Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển Tập Thơ Một Thoáng Quê Hương

15/05/202206:45(Xem: 2882)
Tuyển Tập Thơ Một Thoáng Quê Hương

mot thoang que huong


Thành kính tưởng niệm:
 
Ơn Tổ tiên Cha mẹ.
Ơn Đồng bào Xã hội.
Ơn Đất nước Quê hương.
Ơn Tam bảo.

 


QUÊ HƯƠNG TÔI

 

 

Quê hương tôi, cuối miền Trung nước Việt.

Mặt nhìn ra cửa ngõ Thái bình dương.

Lưng dựa kề vách đá của trường sơn.

Chân duỗi thẳng về miền nam yêu dấu.

 

Quê hương tôi băng mình qua ba lối.

Bằng tàu thuyền theo ven biển cong cong.

Đây đường sắt, nọ quốc lộ song song.

Tay kết chặt tình Nam - Trung ruột thịt.

 

Quê hương tôi có núi đồi xa tít.

Gỗ, măng, tre, than củi, thú trên rừng.

Có cây lành trái ngọt, lúa xanh đồng.

Những động cát trắng hồng trông vui mắt.

 

Quê hương tôi có cá tôm dày đặt.

Chiều ghe về tấp nập ở ven sông.

Nước Cà-ty lên xuống lửng lơ giòng.

Soi bóng tháp tỉnh thành thêm thơ mộng.

 

Quê hương tôi tiếng chuông chùa vang vọng.

Nào chùa Ông bên cạnh với chùa Bà.

Chuông giáo đường khuya sớm đỗ ngân nga.

Tượng Hưng Đạo đứng bên cầu lẫm liệt.

 

Quê hương tôi nước mắm ngon Phan Thiết.

Muối mặn mà, tình dân tộc thêm thương.

Nùng Sông Mao, Chàm Phan Rí, Long Hương.

Xóm Lụa, Ma lâm, Lương Sơn hồ hỡi.

 

Quê hương tôi Cù lao Thu vòi vọi.

Sống yên lành, dân chất phác hiền hòa.

Dầu phọng Hòn danh tiếng khắp gần xa.

Những đặc sản sơn hào cùng hải vị.

 

Quê hương tôi cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ.

Bãi hẹn hò, đầm sen nở, dương reo.

Có suối hồ Vỉnh Hảo nóng trong veo.

Cho nước khoáng giải phiền cơn bệnh khát.

 

Quê hương tôi chùa Hang bên biển bạc.

Sóng vỗ bờ như khúc hát thần tiên.

Tà cú Linh sơn Phật tích diệu huyền.

Vị Thánh tổ xuất trần, uy đức rộng.

 

Quê hương tôi Mũi Né dừa gió lộng.

Đường quanh co cát xoáy phủ chân đèo.

Lầu ông Hoàng sừng sững đứng cô liêu.

Cảnh phế tích của hồn xưa lưu lại.

Quê hương tôi Hàm Thuận tre thoai thoải.

Xóm vườn cau Phú Hội đợi chim về.

Những luống rau xanh ngát đượm tình quê

Ga Mường Mán dừng chân người lữ thứ.

 

Quê hương tôi ghi vào trang Địa sử.

Một tỉnh thành bé nhỏ dáng thương thương.

Và giờ đây ai là khách tha phương.

Xin ghé lại thăm nước non Bình Thuận.

           

            Phan Thiết 1972

 

 

 

 

 

CHO TÔI

 

Cho tôi một chút tình người.

Cho tôi tìm lại nụ cười hồn nhiên.

Cho tôi thắp ngọn lửa thiêng.

Cho tôi sưởi ấm ưu phiền đau thương.

Cho tôi nối nhịp Hiền lương.

Cho tôi tiếng hát Quê hương Hoà bình.

 

            Sài gòn, Hiệp định Paris 1973

 

 

 

 

 

MỘT CHUYẾN ĐI

 

Một sớm đầu Thu tôi bước đi.

Giả từ hoa mộng, tuổi Xuân thì.

Khoác lên nếp sống “tha phương khách”.

Tìm lại con người vạn cổ uy.

        

Thuở ấy kinh thành rộn rịp vui.

Huyền mơ điệu nhạc ướm môi cười.

Dập dìu bến mộng, duyên trần lụy.

Bao chuyến ân tình vẫn ngược xuôi.

 

Chim hót bờ tre, quyện gió lành.

Quê hương soi bóng mái dừa xanh.

Trâu về đồng nội vi vu sáo.

Kỷ niệm ngày xưa, ôi! thoáng nhanh!

 

Nghĩ lại song thân một buổi chiều.

Chờ trông biền biệt đứa con yêu.

Ra đi chẳng thốt câu từ tạ.

Non nước giờ đây khói lửa nhiều.

 

Chiếc áo vàng nâu nhuốm bụi đường.

Mở trang Kinh tụng những Yêu Thuơng.

Chiêu hồn muôn loại vơi đau khổ.

Để bớt âm vang cảnh đoạn trường.

 

          Nha trang 1965                           

 

 

 

 

 

CHO XIN SỐNG LẠI

 

Cho xin sống lại những ngày xưa cổ tích.

Chiều Âu Cơ ru giấc ngủ Lạc Long.

Trăm trứng sanh ra con cháu Tiên Rồng.

Lập Đế nghiệp bốn ngàn năm dựng nước.

 

Cho xin sống lại những đời Vua thuở trước.

Trưng nữ vương - Nguyễn Huệ, Lý, Lê, Trần.

Tháo ách vong nô, mở rộng non sông.

Đưa dân tộc đến thanh bình thạnh trị.

 

Cho xin sống lại những lời thề hào khí.

Hội Diên Hồng “Quyết Chiến” chống xâm lăng.

Bình Trọng sắc son một dạ thốt rằng:

‘’Làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc “.

 

Cho xin sống lại những anh hùng đuổi giặc.

Tuổi ấu thơ như Phù đổng Thiên vương.

Và bóng cờ “Phá cường địch, báo Hoàng ân “.

Trần quốc Toản, người thiếu niên oanh liệt.

 

Cho xin sống lại những Thiền Tăng tuấn kiệt.

Như Quốc sư Vạn Hạnh mãi vang danh.

Pháp Thuận chèo đò ứng đối thông minh.

Cùng Khuông Việt đón sứ Tàu Lý Giác.

 

Cho xin sống lại ngọn lửa thiêng Bồ tát.(1)

Thức tỉnh lòng người, soi sáng vô minh.

Lưu trái tim thương thắm đượm bao tình

Mong Đạo pháp được tồn sinh phấn phát.

 

 

Cho xin sống lại trang sử xanh Hồng Lạc.

Trỗi cung đàn theo điệu nhạc quê hương.

Réo rắc âm ba khúc hát kiên cường.

Phật giáo - Việt nam vẫn muôn đời sống mãi.

 

          Sài Gòn 1979

___________

Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân,

Hộ trì Phật giáo ngày 20 tháng 4 Quý Mão 1963

 

 

 

 

Thơ Không đề

 

Cho giòng đời xuôi chảy.

Cho lòng người nở hoa.

Cho nhịp cầu giao cảm.

Cho tình khúc nên thơ.

 

 

 

 

ĐOẠN ĐỜI HIỆN THỰC

 

Tôi sinh ra đời,

Dưới bầu trời đầy sao lắp lánh.

Giữa đêm đông lành lạnh.

Trong mái tranh nghèo miền thôn dã,

Bên cạnh thành phố Phan Thiết,

Tỉnh Bình Thuận - quê tôi.

 

Rồi từ đó,

Tôi lớn lên theo giòng chảy cuộc đời.

Bước chân đi trong tiếng đạn nổ bom rơi.

Của quê hương qua hai thời kỳ chinh chiến.

Trường đời thực tiển,

Đã dạy tôi nhìn thấy máu đổ, lệ rơi.

Với những thây phơi lăn lóc,

Những nhánh xương tức tửi rụng rơi.

Trên đất trống, gò cao, núi đồi, thung lủng.

Trên đồng lúa, vườn rau tươi thắm dạt dào.

Biết bao công lao vun trồng chăm bón.

Nay chỉ còn hố bom lổ đạn đào sâu!

 

Việt nam ơi! Mẹ Việt nam!

Thân Mẹ gầy xơ xác,

Héo hon máu lệ tuôn trào.

Xuôi giòng bến đổ.

Réo rắc nỗi buồn lên cao.

Và những tiếng thét gào ai oán,

Vọng giữa sương khuya,

Của kẻ còn sống sót khổ đau.

Những cảnh ấy,

Ôi thảm não làm sao?

Ký ức tôi đã chép thành bài học,

Học thuộc lòng hơn mười mấy năm qua.

Tôi nghe hồn mình nức nở rên la.

Và ngất lịm giữa đoạn đời hiện thực.

        

          Đà Lạt Mậu Thân 1968

 

 

 

NHỚ CHA

( Kính vọng hương linh thân phụ)

 

Cha đã chơi xa biệt núi ngàn.

Hành trang bỏ lại cõi trần gian,

Tròn xong một kiếp người muôn thuở.

Thương tiếc, cha ơi! Giọt lệ tràn !

 

Con khóc đời con lắm phũ phàng.

Thâm tình phụ tử sớm ly tan.

Ơn cha vòi vọi chưa đền đáp.

Tủi thẹn công danh chịu lỡ làng.

 

Cha vẫn nằm im dưới đáy mồ,

Cách con mỏng mảnh có đường tơ.

Một mai hơi thở con im tiếng.

Mới đến cùng cha những đợi chờ.

 

Để nhớ chiều nay mưa gió gào.

Khắc lên bia đá vết thương đau.

Ngày cha vỉnh biệt không còn nữa.

Thiên cổ, hồn cha ngự ở đâu?

              

            Phan thiết 26.05 Nh. Tân Hợi ‘71

 

 

VIẾNG CỐ ĐÔ HUẾ

 

Tôi về thăm Huế, đất Trung đô. 

Thành nội rêu phong trải nắng mưa.

Thái miếu hoang tàn, hương tẻ nhạt.

Hoàng cung quạnh quẽ, chẳng ngai vua.

 

Đàn tế Nam Giao đổi Liệt đài!

Mồ lăng vật báu biến đâu rồi?

Sông Hương rác rưởi khơi giòng đục.

Chợ phố đèn đêm tối vắng người.

 

Vẳng tiếng chuông rền ngân kệ kinh.

Chùa xưa còn đậm nét hư linh.

Rạng ngời tháp cổ soi hồn nước.

Đoái cảnh tang thương, gợi chút tình!

                                      

           Huế, cuối Xuân 83

 

VỀ LẠI CỐ ĐÔ

 

Nhớ Huế lại về thăm Đế đô .

Lần này dáng Huế khá hơn xưa.

Điện đền, phố xá, khơi mầu sắc.

Tà áo bay nghiêng nón đón chờ.

 

Vận hội chuyển mình đang đổi mới.

Thời cơ lập lại cuộc hồi sinh.

Giòng đời biến chuyển theo năm tháng.

Huế của quê ta thắm đượm tình.

 

Bến nước sông Hương vẫn lững lờ.

Ngược xuôi thuyền khách láy cung tơ.

Khoan hò nhạc điệu lan theo gió.

Gọi chút hồn xưa vọng Đế đô.

 

          Huế 1995

 

 

LỄ ĐỀN HÙNG.

 

Một sớm tôi về thăm đất Tổ.

Nhằm ngày kỵ giỗ các vua Hùng.

Chiếc nôi Lạc Việt hồn xưa ấy.

Còn mãi uy linh, đức ngưỡng sùng.

 

Dâng tấm lòng son lên lễ Tổ.

Cội nguồn con cháu quyết gìn chung.

Bốn ngàn năm vẫn thơm Văn hiến.

Trải đẹp non sông nước Việt hùng .

 

                  Ngày 10 tháng 3 Bính Dần 1986



LỄ CHÙA HƯƠNG

 

Lối về Hương Tích phủ sương mờ.

Bến Đục, Đền Trình, tỏa bóng mơ.

Đò khách ngược xuôi, mùa trẫy hội.

Thiên Trù vang vọng tiếng chuông xưa.

 

Bồ tát Quán Âm ngự thạch tuyền.

Đây rồi ‘’Đệ nhất động Nam Thiên.’’

Tầm thinh cứu khổ vì đời khổ.

Thị hiện ứng thân dạo khắp miền.

 

Cảnh đẹp thiên nhiên rất hữu tình.

Bức tranh tạo hóa vẽ tươi xinh.

Chập chùng núi thẫm, trời mây nước.

Cực lạc, non bồng, đất Phúc linh.

 

             Chùa Hương, Xuân Bính Dần '86.

 

 

 

ĐƯỜNG LÊN YÊN TỬ

 

Yên tử sơn, đường lên đất Thánh.

Bao đoạn suối rừng, mấy nổi gian nan.

Vó ngựa ngày xưa vượt thoát ngục vàng.

Tìm ánh Đạo, xua tan bao tục lụy.(1)

 

Hồn cung nữ, trôi theo giòng thệ thủy.

Chùa Giải oan, nghi ngút khói băng trinh.

Ôi! phút ly tan, trọn một chữ Tình !

Cho ai đó đinh ninh lời nguyện ước.(2)

 

Xã tắc sơn hà, lo rồi việc nước.

Đường viễn phương, tiếp tục bước đăng trình.

Kiếp phù sinh, quyết gởi chốn vô sinh.

Núi Yên tử, xin hiến mình phụng Đạo.

 

Hành khổ hạnh, ngộ thiền cơ rốt ráo.

Trỗi pháp âm, ban bảo độ hàm linh.

Trở giấc vô minh, chứng quả tam minh.

Khơi mạng mạch dòng Trúc lâm Yên tử.

 

Nay trở về nơi cội nguồn lịch sử.

Được tắm mình trong "hoạt ngữ" Thiền tông.

Được chở che dưới bóng mát đại tòng.

Bảy thế kỷ ngát xanh và xanh mãi.

 

Tháp cổ uy nghiêm, rêu phong cỏ dại.

Chùa Hoa Yên, chùa Một Mái, Tiêu Sơ.

Am Ngọa Vân, Điều ngự tịch bao giờ.

Suối Doanh chảy, trong ao còn hiện bóng.

 

 

Rừng trúc bạt ngàn, mưa phùn gió lộng.

Nghe lạnh lùng Bảo Sái đến Cung Tiên.

Tượng An Kỳ Sinh sừng sững đứng yên.

Như vương vấn chút hồn thiêng Đạo sĩ.

 

Đá trải sườn non, vòng lên kỳ vĩ.

Đường cheo leo in đậm dấu chân xưa.

Ngước mắt xa trông bia Phật đón chờ.

Thấp thoáng hiện chùa Đồng trên sơn đỉnh .

 

Chất ngất trời mây, sương mờ, cảnh tịnh.

Chuông ngân nga, hương khói quyện cầu nguyền

Cảnh đẹp quê hương, thắng tích diệu huyền.

Đây tiếng thở của dòng Thiền nước Việt.

 

                  Núi Yên tử, tháng 3, Bính Dần 1986

_______

(1) Vua Trần Thái Tông

2) Vua Trần Nhân Tông

3) Nơi Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông tắm.

 

 

 

 

ĐẾN  VIÊNG-CHĂN

 

Viêng-chăn hỡi! Giữa đèn đêm loang loáng.

Trăng lên cao soi bóng đợi ai về?

Lòng viễn khách theo xe đò đến bến.

Ngả ba đời, cát bụi lắng đường khuya.

 

Đây Lào quốc, đây Kinh đô Phật giáo!

Mảnh hoàng y trải rộng với thời gian.

Đây Thạc Luỗng, đây chùa chiền cao ngất.

Đây uy linh muôn thuở Ánh Đạo Vàng !

 

Một buổi sáng, khách dừng bên bến nước.

Giòng Mê-kông trôi chảy tận xa ngàn.

Trong êm ả, khơi nguồn từ Tây vức.

Dọc đôi bờ, bao cửa khẩu chia ngăn!

 

Xin cầu nguyện cho Tình Thương Nhân Bản.

Được chan hòa như con nước giòng sông.

Cho mạch sống tương lai càng xán lạn.

Cho thanh bình tràn ngập khắp muôn lòng!

 

          Vientian đầu Hạ Kỷ Tỵ 1989

 

 

 

 

ĐẾN PHNOM PENH

 

Tôi đến Nông- Bênh một buổi chiều.

Mưa gào, gió hú, cảnh đìu hiu.

Phố buồn thưa thớt người qua lại.

Đâu đó hồn ma thảm thiết kêu.

 

Chung một giống nòi sao nhẫn tâm?

Giết nhau vì Chủ nghĩa chia phân.

Hận thù chất ngất mùi oan khí.

Cửa Phật, Tháp Chùa, cũng bội ân!

 

Vắng ngắt y vàng, Sư ở đâu?

Phật ngồi thương cảm, bụi giăng đầu.

Bên thềm thánh điện còn in bóng.

Một thuở uy linh, tiếng nguyện cầu.

 

Bến nước Mê-kông chảy dịu dàng.

Cung thành, điện các, chủ ly tan.

Chùa vàng, chùa bạc, mời du khách.

Quốc báu, hồn xưa chóng phế tàn.            

 

Nhìn cảnh vô thường, tâm chúng sinh.

Xót đời lâm vấp bước điêu linh.

Nào hay trong cõi tang thương ấy.

Non nước trời mây rất hữu tình.

 

            Thủ đô Phnom Penh, lần đầu vào Hạ ’86

 

 

 

CẢNH THU

 

          Trời Thu xanh thẳm niềm tin  ,

Mây Thu trắng tuyết như in tấm lòng.

          Gió Thu man mác lời dâng,

Mưa Thu rỉ rả lâng lâng nhạc huyền.

          Sương Thu lạnh tắt ưu phiền.

Khói Thu lan tỏa hương thiền gần xa.

          Nắng Thu ấm dịu hồn hoa,   

Lá Thu vàng úa la đà tử sinh.

          Hồ Thu phẳng lặng tâm minh,

Trăng Thu vằng vặt bóng hình nguyên sơ.

          Chiều Thu én liệng bâng quơ,

Đêm Thu tĩnh mịch suối mơ điệu Từ.

          Cảnh Thu ai dệt nên thơ?

Tình Thu thanh thoát bây giờ là đây!

         

          Phan Thiết, Thu 1980

 

 

 

 

NGÀY TRỞ VỀ

 

Kính dâng nhị vị HT Quảng Độ, HT Đức Nhuận,

 

Trải mấy mươi năm sống cách xa.

Xa chùa, lòng vẫn nhớ bao la.

Ngày nay về lại dài râu tóc.

Bạn cũ ngày xưa nhìn chẳng ra.(1)

 

Xúc động ôm nhau, mắt lệ nhòa,

Thương đời, phụng đạo, mến quê ta.

Cùng chung lý tưởng, cùng chung tội.

Ba lượt tù đày vẫn thiết tha.

 

Hai tấm lòng trong triệu tấm lòng.

Cội nguồn Tiên tổ giữ gìn chung.

Tài bồi nhân ái, tình đoàn kết.

Xây dựng Quê hương - Đạo pháp hùng.

______________

(1) Tân Sơn Nhứt, Sài gòn 15giờ, 2/9/98 ,

Ngày HT Quảng Độ vừa ra tù, từ đất Bắc vô Nam bằng máy bay. 

HT Đức Nhuận, GN cùng Tăng ni Phật tử khoảng gần 100 vị

ra sân bay cung đón Ngài. Khi gặp nhau, HT QĐ không nhìn ra HT ĐN,

Vì trải qua 20 năm lần lượt bị tù đày, anh em không gặp nhau.

Khi nhận ra, hai Ngài ôm nhau khóc. Hình ảnh đó,

GN rất xúc động liền cảm tác thành thơ ngay tại chỗ,

dâng tặng hai Ngài trong lúc nghỉ ngơi tại sân bay.

Hai Ngài nghe xong rất hoan hỷ.

 

 

 

 

ANH VẪN SỐNG

 

       Kính tặng Thầy Tuệ Sỹ

 

Anh vẫn sống giữa bao người đã chết.

Anh trở về từ địa ngục trần gian.

Thân xác anh dù héo úa phai tàn.

Mắt anh vẫn sáng ngời vầng tuệ trí.

 

Là tu sĩ, anh hiện thân Chân lý.

Vì tình thương anh gánh lấy tai ương.

"Thân phận mình như định phận quê hương" (*).

Chịu án Chết để bao người được Sống .

 

Hồn anh trải thành lời kinh vang vọng.

Kinh Tình thương, kinh Nhân bản Việt Nam.

Cho hận thù bạo ác sớm tiêu tan.

Cho ánh đạo khơi nguồn trang sử Phật.

 

          Quảng Hương Già lam

          Đầu thu Mậu Dần 1998

_____________

 (*) Lời thơ Thầy Tuệ Sỹ

 

 

 

 

 

CƠN ÁC MỘNG

 

Đêm qua tôi nằm mơ.

Giữa cơn mưa tầm tã.

Nghe hồn mình bơ vơ.

Lạc vào phương trời lạ.

 

Rồi có một bàn tay.

Xòe vuốt nanh lông lá.

Chụp bắt lấy hồn tôi.

Máu hồng rơi lả tả.

         

Tôi gào thét thật to .

Để van xin buông thả.

Nhưng nào thấy gì đâu.

Càng la càng rát cổ.

 

Trong vô vàn đau khổ.

Trong tận cùng ngất ngư.

Có bàn tay mầu nhiệm.

Ban phép lạ Đại từ.

 

Tôi nghe hồn ấm lại.

Thầm gọi Việt Nam ơi!

Xin hận thù im tiếng.

Cho tình Mẹ lên ngôi.

 

Con tim nào không máu?

Buồng phổi nào không hơi!

Quan Âm thường ứng hiện.

Xin cứu vớt quê con.  

 

 

Chấp tay con quỳ xuống.

Xin nguyện cầu mười phương.

Cho bình an đất Mẹ.

Cho dân mình yêu thương.

 

Cho anh em nhìn nhận.

Và nắm lấy tay nhau.

Cho đọa đày tang tóc.

Vơi dần bao thương đau.

 

Hỡi quê hương Việt Nam!

Sáng soi nguồn nắng mới.

Hởi con Hồng cháu Lạc!

Thôi buông tay bạo tàn.

 

Người ơi nghe tôi nói.

Chỉ có đôi bàn tay.

Thoát thai từ trăm trứng.

Chung giòng máu Tiên Rồng.

Ôm tình thương vẫy gọi.

Việt Nam, Việt Nam ơi!

 

            Sài gòn đầu tháng 4  1975

         

 

 

 

 

BÊN CẠNH CUỘC ĐỜI

 

Không uống rượu mà hồn ngất ngây

Đưa ta lên tận chín tầng mây.

Rải thơ vọng xuống lời Kinh tụng.

Cho khách trần gian bớt đọa đày.

 

Đày đọa linh hồn quá khổ đau.

Quê hương ly loạn ngập u sầu.

Hồn ma tức tưởi trong khuya vắng.

Bom đạn từ xa vẫn thét gào.

 

Gào thét hận thù xương máu rơi.

Ai gieo tang tóc khắp ngàn nơi.

Cho lòng khuê phụ cô đơn lạnh.

Bao chiếc khăn sô đẫm lệ đời.

 

Đời mãi cuồng quay trong đảo điên.

Ru theo nhạc điệu của kim tiền.

Đam mê lạc thú rồi buông xả.

Thế sự nhân tình như lãng quên.

 

Quên kẻ mồ côi không mẹ cha.

Lang thang đói lạnh chẳng quê nhà.

Ngày đi rao hát, đêm nằm đất.

Đâu nữa công bằng với vị tha.

 

Tha thiết thương ai đã lỡ đời.

Phấn hương ủ dột, cánh hoa rơi.

Dập vùi nát tấm băng trinh ấy.

Tìm lại đâu ra một kiếp người.

 

 

Người hởi có nghe trong tiếng thơ!

Giọt sầu ứ đọng tự bao giờ.

Sầu cho cái nợ thi nhân trót.

Canh cánh bên lòng mộng với mơ.

 

Mơ ước quê hương sớm thái bình.

Cho bao nhịp thở được hồi sinh.

Cho im súng đạn, vơi thù hận.

Giấc ngủ em thơ khỏi giật mình.

                  

            Sài Gòn 1973

 

 

 

 

NHÌN LẠI

 

Nhìn lại khắp quê hương tràn khói lửa.

Lửa hận thù ngun ngút cháy lan xa.

Còn gì đâu? Tổ quốc với Quê ta!

Đạn pháo ngoại bang xéo dày đất Mẹ.

 

Thỏa cơn giận tranh giành vì chủ nghĩa.

Cả muôn đời gầy dựng hóa tro tàn.

Cả ngàn năm sự nghiệp cháy thành than.

Xương với máu ngập lút đường hậu hoạn.

 

Hỡi con người si mê trong cuồng loạn!

Gây chiến tranh giết hại lẫn nhau chi.

Lợi gì đâu? Chuốc lấy những ai bi!

Oán trả oán mãi đến khi nào hết?

 Đời vẫn đẹp, sao dấn thân chỗ chết?

Đời vẫn vui, sao chẳng hưởng dài lâu?

Trời hiếu sinh, cây cỏ vẫn đâm chồi.

Người hiếu sát, đào hố sâu tội ác.

 

Luật nhân quả đã hiển nhiên trước mắt.

Gốc tử sinh do tạo tác dữ lành.

Gieo nhân chi, gặt quả đó rành rành.

Nghiệp luân chuyển theo như hình với bóng.

 

Hãy nguôi đi, tiếng oán hờn thù hận!

Hãy im đi, lòng kiêu hãnh hư danh!

Hãy bứt tung những xiềng xích vô minh !

Hãy mở rộng tình thương trong Đại Ngã.

 

 

Khắp vũ trụ là của chung tất cả.

Muôn loài đều đồng một dạ anh em.

Cũng có giòng máu chảy đỏ con tim

Cùng giọt lệ chan hoà mằn mặn nóng.

 

Tay dang tay, đoàn kết nhau chung sống.

Đời tiếp đời, xây hạnh phúc tương lai.

Đức Từ bi, hạnh Bác ái ai ai.

Có thực hiện mới đúng là Nhân bản.

 

            Đà lạt Tết Mậu Thân 1968

 

 

 

 

 

TIẾNG KHÓC TRẺ THƠ

 

Này con hởi! Biết đời là bể khổ.

Sóng lệ trào theo tiếng khóc ban sơ.

Đến đây chi để rồi con nức nở.

Cho giọt sầu ứ đọng trái tim thơ.

 

Hay con khóc vì con vừa thoát chết.

Từ bào thai giọt máu mới cưu mang!

Rồi hoảng sợ con khóc gào thảm thiết.

Mong mẹ hiền che chở được bình an.

 

Hay con khóc thân phận mình bất hạnh.

Thuở chào đời không hưởng trọn yêu thương.

Bầu sữa mẹ cạn dần trong đói lạnh.

Dâng nghẹn ngào cho tiếng khóc quê hương.

 

Hay con khóc rồi đây con sẽ phải.

Sống âm thầm vô vọng thiếu ngày mai.

Khung trời nhỏ con nhìn về ái ngại.

Giữa mù khơi tận thế đến bên rồi.

 

Và năm tháng theo giòng đời trôi nổi.

Con lớn lên trong tiếng khóc tủi buồn.

Hồn dã thảo mơ về muôn vạn lối.

Con u sầu cho quê mẹ tang thương.

 

Hay con khóc những tên người vong bản.

Bán linh hồn cho ác quỷ sa-tăng.

Nín đi con ngày mai trời lại sáng.

Thanh bình về tràn ngập ánh vinh quang.

 

            Sài gòn đầu tháng 4. 1975



TƯỞNG NIỆM QUÁCH THỊ TRANG

 

Tên Người là loài hoa trang.

Màu hoa học trò trong sạch.

Như lòng băng trinh tuyết bạch.

Như má ưng ửng duyên vàng.

 

Ba sắc hoa trang tưởng niệm.

Cài lên nấm mộ nghĩa trang.

Tiếc thương loài hoa bất hạnh.

Chết vì súng đạn hung tàn.

 

Ý chí Trang như kiếm ngời loang loáng.

Trang đứng lên đòi bình đẵng nhân quyền.

Ngàn tiếng hịch, vạn lời tuyên.

Trang đi tới trước, từng đoàn theo sau.

Chợ Sài gòn sáng hôm nao,

Máu Trang đổ xuống, tan bao hận thù.

Trang về an giấc ngàn thu,

Hồn Trang sống mãi ngút mù khói sương.

Từng trang sử Việt lên hương.

Nguyện cho dân tộc đau thương chẳng còn.

 

          Sài gòn 1973

 

 

 

 

THƠ KHÔNG ĐỀ

 

Cuộc đời hết tỉnh lại rồi say.

Đeo đuổi công danh nhọc xác gầy.

Nợ nước những mong lo báo bổ.

Ơn dân nào quản nguyện bồi xây.

Hiền nhân hết lối, làm Tăng đạo.

Quạn tử cùng thời, giả dại ngây.

Vinh nhục một câu tròn khí thổ.

Mai sau khỏi thẹn đấng râu mày.

 

 

Bao năm lận đận chốn Trường an.

Nặng nợ văn chương tuổi chóng tàn.

Nghiên bút đã không xoay vận nghiệp

Nâu sòng chi để lụy tâm can.

Ra đi những tưởng danh thành đạt.

Nghoãnh lại nào hay mộng lỡ làng.

Một cổ ngựa hồng dong ruỗi bóng.

Sắc - không còn lại mảnh hồn hoang.

 

            Vạn Hạnh Sài gòn 1972

 

 

 

 

HAI MẦU PHƯỢNG

 

Trời Cali. bước vào mùa phượng nở.

Hè đã sang báo hiệu sắp tan trường.

Hoa phượng tím rơi đầy trên khu phố.

Thêm nặng lòng gợi nhớ đến quê hương.

 

Trời Sài Gòn bây giờ vào nắng hạ.

Phượng thắm tươi đỏ rực khắp sân trường.

Tuổi học trò vẫn miệt mài sách vở.

Mỗi độ hè về, mỗi độ luyến thương.

 

Hai mầu phượng, hai khung trời diệu vợi.

Buổi chia tay, nào hẹn cuộc tao phùng?

Bao ước mơ theo dòng đời trôi nổi.

Thành bại, vui buồn, sương khói mông lung.

 

Chuyện ngày xưa mãi còn vương kỷ niệm.

Đã qua rồi mộng đẹp thuở xuân xanh.

Chuyện ngày nay vẫn dập dồn xao xuyến.

Nghe cuộc đời vừa trở giấc tàn canh.

 

            Cali. Hè 2003

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VỌNG NƯỚC NON

 

Tưởng niệm những anh hùng liệt nữ

đã vì nước hy sinh.

 

Chim xa rừng, thương cây nhớ cội.

Người xa quê, vọng tổ hoài tông.

Tạ từ mấy độ thu đông,

Trông vời đất Mẹ mà lòng khôn nguôi.

Đêm tới lui ngậm ngùi châu lệ.

Ngày lại qua ước thệ sắc son.

Còn trời, còn nước, còn non.

Còn dân Hồng Lạc là còn Việt Nam.

 

Nước Việt Nam đời đời bất diệt.

Bao anh hùng tuấn kiệt lừng danh.

Điểm tô đậm nét sử xanh,

Dựng cờ Độc lập, xây thành Tự do.

 

Có Tự do, ấm no, hạnh phúc.

Sống thanh bình tiếp tục chăm lo.

Làm nên thịnh vượng cơ đồ,

Văn minh ôm trọn giấc mơ vào lòng.

Người ơi có thấu hay không?

         

          California 2005

 

 

 

 

CHIM HÓT NỬA ĐÊM

 

Nửa đêm nghe chim hót.

Làm rung đọng hồn thơ.

Tiếng chim kêu lảnh lót .

Vang vọng tự bao giờ?

 

Phải chăng chim lẻ bạn.

Gọi đàn trong sương khuya.

Xa rừng thương nhớ cội.

Quê xưa lỗi hẹn về?

 

Chim ơi đừng hót nữa.

Hồn ta như tiếng chim.

Bao nỗi niềm trăn trở.

Lạc lõng giữa đêm đen.

 

Thời gian nhanh chóng quá!

Dòng đời mãi nổi trôi.

Xin cảm thông chim nhé!

Một đêm nữa qua rồi.

 

            Cali. 0 giờ 15 .  01. 05. 2004

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐIỆP KHÚC ĐÊM ĐÔNG

 

 

Gió thổi từ xa giá lạnh về.

Đêm đêm gợi nhớ mảnh tình quê.

Trăng tròn trở giấc lay hồn nước.

Thương xót dân nghèo chịu thảm thê.

 

Em ở phương ngoài em có hay?

Thân tôi mang nặng kiếp lưu đày.

Nối từng nhịp thở trên đầu cỏ.

Nương bóng thời gian theo khói mây.

 

Chớ bảo rằng tôi đã chóng quên.

Người em gái nhỏ rất thân quen.

Ra đi vượt biển tìm nguồn sống.

Hạnh phúc - Tự do khỏi lụy phiền!

 

Chẳng biết giờ này em ở đâu?

Đi làm vất vả suốt điêm thâu.

Hay nghe nhạc điệu văn minh ấy.

Ru ngủ hồn em chết lịm rồi!

 

Em hỡi còn nghe tiếng nước non!

Tang thương tràn ngập những u hờn.

Dân mình đã khổ càng thêm khổ.

Chẳng ngóc đầu lên đủ áo cơm.

 

Tôi thấy những người gánh củi than.

Chân trần khuya vắng, lội gian nan.

Nửa đường bị chặn thu gom hết.

Chẳng đổi gạo khoai, đói cả làng.

 

 

 

Tôi thấy một người bệnh rét run.

Co ro nằm giữa túp lều khum.

Vài manh chiếu rách che mưa nắng.

Cơm thuốc nào đâu có để dùng.

  

Tôi thấy những thằng bé cỏn con.

Mình trần như nhộng giữa mưa giông.

Mặt mày tiều tụy thê lương quá.

Tổ ấm gầm cầu, có khổ không?

 

Tôi thấy bao người rách tả tơi.

Lang thang giường đất với màn trời.

Lượm từng đồ vật bươi trong rác.

Xin chút cơm thừa giữa chợ mai.

 

Tôi thấy một người chết quạnh hiu.

Bên đường bó chiếu nằm cô liêu.

Hương đèn mờ nhạt, không ai đốt .

Giữa lúc người qua lại dập dìu.

 

Tôi thấy người ta hốt của dân.

Đuổi xua chiếm đất, lấy nhà ngang.

Đưa kinh tế mới, thân đày đọa.

Đói khổ lầm than, bệnh chết dần.

 

Tôi thấy cụ già, bà mẹ quê.

Lưng còm răng rụng, nuốt ngô khoai.

Bo bo, gạo sắn chia tiêu chuẩn.

Cổ nghẹn thều thào, thương xót ghê!

 

Tôi thấy người cha đã mất con.

Ra đi “nghĩa vụ” tuổi trăng tròn.

Xác vùi đất khách không hay biết.

Lúc được tin về: “liệt sĩ” non......

 

Cảnh khổ quê hương tôi thấy nhiều.

Nói sao cho hết hỡ em yêu!

Cho em hiểu được lòng tôi đã.

Ngất liệm như hồn con quốc kêu.

  

Thôi nhé trách hờn chi nữa em!

Mai này non nước thực bình yên.

Em về góp một tình thương nhỏ.

Sưởi ấm hồn quê khắp mọi miền.

 

Sài gòn trọng đông 1979



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/09/2023(Xem: 2471)
Nhiều lần viết thư em thường mong được giúp! Làm sao thả lỏng tâm trí để ngẩng cao đầu Phản ứng người khác khiến thao thức đêm thâu Ôi ! chỉ biết trả lời ….“ Em cứ khóc, nhưng em đừng gục ngã “
22/09/2023(Xem: 1645)
Hương mây quyện giữa dòng hư huyễn Ai bồi hồi đưa mắt dõi xa xăm Chạnh dâu bể dăm khi hồn nức nở
19/09/2023(Xem: 1785)
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng, Ni, Kính thưa Quý Thiện Trí Thức Phật Tử và Văn Nghệ Sĩ, Để tri ân những đóng góp của một bậc cao Tăng thạc đức trong dòng sống của Dân tộc và Phật giáo Việt Nam suốt hơn 60 năm đầy biến cố vừa qua, chúng con (chúng tôi) đang chuẩn bị phát hành Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Qua lá thư này, chúng con (chúng tôi) xin thành tâm kính mời Chư Tôn Đức Tăng, Ni cùng Quý Thiện Trí Thức Phật Tử và Văn Nghệ Sĩ đóng góp vào tác phẩm có giá trị rất đặc biệt này. Chúng con (chúng tôi) thành thật xin lỗi trước nhưng yếu tố thời gian sẽ ảnh hưởng quan trọng đến việc phát hành. Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ sẽ được phát hành trong vòng một tháng kể từ hôm nay 17 tháng 9, 2023. Bài viết xin gởi đến Ban Báo Chí & Xuất Bản thuộc Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN tại địa chỉ email hdhp.bbc@gmail.com. 🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
16/09/2023(Xem: 1310)
Ba cõi hương huân sáng ánh vàng Úc Châu tu viện cảnh nghiêm trang Thiền sư NGUYÊN TẠNG trì Tam Tạng Viện chủ TÂM PHƯƠNG trụ Đạo Tràng QUẢNG ĐỨC TRANG NHÀ hằng chuyển pháp VIỆT NAM VIỆT PHẬT quyết hoằng dương
16/09/2023(Xem: 1191)
Kính ngưỡng vọng Đức U Minh Giáo Chủ! Được Phật Thích Ca ngợi khen: “ TỪ BI KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN” Bất cứ khổ nạn gì, theo lời đại nguyện (1) đã âm thầm gia bị tội khổ được bình an Kính mượn lời thơ một danh tăng để ghi lại (2)
11/09/2023(Xem: 931)
Quay về thực tại ngắm trời trong Quẳng gánh sầu ưu dạo cửa không Mõ sớm chuông chiều rơi tục bụi Kinh khuya kệ tối chuyển trần hồng
11/09/2023(Xem: 1674)
Ngày tôi đi chẳng có gì quan trọng Lẽ thường tình như lá rụng chiều thu Như hoa rơi, gió cuốn bên lưng đồi Sanh lão bịnh tử giữa dòng đời động loạn
10/09/2023(Xem: 1412)
Sớm khuya nhặt nhạnh giấc mơ Góp gom ý nguyện nằm chờ nghe chuông Ngày mai lên đỉnh sầu buồn Hát vang tuyệt khúc, thả buông kinh thiền.
10/09/2023(Xem: 1411)
Có thể hoàn cảnh hiện mình đang sống do quả ….gặt! Nhưng để đạt mục tiêu hoàn thiện ….đừng biện minh Trong một thế giới hiện đại đôi khi sự thật …KHÓ TIN Vì luôn có chênh lệch lớn trong cách nhìn thế giới!!!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567