuộc nhưng không có dân Tây Mỹ. Tỉnh thức, tôi cảm thấy hơi tội lỗi và hy vọng không gặp bất cứ ai trong khóa học rồi. Tôi nhận thấy tâm tôi nhớ lại dễ­ dàng và tật cũ trở lại mau chóng khi tôi vấn điếu cần sa và bắt đầu mồi.

Thuốc hình như không còn mấy ma lực đối với tôi. Nó chỉ làm tâm tôi mờ và chán. Các điệu nhạc cũng không đem lại cho tôi hứng thú nào mà chỉ làm tôi chói tai, hai tai vừa mới được lên dây lại. Tôi nghĩ rằng đây là một thử nghiệm chứng tỏ tôi không còn cần các thứ ấy nữa và thiền đã có hiệu lực nơi tôi. Không vừa lòng với hiện tại, với trạng thái hoặc tình huống hiện hữu của tâm, người ta muốn thay đổi nên phê. Còn tâm tôi đang bận với Phật pháp và thiền đang giúp tôi thoải mái, tôi không muốn thay đổi cũng không muốn phê. Thật sự, tôi đang trong tâm trạng phê đây mà. Tôi bắt đầu biết rằng con đường Phật pháp là phương tiện hữu hiệu để thay thế cái phê thuốc. Lý thú!

Ngay trong tuần l­ễ đầu tôi viết thư liền về nhà. Lúc trước khi nhập khóa, tôi có viết về rồi nhưng chỉ nói qua loa ý định tôi theo học thiền. Lần này tôi cũng định không nói rõ những thay đổi sâu xa tôi đang chứng nghiệm mà chỉ nói tôi sẽ tiếp tục chu du Ấn Độ chừng một năm nữa. Tuy nhiên tôi nghĩ lại, nếu không nói thật cho ba má tôi biết cảm nghĩ tôi về cuộc sống mới và lý do chính mà tôi nán lại Ấn Độ--để tiếp tục hành thiền và học hỏi thêm--tôi bị xem như lẫn tránh vấn đề mà sớm muộn gì tôi cũng phải nói. Hơn thế nữa, tôi cho rằng không nói hết sự thật là một hình thức nói dối. Tôi không có thọ giới không nói láo nhưng tôi biết những gì sẽ xảy tới vì phản ứng dây chuyền, và tập quán có thể hình thành do các 'chuyện lặt vặt' như vậy, những tập quán mà tôi mong được tránh.

Vì sự tôn kính sâu xa dành cho cha mẹ mà tôi đã học được qua thiền quán về đề tài này, tôi mong được chia xẻ với ba má tôi cũng như gia đình về con đường mới mà tôi đang dấn bước. Tôi chỉ hơi lo ba má và gia đình tôi không hiểu tại sao tôi ngoảnh mặt với Chúa để lao theo Phật! Tín ngưỡng Thiên Chúa cộng với sự hiểu biết nông cạn và méo mó về Phật giáo có thể sẽ là những cản trở cho sự cảm thông giữa tôi và gia đình. Thêm vào, mấy lúc gần đây báo chí không mấy thuận lợi đối với các tín ngưỡng Đông phương cũng như nhiều đạo ở phương Tây. Nhiều tin tức không đúng sự thật được gán cho một số nhóm, như Hare Krishna ăn xin ở phi trường và nhảy múa ngoài đường; Mooni có Guru quá khích; Jesus Freaks bị tố giác bắt cóc và tẩy não đám con nít trung lưu. Đạo ngoài dòng và tín ngưởng mới như vừa nói thường bị đa số người Mỹ bảo thủ nghi ngờ và không thiện cảm. Vì các lý do đó, tôi lo không biết gia đình tôi sẽ phản ứng thế nào khi biết tôi đã quy y thành một Phật tử Đại Thừa Tây Tạng. Rất có thể họ sẽ điên tiết hay ít lắm là kinh ngạc. Dĩ nhiên tôi không muốn tình trạng này xảy ra bởi lẽ ba má và gia đình tôi vừa mới hoàn hồn sau tai họa Afghanistan của tôi. Thêm một vố nữa chẳng khác nào như 'thêm một giọt để làm tràn ly nước'.

Tôi quyết định bật mí nhưng bằng cách vòng vo và nhẹ nhàng hơn. Tôi viết tôi rất thích khóa thiền vì khóa này đã giúp tôi hồi tưởng thiền tiên nghiệm mà tôi có thực tập một thời gian ngắn lúc trước. Tôi nói thêm tôi sẽ trở lại Ấn Độ để tập thiền và học triết Đông phương trong lúc đi viếng một số thắng tích xưa của xứ bao la và cổ kính này. Sự thật gần như vậy và thư tôi viết có vẻ không sai ý định của tôi lắm.

Nói chuyện với một số Tây Mỹ vừa từ Ấn Độ về, tôi được biết thầy S.N. Goenka hiện đang hướng dẫn khóa tu thiền tại Bodhgaya. Thầy sẽ tổ chức một khóa nữa ở thị trấn có tên Prataphgarh, gần Lucknow vào giữa tháng giêng; tôi có ý muốn tham gia khóa kế tiếp này. Còn bây giờ tôi muốn đi hành hương ở Bodhgaya. Ngày tôi sắp đi, tôi nhận được thư của Larry. Nó nói nó đang làm cho tiệm rượu/thịt nguội của gia đình và công việc làm ăn đang khắm khá. Nó vui trở về quê cũ nhưng vẫn thèm được du lịch dã ngoại ở Nepal và lang thang ở Ấn Độ như tôi. Nó đang tính chuyện buôn bán lam ngọc với thị trường kim hoàng của thổ dân Mỹ và có thể sẽ làm một chuyến qua Á Châu để mua ngọc. Tôi hơi ngờ ngợ vì đọc thấy nó còn đam mê vật chất quá; tôi bây giờ ngày càng lánh xa các ham muốn đó. Tôi không biết Larry có hiểu nổi chăng nếu tôi cho nó hay tôi đã thay hình đổi dạng rồi.

Sau gần ba tháng ở trong giang sơn núi non quyến rũ này, tôi không muốn ra đi. Nhưng tôi nghĩ mục đích của tôi đến đây đã đạt, một chương của đời tôi sắp khép lại để nhường chỗ cho chương mới mở ra. Tôi biết đời chỉ là một dòng sự việc tuần tự đến rồi đi; mỗi tình huống, người và cảnh trí mà chúng ta gặp đều cho chúng ta cơ hội học hỏi và trưởng thành dầu chúng ta có biết hay không biết. Mỗi kinh nghiệm là một chỗ nghỉ tạm, 'chỗ tạm trú qua đêm' của cái tôi/tâm. Khi mục đích đã đạt, chúng ta chớ nên trì huỡn mà nên bước tới lúc thuận tiện để theo dòng. Biết vậy, tôi rời Kathmandu hôm Giáng Sinh để bắt đầu giai đoạn tới của chuyến đi vô định.

Chuyến xe đò dừng lại lúc đến nửa đường trên rạng núi phân ranh Kathmandu và Ấn Độ. Tại địa danh Daman này có trạm nghỉ chân và điểm vọng cảnh với chiếc kính vi­ễn vọng. Vào một ngày trời trong mây tạnh dãy Đông Hy Mã Lạp Sơn với ngọn Everest có thể thấy rõ mồn một. Tôi hy vọng được nhìn đỉnh Sargamartha[9] lần đầu tiên trong đời, nhưng thiên nhiên không chìu lòng. Sau khi vô đất Ấn tôi dừng lại ở thị trấn đầy cát bụi có tên Raxaul. Tại đây tôi ăn cơm tối với cà ri, sữa chua, chapattis và chuối. Sau đó, tôi rời phố ra ngoài tìm chỗ ngủ. Tôi trải poncho, jalaba và chiếc mền làm bồ đoàn ngồi tịnh tâm dưới gốc cây pipa, một loại cây mà Thái Tử Siddhartha Gautama ngồi tham thiền và giác ngộ ở Bodhgaya. Dầu thích Nepal, tôi cảm thấy vui sướng được trở lại Ấn Độ. Nhưng lần này tôi có cảm giác và hứng thú mới lạ hơn vì tôi đi hành hương. Với ý nghĩ ấy và trong đêm an lành, tôi rải ánh quang đến mọi chúng sanh trước khi vươn vai xả thiền. Tôi lâng lâng hạnh phúc.

Tôi thức giấc với tiếng chim hót và gà gáy lúc rạng đông. Tôi ngồi thiền và tập yoga dưới tàng cây thân thiết. Sau khi ăn sáng với bánh chapattis nguội và chuối mà tôi để dành hôm qua, tôi đi dọc xuống đường đón xe quá giang. Có chiếc xe tải đến, tôi ngoắc, xe ngừng. Tài xế biểu tôi ngồi bên trong phòng lái cùng với hai bạn đường khác. Nhưng tôi xin ngồi đằng sau để tránh khói thuốc trong ca bin chật. Anh nói đằng sau không có chỗ nào sạch ngồi được. Tôi nài nỉ và nói sẽ ngồi trên poncho, không sao đâu. Anh đành chìu để tôi leo lên phía sau ngồi dưới tấm bố đóng khói đen ngòm dùng trùm một mớ bao xi-măng bự. Cuốc xe đến Muzzaffapur dài ba tiếng, lắc lư và bụi bặm, nhưng tôi chịu được. Tôi xuống xe; anh tài xế chẳng những không lấy tiền mà còn mời tôi uống trà với hai bạn của anh nữa. Tôi cám ơn và nhận lời ngay vì đang khát sau chuyến đi dài. Có thể vì tôi là người ngoại quốc đơn độc trên xứ bao la như Ấn Độ nên anh thương hại tôi. Với những kinh nghiệm tuơng tự, tôi nhận thấy tính hiếu khách ngoại quốc bắt nguồn từ văn hóa cổ Hindu quý khách như quý thần thánh. Tôi cám ơn anh trong lúc anh chỉ hướng đến Patna mà tôi muốn tới.

Hãy còn sớm, tôi lửng thửng đi bộ giữa ánh nắng trưa, trên con đường làng rợp bóng cây. Cuối cùng tôi dừng lại một quán ở đầu làng ăn cái bánh samosa và uống ly trà sữa. Samosa làm bằng khoai tây chín bọc bột và chiên trong dầu--có khẩu vị na ná như khoai tây chiên bên Mỹ. Kế, tôi ra đứng nơi đầu làng xin quá giang tiếp tục. Nửa giờ qua nhưng không kết quả. Bấy giờ có một thanh niên, mặc áo tay dài và chiếc dhoti[10] cổ truyền, đến gạ chuyện. Anh nói rành tiếng Anh. Anh là bác sĩ có phòng mạch trong làng nhỏ này, đến đây làm việc vài hôm mỗi tuần rồi về nhà bên một làng khác cách đây vài cây số và đông dân hơn. Tại đó anh có bệnh viện chính. Anh rất dễ­ mến. Anh mời tôi vô văn phòng anh nghỉ chân.

Phòng khám bệnh của anh rất đơn sơ. Anh mời tôi ngồi xuống chiếc ghế cây và bảo cậu bé pha trà. Cùng lúc anh mời tôi ăn chuối. Trong câu chuyện, anh hỏi nhiều điều mà tôi thường gặp, như tôi có bao nhiêu anh chị em và tôi đến đây với nhiệm vụ gì. Lần này, tôi nghĩ, tôi có mục đích rõ ràng nên trả lời rằng tôi đi tìm hiểu Phật Giáo và hành hương ở Bodhgaya. Câu trả lời của tôi làm người có học như anh bác sĩ này rất vừa lòng. Hơn thế nữa, anh gốc Hindu nhưng rất quý trọng Đức Phật và giáo pháp của Ngài. Anh cho biết người Hindu tin Phật là vị Avitar thứ Chín hay là hiện thân của Thần Vishnu. Theo họ, Phật Thích Ca chỉ là một nhà cải cách của đạo Hindu vì Người chỉ có công đả phá tệ nạn kỳ thị cũng như nghi thức giết súc vật tế thần rất thịnh hành của thời bấy giờ. Người Hindu không nghĩ Phật có chơn lý nào khác ngoài chơn lý của đạo Hindu (trong kinh Vệ Đà hay Áo Nghĩa Thư[11]). Lần đầu tiên tôi nghe nói như vậy và tôi nghĩ không đúng với những gì tôi vừa học. Tuy nhiên, tôi không đủ kiến thức và kinh nghiệm trong vấn đề nên không dám có ý kiến. Về sau, tôi biết ra rằng tín ngưỡng nghĩ Đức Phật là một Avitar của Thần Vishnu bị các nhà Phật học chính tông xem như dị giáo và bác bỏ thẳng thừng.

Anh bác sĩ mời tôi về nghỉ đêm trong làng. Anh cho tôi biết cách đây chừng vài dặm phía bên kia làng có điểm hành hương Vaishali. Nếu tôi muốn viếng, anh sẽ nghỉ một ngày để hướng dẫn. Tôi nghĩ đây là dịp đi hành hương và để biết thêm chút ít đồng quê cũng như văn hóa Ấn Độ. Thường anh đạp nhưng hôm nay anh dắt xe đi bộ để trò chuyện với tôi. Con đường làng quanh co qua nhiều thửa ruộng xếp như bàn cờ và nhiều đám mía ửng vàng trong nắng chiều. Nhìn bầy trâu và các nông phu đang cày sâu cuốc bẫm, tôi nghĩ đến luật nhân quả và thuyết luân hồi rồi thầm cám ơn tôi được 'sanh làm người toàn hảo.' Có ba bạn của anh bác sĩ đạp xe tới. Ba anh xuống xe dắt đi bộ với chúng tôi một đỗi để tìm hiểu tôi là ai trước khi lên xe đạp tiếp.

Ngay lúc đến làng của anh bác sĩ, tôi bất chợt trở thành mục tiêu tò mò của đám đông. Chắc từ lâu lắm rồi không có người ngoại quốc nào trừ tôi đặt chơn tới làng nghèo nàn này. Anh bác sĩ líu lo giải thích cho đám đông biết tôi là ai và đến đây làm gì. Có ít nhứt năm mươi người đến xem mắt 'ngài' râu đỏ quảy túi đeo vai. Anh bác sĩ thu xếp cho tôi ngủ trong phòng rộng nhứt của bệnh xá anh. Tôi xếp hai ghế dài làm giường và dùng cái bàn với ghế ngồi làm chỗ đọc sách trước khi ngủ. Tôi ngạc nhiên thấy làng hẻo lánh này có điện. Anh bác sĩ về nhà bên kia đồng lúa rồi bưng cơm tối đến cho tôi. Tôi không muốn làm phiền anh và tôi không cần ăn tối hôm đó. Tuy nhiên tôi cám ơn anh đã đem lại chapattis và cà ri khoai tây. Trước lúc ngủ tôi thiền về 'Mẹ của tất cả chúng sanh' và kết thúc bằng cách hồi huớng công đức đến người chủ tốt bụng và các nông dân nghèo, nguyện cầu tất cả được giác ngộ.

Sáng ra, anh bác sĩ đem lại chapatttis, dahl và một ly sữa tươi cho tôi điểm tâm. Anh còn đem theo ông hiệu trưởng trường trung học[12] để giới thiệu với tôi. Ông sẽ cùng đi Vaishali với hai chúng tôi. Ông cũng rất sùng kính Phật nên yêu cầu tôi nói về đạo Phật cho học sinh trường ông nghe vào ngày mai. Thiếu tự tin, không đủ kiến thức Phật học và chưa có kinh nghiệm nói trước đám đông, tôi xin từ chối. Ngoài ra, tôi thật tình trình bày tôi còn cần đi Patna trưa nay rồi tiếp tục đi Bodhgaya. Không dè bảy năm sau tôi trở lại và thuyết pháp như một nhà sư.

Di tích Vaishali nằm ngoài thành. Chúng tôi đạp xe đi thăm mỗi nơi trong khu cổ tích rộng lớn đó. Vừa đi, các bạn hướng dẫn vừa giải thích những bia ký Phật tích. Trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng pháp trên lãnh thổ Bắc Ấn, Đức Phật dừng lại đây rất nhiều lần, nên có xây một tu viện để Ngài và tăng đoàn của Ngài trú ngụ. Sau 2500 năm, giờ đây tu viện chỉ còn là một gò đất thấp và những trũng với nhiều mảnh gạch ngói rải rác đó đây.

Ba chúng tôi cùng ăn picnic trưa dưới bóng cây bên cạnh nhà điều dưỡng. Sau đó, các bạn đưa tôi ra bến xe dưới phố để tôi đợi xe đò đi Patna cách đây chừng hai mươi dặm. Tôi cám ơn, nhứt là anh bác sĩ đã dành cho tôi sự đón tiếp chân tình và nồng hậu trong suốt thời gian qua. Tôi nói rằng tôi là người Mỹ có cái may duy nhứt được các anh đưa đi xem tận mắt đời sống thôn quê và nhiều chi tiết về sử ký, triết lý và tín ngưỡng của xứ Ấn. Nếu đi với các bạn đồng hành trên các tuyến du lịch chính, làm sao tôi có được các cuộc gặp gỡ với 'bà con chất phát' ở đây. Kinh nghiệm này cho tôi thấy giá trị của câu nói 'đi một ngày đàng học một sàng khôn.'

Xe đò đưa tôi đến Hajipur trên bờ Bắc sông Hằng. Từ đây tôi lấy đò ngang qua Patna, thủ đô của Bihar. Sông rất rộng nên đò phải mất trọn một tiếng đồng hồ mới qua tới bến bên kia. Đò đông khách hành hương Tây Tạng. Họ ngồi bẹp xuống sàn cạnh bên nhiều đống hành lý chất ngổn ngang. Tôi phải tìm mãi mới đuợc một chỗ gần đám người đông. Đò cặp bến lúc mờ tối. Hầu hết khách chất lên nhiều chiếc taxi 3-bánh và đi về hướng ga xe lửa. Sau phút lưỡng lự, tôi chọn thả bộ ngang thành phố ra ga. Có lẽ tôi sẽ ngủ lại đó đợi sáng mai mới lấy xe đi Gaya. Tôi lựa vài em có vẻ sáng sủa để hỏi đường rồi bắt đầu ra đi.

Trong ga, tôi thấy ngoài các khách hành hương Tây Tạng tôi gặp trên đò, vô số hành khách khác đang nằm ngồi la liệt trên sàn. Họ quây quần thành nhóm, cùng uống trà bơ và nấu ăn trên lò dầu đem theo. Trong lúc tôi đi tìm chỗ, có mấy người Tây Tạng nhận ra tôi bèn gọi tôi lại nhập bọn với họ. Tôi chen vô trải tấm nóp và vui vẻ nhận tách trà bơ họ mời. Tôi cám ơn họ đã đối đãi với tôi rất thân thiện. Trước khi nằm xuống tôi tính ngồi thiền, nhưng thôi vì sợ con mắt dòm ngó của bà con và cái tôi của tôi bị thổi phồng. Sàn xi măng cứng và tiếng ồn ào khiến tôi lăn trở nhiều lần mới chợp mắt được. Sáng sớm, tôi phải vất vả lắm mới chen nổi lên xe; xe chật ních nên mạnh ai nấy lấn vì không có hệ thống giữ chỗ trước. Bốn tiếng sau, xe ghé vô ga Gaya; tôi mừng hết lớn--trong đời tôi chưa có lần nào tôi mừng được xuống xe như lần này. Xe 3-bánh đi Bodhgaya đợi cho tới khi hết nhét nổi khách--thường là mười người--mới chuyển bánh. Chặng đường dài chừng mười cây số, hẹp, chạy sát theo lòng sông rộng. Dọc đường tôi chỉ thấy được chút ít phong cảnh vì ngồi đằng sau bị cái mui xe che khuất tầm nhìn rất nhiều.

Làng nhỏ và khu chùa kế cận rất tấp nập. Tôi ngồi lại trong một quán bên cổng vừa ăn bánh ngọt uống trà vừa ngắm cảnh tượng bận rộn. Dân chúng ra vô nườm nượp. Xe 3-bánh chất đầy nhóc khách Tây Tạng liên tục đỗ về. Nhiều đám người rách rưới lang thang trên đường đến trại Tây Tạng. Họ vác, họ gánh tất cả những gì họ có trên vai. Buýt du lịch nhìn thấy nhan nhản khắp mọi nơi và từng đoàn du khách ra vô không ngớt. Hành khất cũng rất nhiều; họ bu theo du khách lợi dụng lòng từ bi của con nhà Phật. Đền Sri Maha Bodhi, cao 50 m, xây từ thế kỷ thứ 7 trước dương lịch, uy nghi điềm nhiên tọa thị trước cảnh ồn ào náo nhiệt này.

Sau khi ngồi trong quán một đỗi, tôi nghĩ nên vô chùa chiêm bái gốc Bồ Đề nơi mà Thái Tử Siddhartha ngộ đạo. Chùa và cội Bồ Đề ở giữa một vùng rộng có tường và rào bao quanh. Từ cổng chánh xuống phải bước mấy bực thang; ở bực chót có treo một đại hồng chung để khách hành hương thỉnh theo lời cầu nguyền riêng của mỗi người. Thường khách thỉnh chuông để nói lên số lần đến đây hành hương. Noi gương Bồ Tát, tôi thỉnh ba tiếng, ba tiếng mà chư Vị gióng lên để hóa giải u minh của chúng sanh. Qua cổng và lớp cửa gỗ tôi bước vô chánh điện, nơi thờ tượng Đức Bổn Sư; tượng sơn son thếp vàng, rất to. Nhiều Phật tử Tây Tạng đang thành khẩn kính lạy trong lúc lâm râm đọc chú; họ cầm hai thanh gổ và lạy trườn mình theo nghi thức cổ truyền. Nhiều người khác đi nhiễ­u vòng quanh tháp cao theo chiều kim đồng hồ; Phật tử Tây Tạng vừa đi vừa quay ống cầu nguyện và đọc chú Án Ma Ni Bát Ni Hồng (Om Mani Padme Hum). Để dép ở ngoài, tôi mang túi xách bước theo đám đông và nhiếp tâm đi ba vòng.

Cây Bồ Đề đứng sau đền trong rào và được trang trí bằng nhiều cờ Phật giáo. Trong vòng rào, giữa gốc cây và chùa có khối xi-măng mang tên Vajrasana chỉ định chỗ mà Thái Tử Siddharta Gautama tham thiền trong đêm quyết định ấy. Hầu hết Phật tử dừng lại đây thắp nhang đèn hay chắp tay xá. Có người vói đưa đầu chạm vào thành của bệ để l­ễ vật đặt trước khối xi-măng. Sau ba vòng đi nhiễ­u quanh tháp, tôi để xách ở ngoài, vô giữa chánh điện, lạy ba lạy trước Đức Thế Tôn. Rất đông: người lạy, người ngồi thiền, người đọc chú. Tôi hân hoan chứng kiến và tham gia vào sanh hoạt thấm nhuần đạo hạnh đang di­ễn ra quanh đây. Có thêm một ít du khách Ấn, có lẽ là Hindu. Họ rảo quanh; có người vô ý đi ngược dòng, nói cười thiếu thận trọng, và trố mắt nhìn Phật tử Tây Tạng đang lạy theo lối trườn hay ngồi thiền đó đây. Nhìn chung, quang cảnh gồm một đám người xô bồ đến từ mọi nơi, kể cả một số Tây Mỹ như tôi.

Bodhgaya quan trọng vì là nơi tiêu biểu cho sự dò tìm Chân Lý hay ý nghĩa của sự sống. Tại đây, dưới gốc Bồ Đề này, Thái Tử Siddhartha dừng bước chân du tìm không hiệu quả để ngồi lại thiền. Ngài nhứt định không đứng lên nếu chưa tìm ra chánh quả. Trong một đêm trăng tròn Ngài vượt khỏi vòng vô minh và giác ngộ. Đó là đêm mà Ngài không còn phải đi lần tìm nữa, Ngài thành Phật.

Trong suốt cuộc đời, chúng ta luôn tìm cách thỏa mãn ước mơ và khát vọng. Chúng ta đổi bạn, thay nguời yêu, nghề nghiệp, nhà cửa, quê quán, và cả xứ sở nữa hy vọng tìm thấy một trạng huống tuyệt hảo và hạnh phúc. Nhưng cái đích tuyệt đối đó không bao giờ đạt được nếu chúng ta chỉ thay đổi ngoại cảnh. Trái lại, nếu một ngày nào đó chúng ta dừng lại và bắt đầu quán chiếu vào nội tâm để tìm nguồn gốc của bất mãn cũng như thỏa mãn thì chúng ta sẽ thấy sự thật. Đó là những gì Thái Tử Siddhartha đã làm dưới cội Bồ Đề này nên Bodhgaya mang một ý nghĩa đặc biệt; Bodhgaya là nơi mà Bồ Đề hay Trí Huệ Tối Thượng hay Chân Lý được tìm thấy. Tất cả chúng ta đều có Bodhgaya trong tâm, tức có nhân Giác Ngộ mà chúng ta cần phải vun trồng. Đó là cuộc hành hương tối hậu, chuyến trở về nguồn của sự tự do thiệt thọ và hạnh phúc lâu bền. Tôi miên man suy nghĩ như trên trong lúc ở lại đây thêm một tiếng đồng hồ nữa, ngồi dưới bóng của gốc bồ đề gần bên.

Sau đó tôi đi xem các chùa chiền trong khu Bodhgaya. Hầu hết các quốc gia Phật giáo trên thế giới đều có xây chùa hay nhà nghỉ trong vòng nửa dặm của khu dân cư để đón du khách hành hương. Vào những lúc trái mùa, khách có thể ở lại đó một thời gian ngắn nếu nhà có dư chỗ chứa.

Trong khu chùa Tây Tạng, dân tháo vát của xứ này có dựng một thành phố dã chiến bằng lều nhà binh lớn để làm nhà nghỉ và tiệm ăn. Cạnh bên thành phố lều có cái nghĩa địa cổ với tường bao bọc, trong đó tôi thấy có một ông và hai cậu bé Tây Tạng căng lều ở dưới một gốc cây lớn. Tôi nghĩ đó là chỗ ngon lành cho tôi tạm dựng lều và tha hồ thiền hay luyện du già dầu ở giữa mồ mả. Tôi không biết địa phương có cho phép ngủ trong nghĩa địa chăng, nhưng tôi biết các nhà du già khổ hạnh thường khuyến khích làm như vậy để tập không sợ cái chết. Tôi bèn leo tường vô, tìm một điểm xa mả, khuất giữa bụi rậm, trải nóp ra. Tôi thầm cám ơn đã có chỗ ngủ nghỉ. Quang cảnh này yên tĩnh ngồ ngộ nhờ được tách rời khỏi không khí bon chen của khu du lịch chính. Tôi hy vọng tôi không bị tống ra hay bị lấn chiếm bởi những người có cùng ý nghĩ như tôi.

Còn một tuần nữa Đức Đại Lại Lạt Ma mới đến và hai ngày nữa là Tết Tây. Nhiệt độ trong vùng Bắc Ấn tương đối ôn hòa, ngày ấm và đêm mát. Áo jalaba của tôi rất tiện nhứt là về đêm khi tôi ngồi thiền. Mỗi ngày tôi thức dậy lúc hừng đông. Tôi ngồi thiền ngay trên nóp rồi tập yoga hay làm ngược lại. Xong, tôi dọn đồ vô xách quảy ra tiệm ăn sáng. Thường tôi ăn miếng bánh mì Tây Tạng, chén tàu hủ, chuối, và uống tách trà. Tôi gởi xách lại quán đoạn đi ra Đền Maha Bodhi. Tôi mang theo cái túi đeo vai đựng thông hành, chi phiếu du khách, tiền mặt, chiếc mền để ngồi, và chai nước--tất cả hành trang tôi dùng trong ngày. Tới chùa tôi thỉnh ba tiếng chuông trước khi vô chánh điện lạy Phật ba lạy; đôi khi tôi ngồi lại thiền. Sau đó tôi ra đi nhiễ­u vòng quanh Chùa/Bồ Đề ít nhứt ba vòng. Thỉnh thoảng tôi ngồi lại ngay dưới tàng cây linh thiêng để thiền hay chứng nghiệm làn sóng thiêng liêng.

Một số 'con Phật lang thang' Tây Mỹ sống trong Nhà Nghỉ Miến Điện (Burmese Vihar). Nhà có nhiều phòng cá nhơn dùng như cốc và một thiền đường trên lầu. Đó là nơi mà U.N. Goenka chủ trì các khóa thiền minh sát; khóa sau cùng mới bế giảng cách nay một tuần nên nhiều học viên còn tiếp tục hành thiền tại đây. Tôi có nghe nói tới ông Joseph, người gốc New York, từng hành thiền minh sát nhiều năm nay và rất có tiếng. Ông hiện ở Bodhgaya và đang thuyết giảng tại Burmese Vihar tối nay. Tôi theo vài người khách lên lầu nghe.

Ông Joseph ngồi kiết già trên sàn với cử tọa ngồi chung quanh. Ông ốm cao. Tóc ông màu nâu, hớt ngắn. Râu ông được cắt tỉa tươm tất. Bằng giọng nói chẫm rãi rõ ràng, ông thuyết đề tài tỉnh thức và nội thức. Ông giải thích sự cần phải quán chiếu từng phút từng giây hành động của thân và hoạt động của tâm để hiểu mình sâu xa hơn. Nếu ta sinh hoạt chậm lại và quan sát cử động của thân như ta xem phim quay thật chậm, ta sẽ thấy và hiểu rõ mối liên hệ giữa thân với tâm. Ông chứng minh bằng cách đưa tay lên xuống thật chậm và chỉ cho thấy thân tùy thuộc hoàn toàn vào tâm khi cử động. Đưa tay lên hay xuống vài phân đòi hỏi nhiều sự sai khiến hỗ tương giữa thân tâm và nhiều cử động tinh vi. Hướng ý thức đến tiến trình đó giúp ta trực tiếp nhận biết các khía cạnh của thân và tâm. Có một hình thức thiền tọa hoặc thiền hành đặc biệt khả dĩ giúp ta thực tập cách quan sát tinh tế đó. Mục đích của sự thực tập như vậy, ông Joseph nói, là để cho ta thấu hiểu chân lý tối thượng mà Đức Phật đã khám phá: vô thường, khổ và vô ngã. Thực tập như vậy cũng sẽ giúp ta hiểu ý nghĩa sâu xa của Tứ Diệu Đế. Nếu hành trì tinh tấn, ý thức duy trì đó sẽ tạo nên không gian và kỹ năng tâm linh khả dĩ hóa giải những tập quán xấu, những khó khăn tâm lý và những hạn chế tự đặt, để đạt đến kết quả tối hậu là giác ngộ.

Bài giảng làm tôi thêm thích thiền minh sát. Trong tiến trình phát huy trí tuệ, phương pháp thiền này đặc biệt huấn luyện tâm một cách trực tiếp, chớ không thần bí và không nghi thức như thiền Tây Tạng. Nói cách khác, không có đề cập đến chư Phật và chư Bồ Tát, không cần cứu rỗi chúng sanh, và cũng không trì chú hay gợi những tưởng tượng phức tạp. Đó là phương pháp Tiểu Thừa chỉ nhằm giải thoát mình mà tôi có dịp nghe nói như là ích kỷ và không cao thượng. Tôi không biết giữa hai lối thiền có khác biệt nào khi nhìn dưới khía cạnh từ bi và giải thoát khỏi khổ đau. Tôi có nghe nói Thầy Goenkaji rải tâm từ mỗi đêm trong lúc người thuyết giảng.

Có hai phương pháp thiền minh sát. Phương pháp của Thầy Joseph khác với phương pháp của Thầy Goenka, mỗi bên có gốc độ nhìn mỗi khác. Tôi định sẽ dự khóa thiền của Thầy Goenka, tôi muốn học phương pháp của ông trước. Còn bây giờ tôi tiếp tục hành thiền Tây Tạng bởi tôi đã hiểu và đang thích thú với pháp đó.

Ngày đầu năm đến rồi đi, không có gì quan trọng và cũng không có lễ­ lạc gì bởi ở Ấn Độ người ta ăn Tết theo âm lịch và người Hindu mừng Tết vào tháng Tư. Chỉ có một buổi hội ngộ nhỏ nơi Chùa Nhựt Bổn với lễ­ thỉnh chuông và tiệc mì nửa đêm. Mọi người đều đuợc mời dự, nhưng tôi chọn ở lại chỗ của mình trong nghĩa địa để chiêm nghiệm 108 tiếng chuông được thỉnh. Tôi mừng năm mới theo tinh thần mới. Tôi nghĩ đến luân hồi (samsara) và luật tái sanh tuyệt hảo của con người. Tôi mừng năm mới với quyết tâm hành trì Phật pháp. Nhớ lại những điều ngu xuẩn mà tôi đã làm trong năm qua vì vô minh, tôi cương quyết tu tập để xa lánh các hành động tệ hại và phát huy tỉnh thức/trí tuệ.

Lúc bấy giờ Lạt Ma Yeshe và Lạt Ma Zopa vừa đến với đạo tràng Tây Mỹ của hai ngài. Đoàn dựng hai lều trong một góc của Khu Birla Dharmasala. Hằng trăm dân từ cao nguyên Nepal, Sikkhim và Bhutan lục tục kéo tới. Lều moc như nấm gặp mưa. Một thành phố lều nữa được dựng lên trên khoảng đất trống gần viện bảo tàng. Tinh thần đạo hạnh mỗi lúc mỗi dâng cao trong khi bà con ráo riết chuẩn bị l­ễ Kalachakra. Lễ­ sẽ được tổ chức ngoài trời trong sân rộng trước nhà nghỉ; lễ­ đài đang được dựng lên để nghinh đón Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi ngày vào lúc 5:00 giờ chiều, khoảng một trăm tu sĩ Tây Tạng tập họp dưới cội Bồ Đề để làm l­ễ puja với chiên trống và nhiều linh khí khác. Hằng trăm ổ bánh mì được bày trên bàn cúng để rồi cúng dường chư tăng và phát cho đồng bào tham dự. Chiều tối, có vô số chiếc đèn dầu nhỏ thắp sáng một bãi đất vuông; đèn được canh chừng liên tục và châm dầu thường xuyên. Khách hành hương cắm nhang đèn thắp cùng trong khu chùa. Quang cảnh thật ngoạn mục với cả ngàn ánh sáng lung linh và mùi hương bay thơm khắp mọi nơi. Hằng trăm tín đồ đi nhi­ễu quanh khuông viên theo ba vòng khác nhau. Tăng ni và dân Tây Tạng nhiệt thành bái lạy từ giờ này sang giờ khác. Nhiều ông bà lạy trườn mình bằng cách nằm sấp xuống đất vói thẳng tay tới trước rồi đứng lên đến điểm tay đã vói tới bắt đầu lạy trườn mình tiếp. Họ vừa lạy vừa trì chú và từ từ lạy hết một trong ba vòng nhiễ­u quanh chùa. Họ thành tâm đến nỗi nhiều lúc nằm trườn trên nước, trên bùn. Mục đích của phương cách lạy này là để thuần hóa bản ngã và định tĩnh tâm. Thật hứng khởi khi chứng kiến các Phật tử biểu lộ công khai nhiệt tâm vì đạo pháp. Tuy nhiên tôi chọn cách khác ít ngoạn mục và kín đáo hơn. Mỗi tối tôi đi vô chùa vài giờ để dự lễ­ và thể nhập không khí thiêng liêng.

Vì có quá nhiều khách thập phương đến Bodhgaya nên các nhà nghỉ kể cả Burmese Vihar đều đầy nhóc; nghĩa địa không sao tránh khỏi bị chiếm đất. Tôi có khuynh hướng xem nơi này như 'của riêng mình' thành thử tôi có cảm giác bị xâm lấn mỗi khi có du khách đến cấm trại gần. Tôi biết tôi ích kỷ và để tránh tánh xấu này tôi vui vẻ mời hai nguời Tây đang đi tìm chỗ ở lại đây. Hai người cám ơn và nhận lời.

Trong những ngày lễ­ hội chính, nhiều hành khất trong làng kế cận cũng đến hành hương. Nhưng họ không hẳn tin nơi Đức Phật mà nhắm vào mục đích làm tiền nhanh. Biết rằng một trong những đức tính Phật dạy là lòng nhân, họ, những người thật sự què quặt hay chỉ là dân nghèo trong làng, đến đây đóng kịch để tạo sự xót thương của tín đồ giàu lòng bác ái. Họ xếp hàng dài ngoài cổng chìa lon xin tiền. Họ ăn mặc rách rưới bần cùng nhứt (có thể là bộ đồ duy nhứt của họ cũng không chừng) và làm ra vẻ thảm não nhứt. Nhiều dân Ấn làm ăn cũng tới. Họ đặt bàn đổi tiền lẻ để bố thí. Khách đổi giấy 1-, 5- và 10-rupee ra đồng 5-,10- và 25-paise để mỗi khi cho họ có cảm tưởng xài số lớn, vì mỗi rupee (bằng 10 xu US vào 1974) có thể cho mười người, mỗi người mười paise hoặc hai mươi người mỗi người năm paise.

Nhiều hành khất khác, bất lực có phung cùi có, len lỏi vô tiêm buôn vật kỹ niệm, quán trà/ăn, và nhà nghỉ để xin khách đang ăn hay đang mua sắm. Sự có mặt của họ làm khách tự cảm thấy có chút tội lỗi khi đang ăn sung mặc sướng hay đang bỏ tiền mua sắm. Nếu khách không cho, họ đứng lì ra đó khua lon hay bám theo van lơn thảm thiết. Có thể bực bội lắm, nhưng là dịp tốt để quan sát tâm lý phản ứng, chấp trước, xua bỏ, và dè xẻn của con người. Ai cũng biết chúng ta đang xài cho cá nhân mình gắp mười hay trăm lần nhiều hơn tiền của của các người bất hạnh ấy có, và nếu cho họ hai mươi lăm hay năm mươi paise thì có là bao. Nhưng chúng ta thường vẫn bị dằn co; thiệt là oái oăm. Nhiều lúc chúng ta cho không phải vì rộng lượng hay từ bi mà chỉ vì muốn xua người ăn xin đi khuất mắt cho rồi. Cũng có trường hợp ngược lại, tức cho rồi nhưng hành khất chưa vừa ý theo năn nỉ xin thêm. Dĩ nhiên người cho không sao không buồn lòng.

Rất tốt cho tôi được ở trong hoàn cảnh như vậy để tôi quan sát phản ứng của mình. Tôi hay thử xét xem người xin có đáng được cho hay không, và nếu cho thì sẽ cho bao nhiêu. Đôi khi tôi thấy tôi keo kiệt và chỉ biết nhớ tới mình, nghĩ rằng với số tiền cho tôi có thể sắm cho mình món gì đó. Vài lúc khác tôi không cho, lý luận rằng làm vậy tạo cho họ thêm tùy thuộc vào du khách. Có thể đúng, tuy nhiên có người thật sự không có nguồn thu nhập nào khác ngoài số tiền nhỏ họ ăn xin. Có lúc tôi muốn mua cho họ thức ăn bồi dưỡng hơn là cho tiền vì tôi có thấy hành khất lấy tiền mua bậy bạ hay thuốc lá; điều làm tôi rất khó chịu. Tình huống như vậy khiến tâm phải bất ngờ đối đầu trực tiếp với những khía cạnh mà bình thường tâm không nhìn thấy. Nhiều khi không phải d­ễ chấp nhận. Nếu ý tưởng tiêu cực không được nhìn là tiêu cực thì sẽ không thấy có tội lỗi và được phản ứng bình thường tức không chú ý đến hậu quả lâu dài. Trong trường hợp ngược lại, sẽ có phản ứng phải giải quyết và trận chiến nội tâm bắt đầu để phân biệt phải trái, tốt xấu dựa theo nghiệp quả. Đó cũng là khởi điểm của ý thức lành mạnh hóa tâm hay con đường tâm linh theo quan điểm Phật giáo. Nhiều người dừng ở thời điểm này và không muốn suy tư sâu hơn; tâm họ khéo léo nại ra nhiều lý do để khỏa lấp sự không muốn thay đổi của họ.

Ngày 5 tháng Giêng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đến với nhiều nghi thức trịnh trọng. Hai hôm sau lễ­ Kalachakra khai mạc. Ngài nói pháp nhiều lần trong suốt hai ngày đầu. Bài pháp của ngài luôn luôn rất dài và bằng thứ tiếng tôi không hiểu được nên tôi d­ễ chán và thường bỏ qua. May cho tôi là l­ễ đài được dựng ngay trước nghĩa địa mà chỗ tôi nhìn thấy rất rõ, tôi có thể nằm ngồi tùy ý, thành thử cũng đở. Nhưng đến phần quan trọng--lễ­ thọ giáo và truyền thừa--tôi nhiếp tâm và thể nhập với những gì Ngài tụng. Tôi tụng chú theo Ngài nhờ bài được in ra giấy và phát không cho mọi người trước. Tụng để người tu Bồ Tát giới thể nhập thần lực của bài chú đặc biệt này, thần lực khả dĩ trừ tà ma trong nội tâm và ngoài cõi Ta Bà. Tôi chưa thật lòng tin nhưng tôi làm theo và cảm thấy rất hân hoan. Vài hôm tiếp theo được dành riêng để Đức Đạt Lai Lạt Ma ban hồng ân cho cá nhân. Rất nhiều người, nhứt là người Tây Tạng, xếp từ ngai Ngài ngự trong Gompa ra ngoài, dài hằng cây số ngàn. Hàng nhích như rùa bò nên phải đợi nhiều giờ dưới nắng nóng. Tôi cũng muốn vào kính l­ễ Ngài nhưng đợi qua hôm sau lúc hàng ngắn bớt. Chiều ngày thứ hai, hàng xếp không dài quá cổng nhà nghỉ tức chỉ chừng mươi phút đợi, tôi vào hàng. Theo thông lệ, mỗi người được trịnh trọng đưa tới trước ngai của Ngài đặt cao trên tầm vai, dưng lên Ngài dải khăn trắng truyền thống và thành kính nghiêng mình xá. Ngài có thể để tay lên đầu tín đồ hay nói vài câu ngắn. Đến lượt tôi, tôi dâng khăn và kính cẩn xá với ước nguyện được Ngài rờ đầu để tôi hân hạnh được nhận nhân điện của Ngài. Ngài có đặt tay lên đầu tôi nhưng tôi không thấy gì khác lạ. Tôi cảm thấy vui sướng vì tôi đã làm xong một bổn phận tâm linh.

Tôi bắt đầu nghĩ tới việc sẽ làm gì sau khi xong khóa học của Thầy Goenka vì khóa chỉ có mười hôm. Một trong những tưởng tượng đầu tiên của tôi là sống lõa thể trên bãi biển Goa. Đó là động cơ quan trọng nhứt thúc đẩy tôi đến Ấn Độ. Nhưng động cơ này bị khỏa lấp bởi những cảm hứng và bận rộn muốn làm con Phật lúc tôi tới Nepal và Bodhgaya.

Nay trở lại bình thường, ý tưởng đi Goa hóa thành hấp dẫn. Một mái chòi tranh trên bờ biển Goa rất có thể là nơi lý tưởng để tôi sống giản dị mà hành thiền và luyện yoga. Tuy nhiên tôi băn khoăn không biết mình có thể sống thuận với đạo pháp không, bởi ở đó tôi có thể sẽ lao theo nhiều cái vui dục thú. Tôi còn biết ở đó sẽ không thiếu cần sa ma túy và tôi có thể bị cám dỗ d­ễ dàng. Nhưng, nếu tôi không bị sa ngã, tôi sẽ thành công trên đường tu học vậy.

Tôi còn có nhiều lý do khác để đi xuống phía Nam ngang qua Goa. Tôi nghe nói ở Tích Lan có nhiều trung tâm thiền minh sát rất thuận tiện cho việc học hỏi thâm sâu. Một trong những trung tâm này còn có thầy nói tiếng Anh và dạy phương pháp như ông Joseph mô tả trước đây. Ngoài ra, việc xin chiếu khán 6-tháng vô Tích Lan không khó nếu là để học Phật. Người Tích Lan (còn gọi là Sinhalese) rất sùng đạo Phật và chánh quyền có chánh sách nâng đở người ngoại quốc tìm học đạo. Thêm vào, đời sống ở Tích Lan rất rẻ. Chiếu khán ở Ấn của tôi sẽ mãn hạn vào cuối tháng Ba, tôi phải ra đi một nơi nào đó. Goa là điểm đến xem ra thuận lợi nhứt. Đi Goa tôi sẽ có dịp ghé viếng các động ở Ajanta mà tôi từng nghe nói tới rất nhiều. Các động này nằm trên đường đi Bombay, thành phố mà tôi sẽ đi thăm. Trong hiện tại tôi tạm quyết định như vậy. Tôi nói tạm vì tôi còn tùy thuộc vào khóa học của Thầy Goenka. Lúc viếng Burmese Vihar ở Bodhgaya, theo sự chỉ vẽ, tôi có gởi bưu thiếp đi Pratagarth để xin ghi danh trước vì nghe nói khóa chỉ nhận tối đa bảy mươi học viên. Tới nay tôi chưa nhận được thư trả lời; các bạn khác cũng vậy. Nhưng chúng tôi quyết định cứ đi Pratapgarth, hy vọng sẽ có người bỏ chỗ vào giờ chót.

Trước khi rời Bodhgaya, tôi thi lễ­ trước cây Bồ Đề và bái lạy cũng như ngồi thiền trong chánh điện. Tôi muốn đem 'tinh thần Bodhgaya' theo với tôi bất kỳ ở nơi nào, dầu tôi biết tôi sẽ trở lại đây trong tương lai. Bodhgaya rất có duyên và luôn lan tỏa sự an lành mặc dầu đông đúc và bon chen theo kiểu thương mại. Lần đầu tiên tôi đến trên chiếc xe 3-bánh, tôi chưa kịp chuẩn bị tư tưởng; tôi đến vội và như người mù nên tôi không thể tự tạo được thái độ kính cẩn cần có trong chuyến hành hương. Hôm nay, để bù lại, tôi muốn ra đi với tinh thần thanh tịnh bằng cách đi bộ mười cây số trở lại Gaya trong không khí mát dịu của ban mai, dọc con suối đang cạn khô. Tôi có dịp thuởng lãm cảnh đồng quê hoang dã và tưởng tượng lúc Phật tại thế, cách nay 2.500 năm.



[9] Tên của đỉnh cao nhứt thế giới mà người Nepal thường gọi.

[10] Xà rong cổ truyền dài tới đầu gối (nd).

[11] Vedas or Upanishads (tg).

[12] Trường trung học ở đây được gọi là college (tg).

---o0o---

Nguồn: BuddhaSasana

Trình bày: Vĩnh Thoại

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6933)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17731)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5215)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6166)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5074)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4093)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5340)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3884)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3006)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567