Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

43. Đại Kinh Phương Quảng

19/05/202010:21(Xem: 7351)
43. Đại Kinh Phương Quảng

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


43. Đại Kinh PHƯƠNG QUẢNG
( Mahàvedalla sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, đức Thế Tôn an trụ
          Kỳ Viên Tự  – Chê-Tá-Va-Na  (1)
              Do Cấp-Cô-Độc tín gia
       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka (2) cúng dàng
          Lúc bấy giờ, có hàng Tôn-giả
          Là ngài Kô-Thi-Tá Ma-Ha  (3)
            ( Cũng gọi Đại Câu-Hy-La )
       Buổi chiều, sau lúc Thiền-na hành trì
          Liền đứng dậy, uy nghi trực chỉ
          Đến Tôn-giả  Sa-Ri-Pút-Ta  (4)
             ( Ngài Xá-Lợi-Phất cũng là ).
Đến nơi thi lễ, thuận hòa hỏi qua :
 
    – “ Hiền-giả ! Súp-Panh-Nha ( Liệt tuệ ) (5)
     ______________________________
 
(1) : Jetavana  ( Kỳ Viên ) . (2) : Anathapindika  (Cấp-Cô-Độc) .
(3) & (4) : Tôn-giả  Mahà Kotthita  ( Ma-Ha Câu-Hy-La ) là cậu 
    ruột của Tôn-giả Sariputta (  Xá-Lợi-Phất ) .   Khi thấy bà chị 
   mang thai ngài Xá-Lợi-Phất, bỗng nhiên trở nên hết sức thông
  tuệ , nên đoán là đứa cháu sắp ra đời sẽ là vị đại trí tuệ. Không
 muốn thua sút cháu, nên ngài chuyên tâm cần cố nghiên cứu sâu
 vào Vệ-Đà Kinh , đến nỗi  theo truyền thuyết  , ngài quên cả cắt móng tay .      Vì có các móng tay rất dài nên thời đó gọi ngài là ‘Trường Trảo Phạm-Chí’ .   Sau này xuất gia theo Phật, cũng là
một trong những cao-đồ của Phật. Ngoài Mười vị Đại đệ tử Phật
thường được nhắc đến , Ngài Ma-Ha Câu-Hy-La cũng là bậc Đệ
Nhất Đắc Giải .                       (5) : Suppanna : liệt tuệ .
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  084
 
          Gọi như thế, ý nghĩa là chi ? ”.
        – “ Hiền-giả ! Vì không tuệ tri  (1)
     ( Tức Náp-Pa-Chá-Na-Ti (1)  cũng là )
Nên được gọi đó là Liệt-tuệ.
          Không tuệ tri như thế là gì ?
              Khổ & Tập-đế không tuệ tri,              
       Diệt-đế cũng không tuệ tri, chẳng tường,
          Không biết đường đưa ngay diệt khổ.
          Chính vì chỗ không tuệ tri này
              Nên gọi là Liệt-tuệ đây ”.
 
 – “ Đại Trí Hiền-giả ! Lành thay trình bày ! ”.
          Kô-Thi-Ta ngài này hoan hỷ,
          Hỏi tiếp vị ‘Chánh Pháp Tướng Quân’(2) :
 
        – “ Này Hiền-giả ! Còn về phần
       Trí tuệ được gọi chánh chân là gì ? ”.
 
    – “ Hiền-giả ! Có tuệ tri như bể
Nên được gọi ‘trí tuệ’ như vầy.
              Nhưng có tuệ tri gì đây ?
       Tuệ tri Khổ & Tập-đế (3)  này sâu xa,
          Rồi tuệ tri : ‘Đây là Diệt-đế, (3)
         ‘Con đường để diệt Khổ’(3) tuệ tri.
              Vì có tuệ tri, tuệ tri 
       Nên gọi ‘trí tuệ’, sánh bì bảo châu ”. 
    ______________________________
 
(1) : Nappajanati –  Không tuệ tri.  
(2) : Tôn-giả Sariputta – Xá-Lợi-Phất  là vị Đại đệ tử Trí Tuệ Đệ 
    Nhất .    Ngài cũng được Chư Tăng tôn xưng là ‘Tướng Quân
    Chánh Pháp’.
(3) : Bốn Sự Thật hay Tứ Diệu Đế – Tứ Thánh Đế  ( Ariyasacca ):
    Khổ Đế ( Dukkha Ariyasacca ), Tập Đế ( Mudaya Ariyasacca ),
   Diệt Đế ( Nirodha Ariyasacca) ,  Đạo Đế ( Magga Ariyasacca) .
 
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  085
 
( Thức )
 
    – “ Này Hiền-giả ! Thế nào là Thức ?    
          Sao được gọi là ‘thức’ như ri ? ”.
         – “ Hiền-giả ! Là vì Thức tri
Nên gọi là Thức. Thức tri thế nào ?
Thức tri lạc, thức mau tri khổ,
Tri bất lạc bất khổ thức này.
              Chính vì Thức tri như vầy
Gọi là có Thức, hiểu ngay đủ đầy ”.
 
    – “ Này Hiền-giả ! Như vầy trí tuệ
Thức như vậy, những pháp hiểu thông,
              Chúng được kết hợp hay không ?
       Có thể nêu sự  dị đồng chúng không  ?
          Sau nhiều lần cố công phân tích ? ”.
 
    – “ Thưa Hiền-giả ! Phân tích sâu xa
              Trí tuệ như vậy, cùng là
       Thức là như vậy, hiểu qua như vầy.
          Những pháp này vẫn luôn kết hợp
          Không phải không kết hợp vững bền.
              Ta không có thể nêu lên
       Về sự sai khác pháp trên như vầy :
          Khi phân tích cả hai nhiều lượt
Tuệ tri được, Thức tri được ngay,
Thức tri được, Tuệ tri ngay,
       Nên được kết hợp pháp này viên thông,
          Chứ không phải là không kết hợp,
          Khi phân tích cho khớp nhiều lần.
              Không thể nêu lên về phần
       Sự sai khác những pháp cần nói đây ”.
 
     – “ Này Hiền-giả ! Như vầy trí-tuệ
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  086
 
Thức như vậy, được kể ở đây
              Giữa những pháp kết hợp ngay
Không phải không kết hợp, đây nói về
Phải tu tập ( Pha-vê-tá-phá )  (1)
Về trí tuệ nhuần nhã tức thì.
              Còn Thức (2) cần được liễu tri  (3)
     ( Pa-Rin-Nây-Dấng ) cấp kỳ trải qua.
          Như vậy là có sự sai khác
          Giữa những pháp ; ghi tạc điều này ”.
 
( Thọ )
 
         – “ Cảm thọ , ‘cảm thọ’ ở đây
       Đại Trí Hiền-giả ! Như vầy gọi tên.
          Như thế nào gọi tên ‘cảm thọ’ ? ”.
 
    – “ Thưa Hiền-giả ! Cảm thọ tức thì,
Cảm thọ ( tức Vê-Đê-Ti ) (4)
       Nên gọi cảm thọ . Thọ gì ở đây ?
          Cảm thọ lạc, cảm ngay thọ khổ,
          Hay bất lạc bất khổ thọ này.
              Do cảm thọ , cảm thọ ngay
       Nên gọi ‘cảm thọ’, như vầy hiểu qua ”.
 
( Tưởng )
 
    – “ Tưởng ( Sanh-Nha (5)) gọi tên như vậy,
          Này Hiền-giả ! Tưởng ấy thế nào ? ”. 
       – “ Tưởng tri (6), tưởng tri nhắm vào
    ______________________________
 
( ) : Tu tập – Bhavetabha .   (2) : Thức – Viññàna.
(3): Liễu tri : Parinnattha & Parinneyyam .    
(4) : Cảm thọ – Vedeti .
(5) : Tưởng – Sannà (có dấu ngã trên 2 chữ n ).
(6) :  Tưởng tri – Sañjànàti..
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  087
 
    ( Sanh-Cha-Na-Tí ) gọi mau Tưởng này,
          Tưởng tri đây là gì nghĩa đó ?
          Tưởng tri màu xanh, đỏ, trắng, xanh.
              Tưởng tri, tưởng tri ngọn ngành
       Nên gọi là ‘tưởng’, nên danh như vầy ”.
 
     – “ Này Hiền-giả ! Thọ này như vậy,
Tưởng như vậy, thì những pháp này
              Chúng có được kết hợp ngay ?
       Hay không kết hợp ? Khác sai thế nào
          Kết quả sau nhiều lần phân tích ? ”.
 
    – “ Thưa Hiền-giả ! Thọ đích như vầy,
Tưởng cũng vậy. Kết hợp ngay,
       Không phải không hợp đây vững bền,
          Không có thể nêu lên sai khác
Giữa những pháp, phân tích nhiều lần ”.
 
(Thắng tri )
 
        – “ Hiền-giả ! Ý thức tịnh thanh
       Nó không dính líu năm căn, các phần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân… đại để
          Nó có thể đưa đến gì chăng ? ”.
 
       – “ Thưa Hiền-giả ! Ý thức hằng
       Thanh tịnh, không liên hệ phần năm căn
          Có thể hằng đưa đến tuần tự
Hư Không Vô Biên Xứ cõi Thiên.
              Do hư không là vô biên            
Có thể đến Thức Vô Biên Xứ liền.
          Khi Thức là vô biên, tương tựu
          Đưa đến Vô Sở Hữu Xứ ni       
              Nơi không có sự vật gì ”.
 
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  088
 
– “ Pháp gì đưa đến, nhờ gì tuệ tri ? ”.
    – “ Để có thể tuệ tri pháp mới
          Được đưa tới nhờ ‘tuệ nhãn’ ni ”.         
 
        – “ Trí tuệ có ý nghĩa gì ?    
       Rất mong Hiền-giả thuận tùy giảng qua ”.
 
    – “ Trí tuệ là ‘thắng tri’ nghĩa đó,
          Hoặc còn có nghĩa nữa : ‘liễu tri’,
              Hoặc nghĩa ‘đoạn tận’ tức thì,
       Ý nghĩa trí tuệ giải y như vầy ”.
 
( Chánh Kiến )
 
    – “ Cụ thể, ngài Sa-Ri-Pút-Tá !
          Theo Hiền-giả, có bao nhiêu ‘duyên’
              Khiến chánh-kiến sinh khởi liền ”.
 
 – “ Chánh-tri-kiến sinh khởi, nguyên nhờ vào
          Tiếng người khác thấp cao, khả dĩ
Được như lý tác ý, cả hai ”.
 
        – “ Hiền-giả ! Chánh-tri-kiến này
       Phải được hỗ trợ ở đây ít nhiều                   
          Bởi bao nhiêu chi phần phải đạt
          Để có được giải-thoát-quả tâm ?
              Giải-thoát-quả công-đức tâm ?
       Tuệ giải-thoát-quả âm thầm đạt ngay ?
          Tuệ giải-thoát-quả này công đức ? ”.
 
    – “ Chánh-tri-kiến đây thực đã hằng
              Hỗ trợ bởi năm chi phần
       Để có giải-thoát-quả tâm thâm trầm
          Giải-thoát-công-đức tâm  quả đạt
          Tuệ giải-thoát-quả-công-đức cùng
Tuệ-giải-thoát-quả nói chung.
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  089
 
       Chánh-tri-kiến ấy tựu trung có phần   
          Giới (1)hỗ trợ, có Văn (2) hỗ trợ,
          Có ‘thảo luận’ hỗ trợ thêm vào,
              Có Chỉ (3), có Quán (4)  trước sau,
       Năm chi phần ấy hiểu mau như vầy ”.
 
    – “ Hiền-giả này ! Có bao nhiêu Hữu (5)? ”.
 
    – “ Có ba Hữu : ‘dục hữu’ đầu tiên,
             ‘Sắc hữu’, ‘vô-sắc-hữu’ liền,
       Đây là ba ‘hữu’ hiện tiền có ra ”.
 
    – “ Thế nào là ‘tái sinh’ kế tiếp
          Trong tương lai sẽ kíp xảy ra ? ”.
 
       – “ Thưa Hiền-giả Kô-Thi-Ta !
       Tương lai có sự duyên mà tái sinh
          Bị tham ái, vô minh ngăn bít
          Các hữu tình ưa thích chỗ này,
              Hay thích thú chỗ kia ngay ”.
 
 – “ Hiền-giả ! Sự tái sinh này tương lai
Không xảy ra, đúng sai sao vậy ? ”.
 
    – “ Tái sinh ấy không xảy về sau
              Vì vô minh xả ly mau,
       Minh khởi, tham ái diệt mau cấp kỳ ”.
 
( Thiền-na thứ nhất )
 
    – “ Này Hiền-giả Sa-Ri-Pút-Tá !
          Xin diễn tả về Đệ Nhất Thiền ? ”.
         – “ Hiền-giả ! Tâm không phan duyên
Thực hành thiền định, chi thiền nương theo
    __________________________
 
(1) : Giới – Sìla . (2) : Văn – Suta .  (3) : (Thiền) chỉ  –  Samadha .
(4) : (Thiền) quán – Vipassana .     (5) : Hữu – Bhava . 
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  090
 
          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục,
          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
              Trạng thái hỷ lạc an nhiên
       Sinh do ly dục, tâm chuyên Tứ, Tầm ”.
 
     – “ Nhất Thiền bao chi phần tất cả ?
          Xin Hiền-giả giải thích rõ ra ”.
 
         – “ Thưa Hiền-giả Câu-Hy-La ! 
       Về Thiền thứ nhất có là năm chi :
          Có ‘tầm’, ‘tứ’, rồi thì ‘hỷ’, ‘lạc’ (1),
          Và ‘nhất tâm’ (1) sớm đạt tịnh thanh ”.   
 
         – “ Này Hiền-giả ! Xin nói rành
       Nhất Thiền từ bỏ chi-phần bao nhiêu ?
          Và thành tựu bao nhiêu chi vậy ? ”. 
 
     – “ Nhất Thiền ấy từ bỏ năm chi
              Đồng thời thành tựu năm chi    
       Vị ấy từ bỏ năm chi-phần gì ?
          Là từ bỏ sân si, tham dục(2)
          Bỏ tiếp tục hôn trầm thụy miên(2)
              Từ bỏ trạo hối, nghi(2) liền.  
       Và năm thành tựu chi thiền tịnh thanh :
          Là tựu thành tầm tứ ( & sát ),
Hỷlạc, rồi nhất điểm tâm ”.
 
    __________________________
 
(1) : Năm Chi Thiền – Jhàna  :
  a/  Tầm  ( Vitakka ).    b/ Tứ  [sát] ( Vicàra ).    c/ Phỉ Lạc ( Piti ).
  d/ An Lạc  ( Sukha ).   e/ Định  ( Ekaggata – Nhất điểm tâm ).
(2) : Năm Triền Cái  ( Nivarana ) :
   a/ Tham dục – Kàmacchanda .    b/ Oán hận  ( sân) – Vyàpàda .
   c/ Hôn trầm, dã dượi  ( Thina – middha )
   d/ Phóng dật , lo âu hay trạo cử (hối) – Uddhacca – Kukkucca ).
   e/ Hoài nghi  ( Vicikicchà  ).
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  091
 
 ( Năm Căn )
 
         – “ Này Hiền-giả ! Về năm căn
       Khác nhau cảnh giới các phần trước sau    
Có hành giới khác nhau, bỉ thử
          Không có sự lẫn lộn, thọ vào
              Cảnh giới, hành giới lẫn nhau,
       Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nào chúng tri
          Cái gì làm sở-y cho chúng ?
          Cũng như chúng lãnh-thọ cái gì ? ”.
 
        – “ Thưa Hiền-giả ! Năm căn ni
       Chúng đã có Ý sở-y thuận tùng,
          Ý lãnh-thọ cảnh cùng hành-giới ”.
 
    – “ Này Hiền-giả ! Đối với năm căn
              Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân
       Do duyên gì năm căn-phần trú an ? ”.
 
    – “ Do ‘tuổi thọ’, năm căn an trú ”.   
 
    – “ Tuổi thọ được an trú do gì ? ”.
        – “ Do duyên ‘hơi nóng’ phủ vi,
       Tuổi thọ an trú tức thì ở đây ”.
 
    – “ Hơi nóng này duyên gì an trú ? ”.
 
    – “ Do ‘tuổi thọ’ an trú mà ra ”.  
 
       – “ Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta !
       Đã nghe Tôn-giả nói ra rõ là :
         ‘Tuổi thọ’ qua duyên ‘hơi nóng’ ấy,
Mà an trú như vậy trải qua,
              Nhưng nay Tôn-giả nói là
      ‘Hơi nóng’ do ‘tuổi thọ’ mà trú an,
          Thật phân vân, dường mâu thuẩn quá !
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG* MLH  –  092
 
          Mong Tôn-giả giải ý nghĩa này ? ”.  
 
        – “ Tôi cho một ví dụ ngay,
       Nhờ dụ, những người trí đây hiểu liền : 
          Ví như thắp cây đèn dầu đó,
Được ánh sáng nhờ có tim đèn.
               Do duyên ánh sáng cây đèn,
       Tim đèn được thấy, một phen rõ rồi.
          Cũng như vậy, do hơi nóng đó
          Mà tuổi thọ an trú tự nhiên.
               Và hơi nóng (1) được trú yên
Do duyên tuổi thọ, mối giềng là đây ”.
 
( Pháp thọ hành )
 
     – “ Hiền-giả này !  Thọ hành các pháp
        ( A-Du-Sanh-Kha-Rá (2) – từ này )
              Là pháp được cảm thọ ngay.
       Hay những pháp thọ hành này khác xa
          Với Vê-Đá-Ni-Da (3) các pháp
        ( Tức những pháp cảm thọ ) ở đây ? ”.
 
        – “ Hiền-giả ! Pháp thọ hành đây
Không phải pháp cảm thọ này, khác danh,
          Nếu những pháp thọ hành là pháp
          Được cảm thọ ; không hạp, thuận chiều,
              Thì không thể rõ ràng nêu
       Sự xuất khởi của Tỷ Kheo thực hành
          Đã tựu thành Diệt Thọ Tưởng Định  (4)
          Hiền-giả này ! Vì chính ở đây          
    __________________________
( ): Hơi nóng : Thân nhiệt con người .         (2)  Àyusankhàrà –
     pháp thọ hành .  (3) : Vedanìya – những pháp được cảm thọ .
   (4) :  Diệt Thọ Tưởng Định – Nirodhasamàpatti .
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  093
 
              Những pháp thọ hành như vầy
       Với pháp được cảm thọ này, khác xa
          Nên có thể nêu ra rõ với
          Sự xuất khởi Tỷ Kheo thực hành
              Diệt Thọ Tưởng Định tựu thành ”.
 
 – “ Hiền-giả ! Như đối với thân con người
          Khi nào thời bao nhiêu pháp có
          Được từ bỏ ; thân này tức thì
              Được từ bỏ, bị quăng đi
       Như một khúc gỗ vô tri, không cần ? ”.
 
    – “ Thưa Hiền-giả ! Với thân người đó
          Khi nào có ba pháp như vầy :
              Tuổi thọ, hơi nóng, Thức này,
       Không còn có nữa, bỏ ngay thân này ”.
 
    – “ Hiền-giả ! Có sự sai khác cả
          Vật đã chết ( tức đã mạng chung )
              Với vị Tỷ Kheo ung dung
       Diệt-thọ-tưởng-định tâm trung tựu thành ? ”.
 
    – “ Thưa Hiền-giả ! Hiểu rành như thực
          Vật chết rồi, chấm dứt thân hành
              Chấm dứt khẩu hành, tâm hành,
       Dừng lại ; tuổi thọ (sự sanh) diệt rồi.
          Hơi nóng cũng đồng thời tiêu diệt,
          Rồi kế tiếp, bại hoại các căn.
 
              Còn vị Tỷ Kheo tinh cần
       Diệt-thọ-tưởng-định tựu thành tịnh thanh,
          Thì thân hành vị này chấm dứt
          Và dừng lại ; chấm dứt khẩu hành,
              Chấm dứt, dừng lại tâm hành,
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  094
 
       Nhưng tuổi thọ, hơi nóng quanh vẫn còn,
Các căn đủ, vẫn còn sáng suốt.
          Như vậy thuộc việc sai khác xa
              Giữa vật chết  và vị mà
       Diệt-thọ-tưởng-định trải qua tựu thành ”.
 
( Tâm giải thoát )
 
    – “ Xin giải rành bao duyên chứng đạt   
Tâm giải thoát bất khổ & lạc(1) này ? ”.
 
        – “ Hiền-giả ! Có bốn duyên đây
       Để mà chứng nhập tâm ngài vừa nêu : 
          Vị Tỷ Kheo xả lạc, xả khổ,
          Diệt hỷ ưu, cảm thọ trước đây,
              Chứng và trú Tứ Thiền ngay,
       Không khổ, không lạc ( tâm đầy từ bi )
          Niệm thanh tịnh tức thì xả bỏ
          Do đã có cả bốn duyên này,
              Chứng nhập tâm giải thoát ngay
       Bất lạc bất khổ , như vầy hiểu ra ”.    
 
    – “ Có bao nhiêu duyên mà chứng đạt  
Vô lượng tâm giải thoát(2) như vầy ? ”.
 
        – “ Hiền-giả ! Có hai duyên này
       Để mà chứng nhập tâm ngài vừa nêu :     
          Vị Tỷ Kheo không có tác ý
Nhất thiết tướng, tác ý ở đây
              Vào vô tướng giới ; cả hai ,
       Vô tướng tâm giải thoát này chứng ngay ”.
    _______________________________
 
(1) : Bất khổ bất lạc tâm giải thoát – Adukkhamasukhàya
                                                                          cetovimutti  . 
(2) : Vô lượng tâm giải thoát – Appamànà cetovimutti . 
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  095
 
    – “ Có bao nhiêu duyên mà an trú
          Vô tướng tâm giải thoát(1) như vầy ? ”. 
 
        – “ Hiền-giả ! Có ba duyên này
       Để mà an trú tâm ngài nêu lên :    
          Nhất thiết tướng không nên tác ý,
          Nhưng tác ý vô tướng giới này,
              Một sự sửa soạn trước ngay,
       Ba duyên an trú tâm đây hằng ngày ”.
 
    – “ Có bao nhiêu duyên vầy xuất khởi
          Vô tướng tâm giải thoát như vầy ? ”.
 
        – “ Hiền-giả ! Có hai duyên này
       Để mà xuất khởi tâm ngài nêu lên :
          Nhất thiết tướng không nên tác ý &
          Không tác ý vô tướng giới chi
              Các tâm giải thoát tường tri ”.
 
 – “ Xin hỏi Hiền-giả Sa-Ri-Pút-Tà :
Vô lượng tâm sâu xa giải thoát,
Vô sở hữu giải thoát tâm (2) này,
Không tâm giải thoát(3) ở đây,
Vô tướng tâm giải thoát rày phát sanh,
          Những pháp này nghĩa &danh sai biệt ?
          Danh sai biệt, đồng nhất nghĩa ra ?
 
        – “ Thưa Hiền-giả Kô-Thi-Ta !
       Bốn tâm vừa được kể ra trên này
          Một pháp môn như vầy đã có,
          Do có pháp môn đó sẵn dành
    _______________________________
 
 (1) : Vô tướng tâm giải thoát – Animittà cetovimutti .
(2) : Vô sở hữu tâm giải thoát – Àkincannà cetovimutti .
(3) : Không tâm giải thoát – Sunnatà cetovimutti .
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  096
 
              Các pháp ấy, nghĩa và danh
       Cũng đều sai biệt nghĩa & danh so bì.
          Hoặc các pháp nghĩa thì đồng nhất,
          Danh sai biệt, thực chất hiểu rành.
              Hoặc đều sai khác nghĩa & danh.
       Thế nào là pháp môn hành nương theo ?
          Vị Tỷ Kheo an trú biến mãn
          Một phương tâm câu hữu với Từ
              Cũng vậy, phương hai, ba, tư,
       Với tâm câu hữu an như Bi này,
          Tâm câu hữu đến ngay Hỷ, Xả,
          Với tất cả bốn phương các bên,
              Cùng khắp thế giới, dưới, trên,
       Hết thảy phương xứ, khắp nền bề ngang,
          Cùng khắp, toàn vô biên giới hạn
          Không sân hận, quảng đại vô biên.
              Như vậy, đó được gọi liền
Vô lượng tâm giải thoát tuyền, rộng sâu.
 
          Còn thế nào thuộc về điều khác
         ‘Vô sở hữu giải thoát tâm’ này ?
 
        – “ Này Hiền-giả ! Tỷ Kheo đây
       Thức-vô-biên-xứ nơi này vượt lên
         ‘Không có vật gì’, bèn nghĩ thế
          Chứng, trú Vô-sở-hữu-xứ ngay.
              Hiền-giả Câu-Hy-La này !
Vô sở hữu tâm giải thoát rày đạt qua. 
 
          Thế nào là ‘Không tâm giải thoát’ ?
          Vị Tỷ Kheo an lạc thẳng ngay
               Đi dến khu rừng, gốc cây,
       Đến chỗ nhà trống, nghĩ ngay trong lòng :
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  097
 
         ‘Đây trống không, không có tự ngã,
           Hay là không có ngã sở’ đây ?
Không tâm giải thoát  gọi vầy.
 
Vô tướng tâm giải thoát này là sao ?
          Tỷ Kheo mau không tác ý với
          Nhất thiết tướng, đạt tới dễ dàng
     ‘Vô tướng tâm định’ trú an.
       Như vậy là có sẵn sàng pháp môn
          Do pháp môn này, bao pháp ấy
          Nghĩa & danh thấy sai biệt, khác xa.
 
              Thưa Hiền-giả Kô-Thi-Ta !
       Do pháp môn có, nghĩa và danh đây
          Nghĩa đồng nhất, danh này sai biệt,
          Tham, chính thiệt đó là nguyên nhân
              Của hạn lượng ; hoặc si, sân
       Cũng là hạn lượng nguyên nhân như vầy.
          Tỷ Kheo này đoạn trừ lậu-hoặc,
          Tham, sân, si được chặt gốc ra   
              Như chặt tận gốc Sa-la
       Khiến cây không thể sống qua nữa rồi.
          Khi nào nơi các tâm giải thoát
          Là vô lượng (quảng bác) như vầy,
Bất động tâm giải thoát này 
       Được gọi tối thượng, thẳng ngay đủ đầy.
          Đối với các tâm này giải thoát,
          Bất động tâm giải thoát đồng thì
              Không có tham, sân và si.
 
Tham ấy là một vật gì cản ngăn
          Sân, si cũng cản ngăn, chướng ngại.
          Đối với vị tự tại Tỷ Kheo
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  098
 
              Đã trừ lậu-hoặc dính đeo
       Thì Tam Độc ấy cũng đều diệt ngay.
          Nhân thân cây Sa-la chặt rễ
          Khiến tương lai không thể tái sinh.
              Khi tâm giải thoát (an bình)
       Là vô sở hữu, quá trình tại tâm
          Như vậy, bất động tâm giải thoát
          Gọi là đạt tối thượng (sâu dày)
              Với các tâm giải thoát này,
       Bất động tâm giải thoát ngay tức thì,
  Không có tham, sân, si nào cả.
 
          Thưa Hiền-giả ! Tham chính là nhân
              Tạo ra tướng ; hoặc Si, Sân
       Cũng là nhân tạo tướng phần, duyên theo.
          Đối với vị Tỷ Kheo diệt tắt
          Các lậu-hoặc, thì tham, sân, si
              Được chặt tận gốc tức thì
       Như Sa-la-thọ bị nguy khó phòng
          Chặt tận gốc khiến không sống vững,
          Khi nào những tâm-giải-thoát này
              Là vô tướng, thì như vầy
       Bất động tâm giải thoát đây gọi là
          Tối thượng, qua các tâm-giải-thoát,
          Bất động tâm giải thoát này thì
       Không có tham, sân và si.
       Vậy pháp môn ấy đương khi tạo thành
          Nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt,
Các chi tiết phức tạp, sâu xa ”.
 
              Khi được tường tận nghe qua
       Tôn-giả Sa-Rí-Pút-Ta trình bày
Trung Bộ (Tập 2) Đại K. 43 : PHƯƠNG QUẢNG  * MLH  –  099
 
          Pháp vi diệu, đủ đầy ngữ ý,
          Kinh Phương Quảng nghĩa lý sâu xa,
              Tôn-giả Đại Câu-Hy-La
       Hoan hỷ tín thọ tinh hoa pháp này ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
 
 
 
 
*
*     *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 43  :  Đại Kinh PHƯƠNG QUẢNG
MAHÀVEDALLA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2012(Xem: 6224)
này cô, cô ni nhỏ xin giữ thật vắng lặng từng bước cô đi thật dịu dàng hãy lắng nghe từng góc chùa tiếng gió xao xác của rừng thiền năm xưa kể lại một thời Đức Phật đã ngồi vắng lặng
20/01/2012(Xem: 9417)
Tuổi trẻ chưa tường tỏ sắc không Tâm xuân vừa đến trăm hoa lòng Chúa Xuân hiện hữu thừa chân lý Giường Thiền tĩnh toạ thấy hồng rơi. (Tâm Thường Định dịch)
18/01/2012(Xem: 10704)
Viết, để khen tặng người trong cuộc đã vì tình thương, sự sống, vượt qua mọi lằn mức của khổ đau, chịu đựng và thân phận - TNT Mặc Giang
15/01/2012(Xem: 6549)
Thời gian như thể thoi đưa Ngày nào bé tí giờ vừa sáu mươi Sáu mươi - tuổi thích ăn chơi Chẳng thèm quà bánh chỉ xơi thuốc nhiều Sáu mươi mới thật biết yêu Yêu con yêu cháu hơn yêu chính mình
15/01/2012(Xem: 11238)
Đi cho hết cõi Ta Bà,sống cho trọn kiếp nhân sinh, cuối cùng chúng ta quay đầu về cố quận, điểm không cùng của sanh tử, lằn ranh vô tận của vô minh, khởi đầu và chung cuộc. Mộtsự đối diện gay go, thách đố giữa hai bờ mê ngộ, trên từng đỉnh cao ngút ngàn củagian truân vất vả, với vô thường cận kề nối nhịp, hay trên từng hoang sơ trơ trụituyết sương, nhịp bước cùng ta trong sự hoan hỷ tuyệt cùng?.. Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
14/01/2012(Xem: 9951)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa Múc bình nước mát về qua Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa ” Chỉ bốn câu thơ mà đã hiện lên đôi nét chấm phá về “Gã từ quan” Phạm Thiên Thư.
13/01/2012(Xem: 13193)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
13/01/2012(Xem: 11423)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
03/01/2012(Xem: 5013)
Bánh Chưng bánh Tét vui Xuân đến Hoa Cúc hoa Mai mừng Tết sang Thềm Xuân gió thoảng mưa rơi nhẹ Tâm bình thanh thản chúc an khang
03/01/2012(Xem: 8306)
Nửa mùa tóc trắng bơ vơ, Mắt xanh mòn mỏi chợt mơ vô thường...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567