Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Chân Không (1046-1100, đời 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Thời Vua Lý Nhân Tông) 🙏🙏🙏🌹🥀🌷🌸

23/09/202109:44(Xem: 18416)
Thiền Sư Chân Không (1046-1100, đời 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Thời Vua Lý Nhân Tông) 🙏🙏🙏🌹🥀🌷🌸



Thiền Sư Chân Không (1046-1100)

Đời 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Thời Vua Lý Nhân Tông)

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước






Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay cuối tuần thứ năm, 23/09/2021, chúng con được học về Thiền Sư Chân Không (1045 - 1100), đời thứ 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 289 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

Sư họ Vương tục danh Hải Thiềm, quê làng Phù Đổng huyện Tiên Du, con nhà sang trọng. Lúc mẹ mang thai Sư, cha mộng thấy vị Tăng trao cho cây tích trượng. Sau đó, sanh ra Sư.

Thuở nhỏ, Sư thích ở riêng một mình, siêng năng đọc sách, chẳng màng những việc vặt vãnh. Năm mười lăm tuổi, Sư đã bác thông sách sử. Đến hai mươi tuổi, Sư xuất gia, rồi dạo khắp tùng lâm tìm nơi khế hợp.

 

Sư Phụ giải thích:

-Theo Thiền Uyển Tập Anh, Sư Chân Không là đệ tử nối pháp của Thiền sư Thảo Nhất.

- Tiểu sử của Sư ngắn gọn, Sư thuộc dòng quý tộc, nhưng ngài lại mồ côi Cha Mẹ từ thuở thiếu thời.

 

Sư đến pháp hội chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, hoát nhiên tỉnh ngộ. Cơ duyên khế hợp ấy, khác nào con rùa mù gặp bộng cây. Sư ở đây nhập thất sáu năm, sự tham vấn càng ngày càng sâu. Nhân đó, được truyền tâm ấn.

 

 Sư Phụ giải thích:

- Thiền sư Chân Không có cơ duyên với kinh Pháp Hoa nhân đến chùa Tĩnh Lự được nghe  thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa và Ngài hoát nhiên tỉnh ngộ, giống như con rùa mù gặp bọng cây.

- Sư phụ nhắc lại nội dung trong Kinh Hiền Ngu 129 trong số 152 thuộc Trung Bộ Kinh. Phật dạy rằng : “ Ví như, này các Tỷ-kheo, một người quăng một khúc cây có một cái lỗ trên biển, một ngọn gió từ phương Đông thổi nó trôi qua phía tây; một ngọn gió từ phương Tây thổi nó trôi qua phía đông; một ngọn gió từ phương Bắc thổi nó trôi qua phía nam; một ngọn gió từ phương Nam thổi nó trôi qua phía bắc. Rồi có một con rùa mù, cứ một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Này các Tỷ-kheo, các con nghĩ thế nào? Con rùa mù ấy có thể đút cổ nó vào trong lỗ cây này được không?
- Nếu có được chăng nữa, bạch Thế Tôn, thời chỉ được một lần, sau một thời gian rất lâu dài.
- Còn mau hơn, này các Tỷ-kheo, con rùa mù ấy có thể chui cổ vào khúc cây có lỗ hổng kia; nhưng này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng còn khó hơn được làm người trở lại, một khi người ngu bị rơi vào đọa xứ. Vì sao vậy? Vì ở đấy, này các Tỷ-kheo, không có pháp hành, an tịnh hành, thiện hành, phước hành. Này các Tỷ-kheo, ở đây chỉ có ăn lẫn nhau và ăn thịt kẻ yếu”.

 

Trên đây là nguyên văn bản dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu, đoạn kinh chỉ ra rõ rằng cơ hội được tái sanh làm người và gặp được Phật Pháp còn khó hơn gấp ngàn vạn lần so với con rùa mù  mỗi một trăm năm mới nổi lên mặt biển một lần và may mắn được chui vào được lỗ của một bọng cây trôi bồng bềnh trên mặt biễn theo các hướng gió thổi. Tuy nhiên cái may của con rùa mù còn dễ hơn duyên may được tái sanh làm người và lại được đến với Phật pháp. Một khi mất thân người rồi không biết bao giờ mới trở lại được kiếp người. 

 

Thiên niên thiết thọ khai hoa dị
Nhất thất nhơn thân tái phục nan


Có nghĩa là:


Ngàn năm cây sắt ra hoa dễ
Một mất thân người khó được thân.

 

 

 Sau, Sư đến núi Từ Sơn dừng trụ. Tự lấy giới luật giữ mình, trên hai mươi năm không hề xuống núi. Danh tiếng vang dậy xa gần. Vua Lý Nhân Tông nghe danh, xuống chiếu mời vào Đại nội giảng kinh Pháp Hoa. Thính giả nghe giảng ai nấy đều kính phục.

 

Sư Phụ giải thích:

- Sau khi liễu ngộ, Sư nhập thất 6 năm, và trong hơn 20 năm Sư không hề xuống núi. Nhưng hữu xạ tự nhiên hương, vua Lý Nhân Tông nghe danh mời Sư vào Đại nội giảng kinh Pháp Hoa.

- Sư Phụ ví kinh Pháp Hoa như một vở kịch nhiều màn, kinh có 28 phẩm, mỗi phẩm đều diễn bày qua những ví dụ để chúng đệ tử tự nhận ra Phật tri kiến của chính mình. Như Hỏa Trạch Dụ (Tam xa dụ) trong phẩm Thí dụ , đây là ví dụ quan trọng nhất trong Kinh Pháp Hoa. Phật kể câu chuyện  về một ngôi nhà rộng lớn đang bị hỏa hoạn, người cha bảo các con ra khỏi nhà để khỏi bị chết cháy nhưng các người cứ lo ham chơi mà chịu ra. Người cha biết các con ham thích xe, nên bảo các con rằng : “Đây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con”. Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình nên lòng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở. Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng : “Cha lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho.” Khi đó, ông Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó “ (theo bản dịch của HT Thích Trí Tịnh).

 

Sư phụ giải thích: ba xe dê, xe hươu và xe trâu là chỉ cho ba thừa, đó là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Còn cỗ xe lớn là chỉ cho Phật thừa. Các con của trưởng giả ra khỏi nhà lửa, chỉ chúng sanh, nhờ sự dụ dẫn của Tam thừa, ra khỏi tam giới, được giải thoát an vui, Niết Bàn.

 

 Bấy giờ, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thích sử Lạng Châu, Tướng quốc Thân Công rất kính trọng Sư thường xả tài vật cúng dường. Những phần cúng dường Sư đều dùng vào việc sửa chùa xây tháp, đúc hồng chung để lại đời.

 

Sư Phụ giải thích:

- Lý Thường Kiệt là một danh tướng văn võ toàn tài trong thời vua Lý Nhân Tông, là Phật tử thuần thành rất kính trọng, hộ trì Sư làm Phật sự, phát tâm cúng dường tịnh tài để Sư xây tháp, tô tượng đúc đại hồng chung để mở rộng Chánh Pháp.

 

Về sau, Sư trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phả Lại, có vị Tăng đến hỏi:

- Thế nào là diệu đạo?

Sư đáp:

- Sau khi giác rồi mới biết.

- Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao hội được?

- Nếu đến tiên gia trong động sâu,
  Hoàn đan hoán cốt được mang về.

- Thế nào là hoàn đan?

- Nhiều kiếp tối tăm không hiểu thấu,
  Hôm nay chợt ngộ được khai minh.

- Thế nào là khai minh?

- Khai minh chiếu khắp cõi Ta-bà,
  Tất cả chúng sanh chung một nhà.

Tăng lại thưa:

- Tuy nhiên không biện rõ.

- Chốn chốn đều gặp y.

- Cái gì là y?

Sư đáp:

- Kiếp hỏa cháy tan mảy may sạch,
  Núi xanh như cũ, mây trắng bay.

Tăng hỏi:

- Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?

- Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết,
  Hoa nở, hoa tàn chỉ là xuân.

Tăng suy nghĩ, Sư quát rằng:

- Đất bằng sau binh lửa,
  Thực vật đều ngát thơm.

 (Bình nguyên kinh hỏa hậu,
 Thực vật các thù phương.)

Tăng lễ bái.

 

Sư Phụ giải thích:

- Diệu đạo là đạo vị diệu nhiệm mầu, là thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú, không thể nói ra được cũng như người uống nước tự biết nước nóng lạnh như thế nào.

- Hoàn đan hoán cốt là linh đơn uống vào được trường sanh bất lão. Sư Chân Không muốn ám chỉ là phải tu tập đạt đến chỗ rốt ráo mới đạt đến giác ngộ giải thoát, khi đó tự mình sẽ nhận được viên hoàn đan linh dược.

- Khai minh là mở ra ánh sáng tuệ giác của chính mình cũng là ánh sáng của tất cả chúng sanh đều cùng một thể tánh, cùng chung một nhà, bình đẳng, không phân biệt, là nhà Như Lai là thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú. Đức Phật đã từng tuyên bố, ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.

- Kiếp hỏa cháy tan mảy may sạch, kiếp hỏa là kiếp cuối cùng, có bảy mặt trời chiếu xuống cõi ta bà đốt cháy tất cả. Kiếp hỏa biểu trưng hầm lửa có trong tất cả chúng sanh, phát sanh ra khi lên cơn tức giận nổi lên sẽ đốt cháy cả rừng công đức.

 - Núi vẫn xanh, mây vẫn trắng là ‘y’, là chân tâm Phật tánh bất sanh bất diệt có trong tất cả chúng sanh vạn loài.

- Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết, 

Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân.

Xuân là thể tánh vắng lặng, tịch tỉnh của mỗi người, là chân tâm Phật tánh.

-Đất bằng sau binh lửa

Thực vật đều ngát thơm.

Sư nhắc luôn cố gắng tu tập dầu trải qua binh lữa vẫn giữ thể tánh thanh khiết hằng có bên trong của chính mình.

 

Vãn niên, Sư trở về quận nhà, trùng tu lại ngôi chùa Bảo Cảm. Công việc vừa xong, ngày mùng 1 tháng 11 niên hiệu Hội Phong thứ chín (1100), Sư báo tin sắp tịch nói kệ:

Diệu bản thênh thang rõ tự bày,
Gió hòa thổi dậy khắp Ta-bà.
Người người nhận được vô vi lạc,
Nếu được vô vi mới là nhà.

(Diệu bản hư vô minh tự khoa,
Hòa phong xuy khởi biến Ta-bà.
Nhân nhân tận thức vô vi lạc,
Nhược đắc vô vi thủy thị gia.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Diệu bản thênh thang rõ tự bày, 

Diệu bản là bản gốc vi diệu nhiệm mầu, là thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú, là Phật tri kiến, là thanh tịnh pháp thân Tỳ lô giá na.

- Gió hoà thổi dậy khắp ta bà.

Hành giả dùng gió hoà là lục hoà diệu bản của thân khẩu ý thổi vào cõi ta bà.

- Người người nhận được vô vi lạc,

Vô vi lạc là niềm vui không có giới hạn của niết bàn

- Nếu được vô vi mới là nhà.

Đạt vô vi là đến Niết Bàn là chỗ rốt ráo của hành giả, tại đây và bây giờ.

 

Đến nửa đêm, Sư lại bảo: “Đạo của ta đã thành, ta giáo hóa đã xong, vậy ta tùy ý ra đi.” Bèn ngồi kiết-già mà tịch, thọ năm mươi lăm tuổi, được ba mươi sáu tuổi hạ.

Hoàng thái hậu, Công chúa Thiên Thành, Ni sư Diệu Nhân và đông đảo đệ tử làm lễ cúng dường trai tăng hai ngày. Đại sư Nghĩa Hải ở chùa Đại Minh, được Vua ban tử y. Sa-môn Pháp Thành, toàn thể đồ chúng lo đủ lễ an táng Sư, xây tháp bên ngoài trai đường.


Học sĩ Nguyễn Văn Cử vâng chiếu soạn lời minh ghi trên tháp. Công bộ Thượng thơ Đoàn Văn Khâm làm thơ truy điệu Sư:

Trong triều, ngoài nội kính gia phong,
Chống gậy đường mây quyện bóng rồng.
Cửa từ chợt hoảng rường cột đổ,
Rừng đạo bùi ngùi cội thông long.
Cỏ biếc quanh mồ thêm tháp mới,
Non xanh nước thắm gởi thân trong.
Vắng vẻ cửa thiền ai đến gõ,
Văng vẳng chuông chiều nát cõi lòng.

(Hạnh cao triều dã chấn thanh phong,
Tích trụ như vân mộ tập long.
Nhân vũ hốt kinh băng huệ đống,
Đạo lâm trường thán yển trinh tòng.
Phần oanh bích thảo thiêm tân tháp,
Thủy trám thanh sơn nhận tạ dung.
Tịch tịch thiền quan thùy cánh khấu,
Kinh qua sầu thính mộ thiên chung.)

 

Sư Phụ giải thích:

Bài thơ truy điệu Sư của công bộ Thượng thơ Đoàn Văn Khâm rất thắm thiết, nào lòng diễn tả sự ra đi vĩnh viễn của một vị Thiền Sư đã mang Chánh Pháp và niềm an vui đến cho cuộc đời này.

  

 Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Chân Không do Thượng Tọa Thích Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

 

‘’Sử sách tinh thông chí thoát trần

Xuất gia học đạo dạo tòng lâm

Pháp Hoa Tịnh Lự bừng hoa giác

Đông Cứu Chân Không tỏ tuệ tâm

Tổ ấn thừa đương truyền mạch đạo

Thiền môn tu tạo xiễn tông phong

Từ Sơn giới luật vang danh khắp

Hoàng đế, đại thần trọng kính dâng

 

Kính  bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Chân Không. Sư đã có túc duyên từ bao kiếp và sự ra đời của Sư được báo trước khi cha của Sư nằm mộng thấy vị tăng trao cho cây tích trượng. Năm 20 tuổi, Sư hoắt nhiên tỉnh ngộ khi được cơ duyên nghe giảng kinh Pháp Hoa như con rùa mù gặp được bọng cây, và Sư được ban giảng lại kinh Pháp Hoa cho Đại nội trong triều của vua Lý Nhân Tông. Sư đã mãn nguyện và tuỳ ý ra đi, ngồi kiết già mà tịch.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada).

 



289_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Chan Khong



 Thiền Sư Chân Không
(1046–1100, đời 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) 
(Thời Vua Lý Nhân Tông)



Kính dâng Thầy bài trình pháp về Thiền Sư Chân Không sau khi nghe trọn 1:30 phút của bài pháp thoại thật tuyệt vời và súc tích với lời bình giải các ẩn nghĩa trong bài kệ thị tịch và cuộc đối thoại giữa Thiền Sư và một tăng sinh đã được thivăn Lý Trần ghi chép như là một tác phẩm Phật Giáo vi diệu của những bậc Danh Tăng đã bước vào Dự Lưu, hiền thánh Kính bạch Thầy, với con đường pháp học mà con đang bước từng bước một ...con vẫn nhận ra Thầy đã viên dung Kinh Nikya và các bộ kinh Đại thừa ( Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã) nên những bài pháp thoại đã khiến học nhân thích thú với Giáo pháp của Đức Thế Tôn và từ đó sẽ ứng dụng vào đời sống trong mọi thời đại. Kính đảnh lễ Thầy và kính tri ân Thầy, kính chúc Thầy pháp thể khinh an 


Khi lật giở lại hành trạng quý Thiền Sư trong Tổ Sư Thiền, hẳn  chúng ta đã gặp các vị ngộ Pháp Hoa, niệm Pháp Hoa và  dùng biểu tượng hoa sen làm minh chứng cho sự triệt ngộ của mình... 

Trong tích sử Tổ Sư Thiền đã có ghi lại 

. Thiền sư Lương Giới, thủy tổ tông Tào Động, giải thích ngũ vị, đến vị thứ tư Thiên Trung Chí có bài kệ:

Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị 

Hảo thủ du như hỏa lí liên 

Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí.

Hai kiếm đua nhau cần gì tránh 

Tay khéo vẫn như sen lò hồng 

Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí

. Thiền sư Ngộ Ấn ở Việt Nam, khi sắp tịch cũng nói kệ:

Diệu tánh hư vô bất khả phan

 Hư vô tâm ngộ đắc hà nan 

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

 Liên phát lô trung thấp vị càn.

Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin

 Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin 

Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy

Lò lửa hoa sen nở thật xinh. 

Hoa sen mọc trong lò lửa vẫn xinh tươi là một hình ảnh bất tư nghì của kinh Pháp Hoa. Ngay nơi thân đang bị ngọn lửa vô thường thiêu đốt, vẫn có Tri kiến Phật an nhiên tự tại, bất sanh bất diệt, chẳng phải hoa sen tươi thắm trong lò lửa là gì? Trên ngọn núi năm uẩn bị lửa vô thường thiêu đốt, hòn ngọc Tri kiến Phật sắc vẫn óng ánh tươi nhuần.

. Thiền Sư Thiền Nham đời thứ 13 dòng Tỳ ni Đa Lưu Chi từ thuở nhỏ đã đậu thủ khoa khi triều đình Nhà Lý mở khoá thi  về kinh điển Đại Thừa (Pháp Hoa và Bát Nhã ) sau đó mới đến chùa Thành Đạo ( chùa Đậu ) cạo tóc xuất gia

. Thiền sư Tỉnh Niệm thường tụng kinh Pháp Hoa nên thời nhân gọi là Niệm Pháp Hoa. 

 Và đến hôm nay một lần nữa chúng ta lại gặp Thiền Sư Chân Không đã hoắc nhiên tỏ ngộ sau khi đến dự hội giảng do thiền sư Thảo Nhất chủ trì tại chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Bắc Ninh) về  kinh Pháp hoa,

Kính xin mượn lời của HT Thích Thiện Siêu khi nói về Thiền Tông và Kinh Pháp Hoa như sau : 

"Đối với tôi, mới tu thì xem giáo lý là khuôn vàng thước ngọc không thể thay đổi. Trên đường tu, với thời gian, tri thức phát triển, nhận ra được pháp Phật và kiến thức loài người từng bước đổi khác theo thời đại. Từ đó, pháp Phật cũng có giá trị tùy người, tùy chỗ, tùy lúc, không bao giờ có tác dụng giống nhau. Nếu rời bỏ pháp Như Lai, chỉ lấy nhận thức của con người, chúng ta đã lạc đường, không còn là đệ tử Phật. Tuy nhiên, người chấp Phật pháp mà không phù hợp thực tế, cũng rớt vô bệnh giáo điều như Tổ thường quở: "Y kinh giải nghĩa, Phật oan tam thế”. Người tu lấy pháp Phật rọi vô nhận thức thế gian, để thấy rõ yêu cầu của chúng sanh, đưa ra giải pháp đúng đắn cho họ. Từng thời kỳ, vào biển khổ, tiếp xúc với chúng sanh, mới thấy được chân lý.

Đối với tôi, kinh Phật nhiều hay ít, khó hay dễ không quan trọng. Vấn đề chính yếu làm thế nào đạt hiệu quả trong công phu tu tập. Giá trị hiệu quả được đặt trên năm tiêu chuẩn để chúng ta tiến tu. Trước tiên, thọ trì bộ kinh nào của Phật, không riêng gì kinh Pháp Hoa, chúng ta phải cảm thấy an vui.

Nương tựa vào  bộ kinh Pháp Hoa , chúng ta sống bình yên vì tâm can rúng động khi đọcnhững bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài,để rồi phát đại nguyệntu tập để ngộ nhập Phật Tri kiến .

Lục vạn dư ngôn thất trục trang.

Vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng.

Hầu trung cam lộquyên quyên nhuận.

Khẩu nội đề hồ trích trích lương.

Bạch ngọc xỉ biên lưu xá lợi

Hồng liên thiệt thượng phóng hào quang

Giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc

Bất tu Diệu Pháp lưỡng tam hàng.

HT. Thích Trí Tịnh dịch là:     

Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn

Chứa đựng vô biên nghĩa 

nhiệm mầu

Trong cổ nước cam lộ rịn nhuần

Trong miệng nước đề hồ nhỏ mát

Bên răng ngọc trắng tuôn xá lợi

Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang

Dầu cho tạo tội hơn núi cả

Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng." 

Một lần nữa kính đa tạ  quý Giảng sư thâm nhập và liễu tri các bộ kinh Đại thừa như Lăng Nghiêm , Pháp Hoa , Kim Cang đã giáo truyền lại cho các học nhân mà những ai có túc duyên một ngày nào đó sẽ hoắc nhiên triệt ngộ như Thiền Sư Chân Không ..Ngài để lại  bài kệ  thị tịch quá siêu thoát trong thơ văn Lý Trần như sau : 

            Diệu bổn hư vô minh tự khoa,

            Hoà phong xuy khởi biến Ta bà.

            Nhân nhân tận thức vô vi lạc,

            Nhược đắc vô vi thuỷ thị gia.

Dịch:

            Diệu bổn thênh thang rõ tự bày,

            Gió hoà thổi dậy khắp Ta bà.

            Người người nhận được vô vi lạc,

            Nếu được vô vi mới là nhà.

Kính trân trọng.



Kính ngưỡng Thiền Sư Chân Không, 

....đệ tử nối pháp từ minh sư Thảo Nhất ( 1) 

Dòng dõi quý tộc, mồ côi sớm, rất thông minh (2)

Tỏ ngộ... lần đầu được nghe giảng Pháp Hoa Kinh  (3) 

Lãnh thọ Tâm ấn về Chúc Thánh, 20 năm tu trì giới luật (4) 



Tiếng vang khắp nơi ... bậc chân tu thoát tục 

Được mời vào đại nội giáo truyền thời vua Lý Nhân Tông (5) 

Bao nhiêu tiền cúng dường ....

...sửa chùa, xây bảo tháp, đúc chuông (6) 

Thơ văn Lý Trần ...ghi lại đối thoại về DIỆU ĐẠO (7) 



Kính đa tạ Giảng Sư ....bình giải mật ngữ tuyệt hảo ! 

Thế nào là hoàn đan, và nhận ra thể tánh tịnh minh  ? (8) 

Thế nào là núi  xanh như cũ, sau cơn hỏa đất bằng (9) 

Tất cả chỉ là ẩn nghĩa như :

.....danh hiệu  Phật của tôn giả Xá Lợi Phất (10) 

Kính tri ân ...bài kệ thị tịch 

.....được dịch nghĩa tuyệt vời nhất (11) 

Diệu bản, hoà phong , tịch lạc vô vi (12) 

Kiếp người được học pháp quý nhất ..bất tư nghì

Như phẩm kinh Nikya Hiền Ngu

.....  "con rùa mù tìm bọng cây trên mặt biển" (13) 



Nam Mô Chân Không Thiền Sư tác đại chứng minh .

Huệ Hương 

Melbourne 23/9/2021 


Chú thích : 

(1) 

14. THẾ HỆ THỨ XIV : sách TUTANL viết : “4 NGƯỜI, 3 NGƯỜI KHUYẾT LỤC”.

      TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ (1067 – 1142)

 

15. THẾ HỆ THỨ XV: Sách TUTANL viết : “3 NGƯỜI, 1 NGƯỜI KHUYẾT LỤC”. 

  1. a.      THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG
  2. b.      THIỀN SƯ PHÁP DUNG ( ? – 1174)

 Một người khuyết lục có lẽ là Thiền sư Thảo  Nhất .  thầy của Thiền sư Chân Không

16. THẾ HỆ THỨ XVI : Sách TUTANL viết : 3 NGƯỜI.

  1. a.      THIỀN SƯ TRÍ NHÀN 
  2. b.      THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG ( 1046 – 1100)
  3. c.      THIỀN SƯ ĐẠO LÂM ( ? – 1203)

(2) 

Sư họ Vương tục danh Hải Thiềm, quê làng Phù Đổng huyện Tiên Du, con nhà sang trọng. Lúc mẹ mang thai Sư, cha mộng thấy vị Tăng trao cho cây tích trượng. Sau đó, sinh ra Sư. Mồ côi từ thuở nhỏ, Sư thích ở riêng một mình, siêng năng đọc sách, chẳng màng những việc vặt vãnh. Năm 15 tuổi, Sư đã bác thông sách sử. 

(3) 

Đến 20 tuổi, Sư xuất gia, rồi dạo khắp tùng lâm tìm nơi khế hợp.

Sư đến pháp hội chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa, hoát nhiên tỉnh ngộ. Cơ duyên khế hợp ấy, khác nào con rùa mù gặp bộng cây. 

Như ta đã học 

Diệu Pháp Liên Hoa là một đại pháp bất khả tư nghì, độ cho chúng sanh ở cõi Ta Bà ác trược được không nhiễm, cũng như tự tánh chìm nơi ác thế đã lâu mà được hiện ra thanh khiết như hoa sen. Vì Diệu Pháp chẳng thể suy lường, người đọc khó hiểu, hiểu mà khó tin, tin mà khó hành, hành mà khó chứng. Cho nên nhiều người y văn giải nghĩa đuổi theo lời nói mà chẳng hiểu ý Phật, lại mê lầm hiểu theo mê tín, nghịch với ý chỉ trong kinh.

Theo căn bản của Phật pháp chỉ có một Phật thừa, nhưng theo phương tiện thì giảng ra vô lượng vô biên để thích ứng với căn cơ và trình độ của mọi chúng sanh.

       *    Chúng sanh nào nghe được pháp này thì sẽ thành Phật.

       *    Chúng sanh do nghe pháp (Đọc tụng cũng như nghe pháp) mà tín giải là khai Phật tri kiến.

       *    Do tín giải mà thọ trì (Y theo chánh pháp thực hành) là thị Phật tri kiến.

       *    Do thọ trì mà chứng đắc là ngộ Phật tri kiến.

       *    Do chứng đắc mà thành đạo gọi là nhập Phật tri kiến.

        *  Chẳng lập tất cả tri kiến gọi là Phật tri kiến.

Vì thế : Do một đại sự nhân duyên này (Nhất-Phật-Thừa) nên Phật thị hiện trên đời.

Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa ‘ Hội tam quy nhất, thọ ký thành Phật’. Trước kinh Pháp Hoa, Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau như tu Tứ đế pháp đắc quả A La Hán, tu 12 nhân duyên đắc Bích Chi, tu Lục độ làm Bồ Tát... đến hội Pháp Hoa, khi sắp nhập Niết Bàn, Phật mới dạy những gì mà trước đó ngài chưa dạy được, đó là ‘ những pháp môn mà ngài dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ Phật mới nói rằng Nhị thừa, Tam thừa đều không thật đều là phương tiện chỉ có Nhất thừa mới là thật, mới là cứu kính.

Ngoài ra người học cần nhớ trong Kinh Pháp Hoa nói có bảy thí dụ chính, đó  là:

- Một là dụ nhà lửa (trong phẩm thí dụ).

- Hai là dụ cùng tử, là đứa con bỏ cha đi lang thang nghèo đói (trong phẩm Tín giải).

- Ba là dụ cỏ thuốc (trong phẩm Dược Thảo Dụ).

- Bốn là dụ Hóa Thành, Bảo Sở thành.

- Năm là dụ Hạt châu, hạt châu buộc trong chéo áo.

- Sáu là dụï Kế châu, hạt châu trên núi tóc của vua.

- Bảy là dụ Phu y tử, là thầy thuốc và các người con

(4) 

Sư ở đây nhập thất sáu năm, sự tham vấn càng ngày càng sâu. Nhân đó, được truyền tâm ấn.Sau, Sư đến núi Từ Sơn dừng trụ. Tự lấy giới luật giữ mình, trên hai mươi năm không hề xuống núi. Danh tiếng vang dậy xa gần.

(5) 

. Danh tiếng vang dậy xa gần. Vua Lý Nhân Tông nghe danh, xuống chiếu mời vào Đại nội giảng kinh Pháp Hoa. Thính giả nghe giảng ai nấy đều kính phục.

Vài dòng về Vua Lý nhân Tông 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128, tổng cộng 56 năm, cũng là vị vua có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam

Chuyện  về chùa Một Cột và vua Lý Nhân Tông

Năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường (nước ta trong thời gian này bị nhà Đường đô hộ) dựng một cột đá ở giữa hồ. Trên cột xây một toà lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan âm để thờ cúng. Khí đất chung đúc anh linh, cầu gì được nấy. Đến khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, cũng noi theo dấu cũ, ngày càng sùng kính linh thiêng. Khi Lý Thái Tông chưa có hoàng tử, thường đến đó cầu nguyện. Một đêm, nằm mộng thấy Phật Quan âm mời lên trên lầu, ôm một đứa bé đặt vào lòng vua. Tháng đó hoàng hậu có mang hoàng tử. Vua bèn sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Một Cột để mở rộng việc thờ cúng…”.

Đến đời vua Lý Nhân Tông, năm Anh Vũ Chiêu Thánh 5 (1080) vua cho đúc quả chuông đồng lớn nặng 1 vạn 2 nghìn cân để treo ở chùa, quả chuông được đặt tên “Giác thế chung” có nghĩa là “Chuông thức tỉnh mọi người”. Dựng phương đình bằng đá xanh cao 8 trượng để treo quả chuông này, nhưng vì chuông quá nặng không sao treo lên được, phải để dưới đất nên đánh không kêu, phải bỏ ở ruộng rùa của chùa, nên có tên là chuông Quy Điền (ruộng rùa). Chuông này là một trong “tứ đại khí” của nước Nam

((6) 

Bấy giờ, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thích sử Lạng Châu, Tướng quốc Thân Công rất kính trọng Sư thường xả tài vật cúng dường. Những phần cúng dường Sư đều dùng vào việc sửa chùa xây tháp, đúc hồng chung để lại đời.

(7) 

Về sau, Sư trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phả Lại, có vị tăng đến hỏi:

- Thế nào là diệu đạo ?

Sư đáp:

- Sau khi giác rồi mới biết.

- Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao hội được ?

- Nếu đến tiên gia trong động sâu,

Hoàn đan hoán cốt được mang về.

- Thế nào là hoàn đan ?

- Nhiều kiếp tối tăm không hiểu thấu,

Hôm nay chợt ngộ được khai minh.

- Thế nào là khai minh ?

- Khai minh chiếu khắp cõi ta-bà,

Tất cả chúng sanh chung một nhà.

Tăng lại thưa:

- Tuy nhiên không biện rõ.

- Chốn chốn đều gặp y.

- Cái gì là y ?

Sư đáp:

- Kiếp hỏa cháy tan mảy may sạch,

Núi xanh như cũ, mây trắng bay.

Tăng hỏi:

- Khi sắc thân bại hoại thì thế nào ?

- Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết,

Hoa nở, hoa tàn vẫn  là xuân.

Tăng suy nghĩ, Sư quát rằng:

- Đất bằng sau binh lửa,

Thực vật đều ngát thơm.

          (Bình nguyên kinh hỏa hậu,

          Thực vật các thù phương)

Tăng lễ bái.

(8) 

Lời giảng trùng hợp như những gì HT Thích Thanh Từ giảng cho đại chúng tại thiền viện của Ngài 

“Khi Sư trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phổ Lại, vị Tăng hỏi: Thế nào là diệu đạo? 

Sư đáp: Sau khi giác rồi mới biết”. 

Nếu có người hỏi chúng ta thế nào là diệu đạo thì chúng ta giải nghĩa diệu là mầu nhiệm, diệu đạo là đạo mầu nhiệm, căn cứ trên chữ nghĩa giải thích, người nghe không làm sao nhận ra diệu đạo được. 

Ở đây Ngài đáp sau khi giác ngộ rồi thì biết. 

Ngài nói ra lẽ thật để cho vị tăng này nhận, nhưng vị tăng ngày không nhận mới thưa tiếp:

“Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao hội được?” 

Vị tăng này nói từ trước tới giờ thầy chỉ dạy con còn chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao con hội được? 

Ngài bảo:”Nếu đến tiên gia trong động sâu, hoàn đan hoán cốt được mang về”. 

Hoàn đan là viên thuốc, hoán cốt là đổi xương. Nếu đến động sâu của các ông tiên thì sẽ được thuốc cải lão hoàn đồng, uống vô xương cốt biến già thành trẻ. 

Vị tăng này muốn hiểu diệu đạo, Ngài bảo tu giác ngộ rồi sẽ biết. Nhưng ông chưa nhận ra nên thưa “Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao hội được?” Ngài mới dạy, nếu ông đến các động tiên thì sẽ thấy được hoàn đan. 

Câu này lặp lại ý trên là ông muốn biết niệu đạo thì hãy tu cho đến chỗ giác ngộ rồi sẽ biết. 

Nhưng vị tăng nghe nói hoàn đan liền hỏi:

“Thế nào là hoàn đan?” Tăng không hiểu diệu đạo mới hỏi, Ngài trả lời hoàn đan. Tăng hỏi thế nào là hoàn đan, 

Ngài lại đáp:”Nhiều kiếp tối tăm không hiểu thấu, hôm nay chợt ngộ được khai minh”. Nghĩa là nhiều kiếp ông mê muội quá, nếu ngộ rồi thì ông sẽ sáng mắt ra, không cần giải thích. 

Vị tăng lại càng lúng túng hỏi thêm:

“Thế nào là khai minh?” 

Ngài đáp : “Khai minh chiếu khắp cõi Ta bà, tất cả chúng sanh chung một nhà”. 

Nghĩa là tu đến lúc giác ngộ thì tâm thanh tịnh sáng suốt chiếu khắp Tà bà, thấy tất cả chúng sanh đều có tâm thể thanh tịnh như nhau, nên nói chung một nhà. 

Đó là lời đáp rất khéo của Ngài.

Tăng lại thưa: “Tuy nhiên không hiện rõ”. 

Ngài đáp:”Chốn chốn đều gặp y”. 

Vị tăng vẫn còn mù mịt nên nói con vẫn chưa hiện rõ. Ngài khai thị tiếp nên nói nơi nào chốn nào cũng đều có y, y không bao giờ thiếu vắng. ....  chính là thể tánh tịnh minh 

Vị tăng lại càng mờ mịt, thưa:

“Cái gì là y?” Sư đáp: “ Kiếp hoả cháy tan mây may sạch, núi xanh như cũ mây trắng bay”. 

(9) Vị tăng muốn biết cái gì là y, Ngài đáp:”Kiếp hoả cháy tan mảy may sạch, núi xanh như cũ, mây trắng bay”. 

Kiếp hoả là chỉ có kiếp hoại. Kinh Phật nói thế giới này trải qua bốn thời ký thánh, trụ hoại, không. 

Ngài nói tuy kiếp hoả thiêu rụi thế giới này thành tro bụi không còn gì cả, nhưng còn mây trắng bay qua ngọn núi xanh

. “Y” là chỉ cho thể chân thật. Vị tăng muốn biết thể chân thật là gì. Ngài đáp, dù cho thế gian có bị luật vô thường làm cho tan hoại, nhưng thể chân thật vẫn nguyên vẹn không mất. 

Thể chân thật biểu trưng qua ngọn núi xanh sừng sững còn mãi với thời gian không gian.

Tăng hỏi: “Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?” 

Sư đáp: “Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết, hoa nở hoa tàn chỉ là xuân”. 

Với cái nhìn của phàm phu thì thấy thân bại hoại là hết, nhưng với Ngài thì thời gian có đến có đi, trăm hoa có nở có tàn, nhưng thể chân thật lúc nào cũng tươi nhần, nên nói “chỉ là xuân”. 

Như vậy nếu chúng ta tu hành đắc lực thì lúc nào cũng có mùa xuân, chẳng phải đợi lúc hoa mai nở mới có xuân, hay hoa tàn là hết xuân, mà lúc nào cũng “chỉ là xuân”. Nếu chúng ta chịu khó tu hành thì hạnh phúc an lạc có sẵn trong tầm tay không tìm kiếm đâu xa cả.

Ở thế gian những gì mà người đời cho là hạnh phúc đó chỉ là tạm bợ mong manh. Như thấy người giàu có của cải có vợ đẹp con xinh, chúng ta cho rằng người đó đầy đủ hạnh phúc. Nhưng của cải tồn tại lâu dài, hay nay ở trong tay người này mai sang tay người khác? Vợ đẹp con xinh có đẹp xinh mãi, hay mai kia cũng ốm đâu bệnh tật nhan sắc tàn phai? Người có địa vị cao sang có được hạnh phúc hoàn toàn không? Chẳng hạn như ông vua uy quyền cao sanh nhất thiên hạ, cũng có khi bị phế làm thường dân, hoặc bị giết hay tù đày khổ sở v.v.. Như vậy hạnh phúc ở thế gian có gì bền chắc? Thế mà người đời cứ mãi đeo đuổi kiếm tìm, không biết mặt trái của hạnh phúc trong cuộc đời có ngầm ngầm đau khổ. 

Quá thấu suốt lẽ này nên đức Phật, vua Trần Nhân Tông v.v... từ bỏ hết những danh vọng cao sang để đi tu, tìm hạnh phúc chân thật cho mình và cho tất cả chúng sanh.

Vậy hiện tại chúng ta đi tu bỏ hạnh phúc thế gian để mong cầu những gì? 

Chúng ta bỏ hạnh phúc tạm bợ của thế gian thì phải sống được với thể chân thật của chính mình mới đúng nghĩa của người xuất gia. Đi tu không phải từ bỏ cái nhà thế tục, vào đạo lập cái chùa, có một số đệ tử, rồi lo bảo vệ đồ đệ, cứ loanh quanh lẩn quẩn lo giữa cái chùa, giữ đệ tử. Qua một thời gian, chùa sập, đệ tử mỗi người một nơi, rồi cũng phiền não khổ đau như người thế gian. 

Tu như vậy hạnh phúc chân thật không có, giống như người thế gian chỉ đua nhau đuổi bắt những cái tạm bợ giả dối bên ngoài. Vậy thì người tu hành muốn hưởng hạnh phúc miên viễn, lúc nào cũng “chỉ là xuân” thì phải giác ngộ nơi mình có thể chân thật, hằng sống với nó để cứu khổ mình và cứu khổ mọi người. Tu như thế mới hưởng được hạnh phúc lâu dài. Đó là giá trị chân thật cao tột của sự tu hành.

Ngài đáp như vậy mà vị tăng không nhận ra.

“Tăng suy nghĩ. Sư quát rằng: “Đất bằng sau nhiều năm, thực vật đều thơm ngát”. Tăng lễ bái”. 

Vị tăng nghe Ngài nói “Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết, hoa nở hoa tàn chỉ là xuân”. Ông không nhận ra lại suy nghĩ. Khi khởi nghĩ suy là tâm đã dậy sóng gió rồi, nên Ngài quở: “Đất bằng sau nhiều năm, thực vật đều thơm ngát”. Câu này Ngài chỉ cho vị tăng cách thức tu hành là phải giữ cho tâm thanh tịnh trong một thời gian dài thì trí tuệ sáng ra, đừng suy nghĩ kiếm tìm khiến cho tâm thêm động loạn. 

Những câu đáp của thiền sư Chân Không đã dẫn vị tới chỗ rốt ráo chân thật là bặt hết suy tư. Có lẽ vị tăng này lãnh hội nên lễ bái.

(10) 

Xá-lợi-phất! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp, cúng dường bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-tát sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Nước tên Ly Cấu, cõi đó bằng thẳng, thanh tịnh đẹp đẽ, an ổn, giàu vui, trời, người đông đảo. Lưu-ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có bông trái. Đức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.

Xá-lợi-phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải đời ác mà bởi bổn nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là Đại Bửu Trang Nghiêm. Vì sao gọi là Đại Bửu Trang Nghiêm? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm “Đại Bửu” vậy. Các Bồ-tát đó số đông vô lượng vô biên bất khả tư nghị, tính kể hay thí dụ đều không kịp đến được, chẳng phải sức trí tuệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có bông đỡ chân.

Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội đức từ lâu. Ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh, hằng được các Phật ngợi khen. Thường tu trí tuệ của Phật, đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững, bậc Bồ-tát như thế, khắp đầy nước đó.

Xá-lợi-phất! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho Kiên Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên Mãn Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, cõi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.

Xá-lợi-phất! Sau khi Phật Hoa Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ trong đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

Được giảng lại với ẩn nghĩa như sau 

Phật thọ ký ngài Xá-lợi-phất thành Phật, hiệu là Hoa Quang ( Hoa là kết quả của sự tu tập - Quang là ánh sáng của Trí Tuệ )  nước tên Ly Cấu, kiếp tên Đại Bửu. Cõi nước Ta-bà ngũ trược của đức Phật Thích-ca, chúng sanh nhiều nghiệp ác nên Phật mới phương tiện dùng Ngũ thừa hoặc Tam thừa để giáo hóa. Tại sao cõi nước Ly Cấu là cõi nước thanh tịnh, Phật cũng dùng ba thừa để giáo hóa? Đây là bản nguyện của tất cả chư Phật mười phương đều dùng phương tiện nói ba thừa. Sở dĩ gọi kiếp tên Đại Bửu Trang Nghiêm là vì kiếp đó có vô số Bồ-tát tu hành thanh tịnh, là những bậc cao minh trang nghiêm cõi Phật, chớ không phải cõi đó trang nghiêm bằng châu báu vàng bạc.

Riêng Bồ tát Kiên Mãn cũng  được thọ ký sẽ thành Phật mở ra một kiếp đường thênh thang cho những hành giả kham nhẫn tiệm tu cho đến ngày viên mãn lục độ ba là mật 

Cần để ý về kiếp chót của các chư Phật 

Kiếp chót của đức Thích-ca thành Phật sanh làm vương tử, ở đây Phật thọ ký cho ngài Xá-lợi-phất kiếp chót thành Phật cũng làm vương tử và các đức Phật cũng đều như vậy. Tại sao đời chót của chư Phật đều sanh làm vương tử mà không sanh trong gia đình bần cùng? Vì khi Bồ-tát tu tới quả vị Nhất sanh bổ xứ thì phước đức vô lượng vô biên, nên sanh làm vương tử mà không sanh vào chỗ xấu ác. Hơn nữa, vương tử bỏ ngôi đi tu, để cho mọi người thấy rằng Ngài đang ở trong ngũ dục lạc sung mãn, mà gan dạ từ bỏ ngũ dục lạc, khiến cho mọi người ngưỡng mộ kính phục để giáo hóa họ. Và một vương tử có đủ quyền thế mà còn từ bỏ, trong khi mọi người là những kẻ không có chút quyền hành, sao không gan dạ xả bỏ để tu?

(11) 

(Chân Không gọi các đệ tử lại rồi nói kệ:

Phiên âm Hán-Việt:

Diệu bản hư vô nhật nhật khoa

Hòa phong xuy khởi biến sa hà

Nhân nhân tận thức vô vi lạc

Nhược đắc vô vĩ thủy thị gia 

Nghĩa là:

Hư vô, điệu thể vẫn khoe bày

Khắp cõi sa hà, gió dịu bay

Vui nhất vô vi, ai cũng hiểu

Vô vi, nhà ở chính nơi này.

Cái bản tính vi diệu trông không ngày ngày có mặt
Gây nên cơn gió hoà ở khắp thế gian
Người người ai cũng biết cái hạnh phúc của vô vi
Phải thể hiện được cái vô vi đó trong cuộc sống mới gọi là nhà.

Ngô Bá Chung dịch 

Chân không diệu thể quanh ta
Làm nên mây thuận gió hoà nơi nơi
Phúc thiền ai cũng biết rồi
Hoa thiền nở giữa lòng người dễ không ?

Lương trọng Nhàn  dịch 

Hư không huyền diệu quanh ta,

Gây nên thế giới gió hoà khắp nơi,

Vô vi hạnh phúc của người,

Vô vi thể hiện trong đời nhà đây.

Nguyễn Huệ Chi dịch 

Hư vô, diệu thể vẫn khoe bày,

Khắp cõi sa bà, gió dịu bay.

Vui nhất vô vi, ai cũng hiểu,

Vô vi, nhà ở chính nơi này.

(12 )Diệu bản là Thể tánh vi diệu của chúng ta hằng hữu 

. Sáu pháp hòa kính đầu tiên được đức Đạo sư nói ra qua tiêu đề là Lục trọng pháp trong kinh Trung A-hàm, 22, được đức Đạo sư đem ra dạy cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na , nhân hai người đến để trình lên chỗ thấy nghe của Sa-di Châu-na về trường hợp thầy trò Ni-kiền Thân Tử, sau khi ông ta mất đi và những cảnh tượng đau lòng giữa các đệ tử của ông xảy ra. Sự phân hóa phát xuất từ những bản ngã cá nhân được bùng nổ từ sự ẩn nhẫn dưới sự bao trùm khép kín của sư phụ họ, những bản ngã cá thể được bùng vỡ ra từ những ức chế tâm lý đã từng được họ cưu mang thể hiện qua những hành động chống báng nhau, không ai nghe ai! Ai cũng cho mình là nhất, sự ái kính lẫn nhau không còn nữa. 

1. Thân hòa cộng trụ, là trên phương diện sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau.

2. Khẩu hòa vô tránh, đứng trên phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác.

3. Ý hòa đồng sự, là đứng trên phương diện tư tưởng, lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻchấp nhận.

4. Giới hòa đồng tu, là chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra.

5. Kiến hòa đồng giải, là kiến giải có được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập.

6. Lợi hòa đồng quân, là tất cả mọi thứ của cải vật chất có được từ sự hỷ cúng của các thí chủ được chia đều cùng nhau một cách bình đẳng một cách hợp pháp, có nghĩa là bình đẳng trong đồng đẳng.

Về chung mái Lam Thân Hoà đồng trú

Luôn tinh tấn luôn Giới Hoà đồng tu

Từng câu nói năng Khẩu Hoà vô tranh

Chia xẻ đổi trao Kiến Hoà đồng giải

Mọi điều nên nhớ Ý Hoa, Ý Hoà đồng duyệt

Niềm vui xẻ về cùng xây hạnh phúc trên đời

Lạc an nào lớn hơn biết đem Lợi Hoà đồng quân

Và : 

.Vô vi của  Lão  giáo không có nghĩa không làm gì, nhưng để sự việc phát sinh một cách tự nhiên trong sự hòa hợp với Đạo, và vì vậy cần thực hiện những gì cần thiết, nhưng không vượt quá nhiệt tình và hành động mù quáng, được coi là một trở ngại, mà là dễ dàng, nhẹ nhàng và thoải mái. Nó là một trạng thái của sự im lặng nội tâm, vào đúng thời điểm, hành động đúng có thể xuất hiện mà không cần nỗ lực của ý.chí

Vô vi theo Phật Giáo cũng là  Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn lửa tham lam, sân hận, ngu si trong tâm đã bị dập tắt, tâm trở nên trong sáng, mát mẻ, thanh lương, tịch tịnh, tĩnh lặng. Niết bàn là thái độ tâm hết sạch phiền não, rõ biết tất cả pháp là vô ngãvô thường, và bất toại nguyện.

(13) Tích chuyện  “Rùa mù tìm bọng cây nổi trên mặt biển”: trong kinh Trung Bộ tập 3 bài 129 về người ngu và kẻ trí  ( Hiền Ngu )

“Đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng: Chốn đại địa này biến thành biển cả; bấy giờ có con rùa mù sống lâu vô lượng qua trăm ngàn năm nó mới ngóc đầu lên một lần. Tại biển cả có một cây nổi lênh đênh, khi đông khi tây, vì bị sóng dập gió dồi liên tiếp; mà trong thân cây chỉ có một cái lỗ. Thế thì khi rùa ngóc đầu tìm cây và chui đầu vào cây, có dễ gặp không? 

Ngài A Nan trả lời rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Khó mà gặp được, bởi lẽ rùa thì rùa mù, biển thì mênh mông, cây lại cây nổi, trôi theo chiều sóng gió đẩy đưa; đông tây bốn hướng nào có đậu nơi nào. Cho nên chắc chắn khó mà gặp được. 

Phật dạy: Rùa mù, cây trôi tuy khó gặp, nhưng có hy vọng; còn như kẻ phàm phu ngu si trôi nổi trong năm thú mà tái sanh được thân người, mới thật là khó hơn rùa gặp cây bọng gấp mấy. Vậy nên các ngươi ngày nay phải tinh tiến tìm mọi phương tiện phát khởi tâm học đạo mới được”. (Kinh Tạp A Hàm).

Đọc đoạn kinh văn trên, chắc rằng ai trong chúng ta cũng hiểu: khó khăn và hy hữu biết chừng nào để sinh làm kiếp người trong chuỗi dài luân hồi bất tận. Sở dĩ khó khăn là vì “trong cõi súc sanh không có hành vi công đức, không có cử chỉ cung kính, không có điều kiện thù thắng” (Kinh Trung A Hàm); trong khi, con người có nhiều điều kiện sinh lý và tâm lý thuận lợi để thăng hoa. Đức Phật đã từng nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Nhân thị tối thắng”.Dị Bộ Tôn Luân Luận cũng có câu: “Tất cả những kết quả tốt đẹp giác ngộ đều thực hiện bởi con người”. Rõ nhất về giá trị kiếp người cho việc tu tập là đoạn kinh Ưu Bà Tắc: “Trong mọi loài, con người có đủ điều kiện hơn, như về trí khôn ngoan chẳng hạn. Hơn nữa, hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đàng, và không ngu si như thú vật”. 

Tuy nhiên, nếu con người không biết sử dụng khả năng sẵn có ấy để tiến đến chân-thiện-mỹ, mà cứ chạy theo dục vọng kém hèn làm cho thân thể và tinh thần mình mỗi ngày một tiều tụy, ngu si, phá sản, ấy chính là con người tự kéo mình xuống nganh hàng với loài cầm thú.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567