Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Đạo Tràng Lý Tưởng (sách)

06/06/201420:01(Xem: 11672)
Một Đạo Tràng Lý Tưởng (sách)

 Mot Dao Trang Ly Tuong

 

 

Lời đầu sách

 

Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có:

 

1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng.

 

2. Một đạo tràng lý tưởng.

 

3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc.

 

4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ).

Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.

 

Trong 4 tài liệu nêu trên, riêng tài liệu Cẩm Nang Tu Tập, đây là tài liệu mà chúng tôi nhắm thẳng vào sự hướng dẫn cách thức hành trì cho các khóa tu Kết kỳ Niệm Phật đã được tổ chức tại đạo tràng. Tuy nói là cho đạo tràng Quang Minh, nhưng kỳ thật cũng nhắm chung cho các đạo tràng khác. Nhứt là đối với đạo tràng Phước Huệ.

 

Vì nhận thấy có những điểm lợi ích thiết thực cho sự hướng dẫn tu tập, nên có một số quý liên hữu yêu cầu chúng tôi nên tập hợp các tài liệu nầy lại in thành sách để phổ biến lưu hành.

 

Thể theo lời yêu cầu đó, nên chúng tôi đã quyết định cho in và lấy tựa đề chung cho quyển sách là: “Một Đạo Tràng Lý Tưởng”.

 

Mong rằng quyển sách bé nhỏ khiêm tốn nầy, nó sẽ đem lại phần nào lợi lạc cho quý liên hữu trong các đạo tràng, hiện đang tu tập hành trì theo pháp môn Tịnh độ, dưới sự lãnh đạo chỉ giáo chung của Hòa Thượng Liên Trưởng thượng Tịnh hạ Lạc, tức Hòa Thượng Thích Phước Huệ Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ. Đồng thời, cũng để gây thêm chút ít thiện duyên với các liên hữu Phật tử xa gần, những vị chưa có đủ cơ duyên thuận lợi để gia nhập đạo tràng đồng tu học với đại chúng. Đó là thiện ý chân thành của chúng tôi.

 

Cần nói rõ thêm, sách nầy đã được phát hành vào năm 2006, nhưng in với dạng thức đơn giản chỉ để lưu hành trong nội bộ thôi. Nay vì muốn phổ biến rộng rãi hơn, nên chúng tôi có sửa và thêm vào một số tiết mục thiết yếu để in thành sách. Sách nầy được hình thành là nhờ công ơn của:

 

- Hòa Thượng Liên Trưởng, tức Hòa Thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ chứng minh và thẩm duyệt.

- Đại Đức Thích Phước Viên giúp cho phần trình bày và in ấn.

- Đại Đức Thích Phước Quảng giúp cho phần phát họa hình bìa.

- Hai Sư Cô Phước Thanh và Phước An giúp sửa bản in.

Chư liên hữu Phật tử phát tâm hỷ cúng tịnh tài ấn tống.

 

Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho chư Tôn liệt vị: Thân tâm thường lạc, vạn sự kiết tường, tùy tâm mãn nguyện, Phật quả chóng viên thành.

 

Nguyện đem công đức pháp thí nầy, hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, đồng trọn thành Phật đạo.

 

Trân kính

 

Thích Phước Thái

 

Vài nét về quá trình sinh hoạt

Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã

Quang Minh Đạo Tràng.

 

Mọi hiện tượng trên đời không một hiện tượng nào thoát khỏi định luật vô thường chi phối. Việc đời nó luôn luôn trôi chảy như dòng nước, không bao giờ dừng lại. Do vô thường biến đổi, nên việc thạnh suy, hưng vong, thành bại… chúng luôn luôn đắp đổi nhau trong định hướng tương sanh tương khắc. Nhờ vô thường mà sự vật luôn luôn đổi mới. Bởi thế, nên trong khi thạnh đã ngầm chứa mầm suy hay ngược lại cũng thế. Mọi tổ chức, đoàn thể dù lớn hay nhỏ, đều có chung một luật tắc thạnh suy, thành bại đó. Hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai.

 

Đạo tràng Quang Minh cũng không thoát ngoài cái quy luật đó. Nghĩa là từ khi mới thành lập cho đến hôm nay (2011) cũng đã trải qua nhiều thăng trầm sóng gió. Có lúc cũng hanh thông xuôi chèo mát máy, cũng có khi bế tắc tạm ngưng hoạt động. Nhưng tất cả đều không quan ngại, chỉ quan ngại ở nơi ý chí và sự quyết tâm của con người có bền bỉ vững chắc hay không mà thôi.

 

Tưởng cũng nên nhắc lại đôi dòng về nguyên ủy và tiến trình sinh hoạt của cái tổ chức nầy, để chúng ta hiểu rõ thêm về sự biến chuyển thạnh suy của nó.

 

Nếu nhận xét về cái nguyên ủy thành lập và sự sinh hoạt phát triển lâu xa của cái Hội nầy, kể ra cũng khá dài dòng, ở đây, chúng tôi chỉ xin tóm tắt những gì mà chúng tôi được biết.

 

Ngày xưa, trong thời của Tổ Huệ Viễn (Thời Đông Tấn Trung Hoa 334-416) tức Sơ Tổ Liên Tông, vì muốn khuyến khích mọi người có nhân duyên tu tịnh nghiệp, nên Tổ đã khởi xướng lập thành Hội niệm Phật, lấy tên là Hội Liên Xã Niệm Phật. Mục đích của Hội nhằm quy tụ mọi người có nhân duyên Tịnh Độ về đạo tràng Đông Lâm Thần Vận để cùng nhau tinh tấn niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Đó là nguyên ủy xuất xứ của Hội Cực Lạc Liên Hữu.

 

 Khi Tịnh Độ Tông truyền sang Việt Nam, thì ở Việt Nam không có lập thành Hội. Mà chỉ có những bậc Tôn đức uyên thâm Phật pháp, chuyên tu Tịnh Độ. Các Ngài phát nguyện phiên dịch các Kinh điển Tịnh Độ từ chữ Hán sang chữ Việt. Đồng thời các Ngài cũng cổ xúy cho việc in ấn phát hành và thuyết giảng các kinh sách nói về Tịnh Độ. Người đứng đầu có công lao khởi xướng phiên dịch các Kinh chuyên thuyết minh về pháp môn Tịnh Độ là Hòa Thượng Thích Trí Tịnh. Hòa Thượng là một bậc danh Tăng hiện đại, chuyên tu và hoằng truyền pháp môn Tịnh Độ, lấy pháp hiệu là Hân Tịnh Tỳ Kheo.

 

Vào khoảng năm 1967, cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm từ Phật Học Viện Huệ Nghiêm đến Đại Ninh, thuộc ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, kiến thiết Hương Quang thất, chuẩn bị cho giai đoạn ẩn tu.

 

Năm 1968, Hòa Thượng chính thức về trụ hẳn ở Đại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ.

 

Đến năm 1970, Hòa Thượng thành lập tu viện Hương Nghiêm và kể từ đó biến nơi đây trở thành một vùng chuyên tu Tịnh Độ. Một số Tăng Ni và cư sĩ quy tụ về đây để chuyên tu dưới sự hướng dẫn chỉ giáo của Hòa Thượng. Ngoài việc chuyên tu ra, Hòa Thượng còn biên soạn và phiên dịch một số tác phẩm, dịch phẩm nói về Tịnh Độ, như Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Lá Thơ Tịnh Độ, Mấy Điệu Sen Thanh v.v…

 

Để tự thức nhắc mình và cũng để bày tỏ nỗi lòng thiết tha cầu sanh Cực Lạc, Hòa Thượng tự đặt cho mình một pháp hiệu là Liên Du (dạo chơi trên hoa sen). Tuy cố Hòa Thượng có công xiển dương truyền bá về pháp môn Tịnh Độ, nhưng cũng chưa có thành lập Hội Cực Lạc Liên Hữu.

 

Hòa Thượng Thích Phước Huệ (hiện ở Úc) khi còn ở Việt Nam, Ngài cũng như hai vị Hòa Thượng kia cũng chuyên tu tịnh nghiệp và cũng chuyên hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Do đó, mà Hòa Thượng cũng tự đặt cho mình một Tịnh Danh là Liên Hương Tịnh Lạc. Vì Hòa Thượng lấy chữ Tịnh đứng đầu, nên Hòa Thượng đặt cho mỗi liên hữu đều có chữ Tịnh đứng đầu cả. Với dụng ý là ngầm để thức nhắc cho mỗi liên hữu phải luôn luôn nhớ lại pháp môn niệm Phật mình đang tu và điều thiết yếu hơn nữa là để mỗi người hằng lưu tâm hâm mộ về cõi Tịnh an vui vĩnh viễn, mà nên nhàm chán cõi Ta bà đầy uế trược khổ đau triền miên. Lấy cõi Cực Lạc làm quê hương vĩnh cữu, còn cõi Ta bà chỉ là nơi quán trọ tạm dừng chân, quyết sau khi xả bỏ báo thân nầy, vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Đó là ý nguyện tín tâm vững chắc của người tu tịnh nghiệp.

 

Ngoài phần chuyên tu ra, Hòa Thượng còn luôn nỗ lực hoằng hóa sâu rộng pháp môn Tịnh Độ trong hàng tứ chúng. Đó là một hoài bão thiết tha của Hòa Thượng đối với pháp môn Tịnh Độ. Chính do hằng ôm ấp nuôi dưỡng cái hoài bão tự lợi, lợi tha đó, nên sau khi đến Úc, đầu tiên, Hòa Thượng tới Melbourne vào năm 1980. Xét thấy, nơi đây không thích hợp làm cái trung tâm sinh hoạt để truyền bá chánh pháp, nên vào đầu tháng mười cùng năm, Hòa Thượng đến Sydney, hiệp lực cùng một số Phật tử sở tại thành lập Niệm Phật Đường Phước Huệ tại số 326 Hamilton Road, Fairfield. Nơi đây, Hòa Thượng đã phải chịu đựng trăm đắng ngàn cay vất vả khó khăn đủ thứ, bởi những áp lực đè nặng của dân cư quanh vùng. Xét thấy, không thể nào tiếp tục hành đạo tại cơ sở nầy lâu dài được, nên đến năm 1982, nhờ sự phát tâm ủng hộ của Phật tử, Hòa Thượng đã mua được căn nhà cũ tọa lạc tại số 31 Landon Street, Fairfield.

 

 Sau khi mọi việc tạm ổn định, Hòa Thượng nghĩ ngay đến việc thành lập Hội Cực Lạc Liên Hữu lấy tên là Liên Xã Phước Huệ Đạo Tràng. Nơi đây, Hòa Thượng khuyến tấn hướng dẫn mọi người chuyên tâm niệm Phật. Hòa Thượng đã cho in sổ công cứ và cấp phát cho các liên hữu. Những vị nầy, mỗi người nhận lấy một sổ công cứ rồi về nhà trì niệm. Đến cuối năm, vào dịp nghỉ hè, Hòa Thượng tổ chức Đại Hội để các liên hữu quy tụ về dự đại hội tu học và đồng thời trình sổ công cứ để Hòa Thượng chứng minh.

 

Sau đó, mỗi người nhận một chứng điệp công cứ, do Hòa Thượng cấp phát. Nhờ thế, mà mỗi liên hữu đều tinh cần niệm Phật. Kết quả thật tốt đẹp. Với tâm nguyện thiết tha đó, nên có thể nói trọn đời Hòa Thượng chuyên hoằng truyền pháp môn Tịnh độ phổ cập sâu rộng đến mọi tầng lớp trong và ngoài nước. Vì thế, nên Hòa Thượng đã được trong hàng tứ chúng Liên Tông tôn kính ngài là bậc Liên Trưởng ở hải ngoại. Cũng trong khoảng thời gian nầy, một số Phật tử ở Melbourne, cũng đã được Hòa Thượng cấp phát cho sổ niệm Phật công cứ để niệm Phật và cuối năm gởi lên Phước Huệ hoặc đích thân về tham dự Đại Hội trình sổ công cứ lên Hòa Thượng để Hòa Thượng chứng minh.

 

Vào khoảng năm 1984, nhân dịp Hòa Thượng xuống Melbourne để giải quyết một vài công việc Phật sự, khi đó, một số Phật tử có ý hướng ham tu tịnh nghiệp, tụ tập về chùa Đại Bi Quan Âm tọa lạc tại số 8 Prince st, Footscray, để thỉnh cầu Hòa Thượng thành lập Đạo Tràng Cực Lạc Liên Hữu. Ngôi chùa Đại Bi Quan Âm lúc bấy giờ là cơ sở chánh thức của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Victoria, do Hòa Thượng Huyền Tôn làm Giáo Hội Trưởng kiêm Trụ Trì. Việc thỉnh cầu nầy, đã được Hòa Thượng tán đồng. Thế là Đạo Tràng Cực Lạc Liên Hữu đã được hình thành. Tuy nhiên, ở bước khởi đầu nầy, sự sinh hoạt rất còn yếu kém, không có gì khởi sắc. Trong chúng chỉ bầu ra một vị Trưởng Tràng để điều hành. Vị Trưởng Tràng có nhiệm vụ thức nhắc các liên hữu về chùa tu học thọ Bát hai kỳ trong một tháng. Ngoài ra, không có kiểm công cứ hằng tháng hay tổ chức sinh hoạt gì khác cả. Vị Trưởng Tràng lúc bấy giờ là cố liên hữu Tịnh Hoa, tức đạo hữu Nguyên Thông Đoàn Hanh. Những liên hữu kỳ cựu thời đó, nay còn lại một số ít đang tiếp tục sinh hoạt với đạo tràng như quý liên hữu Tịnh Diệu Thùy Hoàn, Tịnh Chơn (Sư Cô Phước Hồng) v.v… Đạo tràng nầy chỉ sinh hoạt trong một thời gian ngắn rồi bị bế tắc đình trệ.

 

Mãi cho đến ngày 8 tháng 10 năm 1989, đạo tràng mới phục hoạt trở lại. Cần nói rõ thêm, lúc bấy giờ chùa đã dời về tại số 177 Morris Street, Sunshine. Trước đó, chùa có tên là Đại Bi Quan Âm tọa lạc tại số 8 Prince st, Footscray như đã nói ở trên. Đến năm 1985, chùa lại dời về ở số 112 Pilgrim Street, Footscray. Đây là ngôi nhà mướn, do Thầy Phước Nhơn làm trụ trì. Lúc đó, Hòa Thượng Huyền Tôn vì lý do sức khỏe nên xin nghỉ chức vụ Hội Trưởng. Bấy giờ ngôi chùa lại đổi tên là chùa Quan Âm. Thầy Phước Nhơn bỏ hai chữ Đại Bi.

 

Đến năm 1986, vì nhu cầu Phật sự ở Tây Úc quá cấp thiết, nên Thầy Phước Nhơn trở lại Tây Úc. Bấy giờ Hòa Thượng Thích Phước Huệ kiêm nhiệm chức vụ Hội Trưởng và Hòa Thượng đã vận động Phật tử mua căn nhà tại số 177 Morris Street, Sunshine, đổi tên là chùa Quang Minh. Từ đó, đạo tràng mới lấy tên là Cực Lạc Liên Hữu Liên xã Quang Minh Đạo Tràng, mãi cho đến ngày nay.

 

Khi đạo tràng bắt đầu phục hoạt trở lại, bấy giờ hai liên hữu nồng cốt của đạo tràng được các liên hữu tín nhiệm bầu lên để hướng dẫn, đó là liên hữu Tịnh Danh (Thầy Phước Hựu) và là liên hữu Tịnh Đức (Thầy Phước Thái). Từ đó, đạo tràng đã có đường hướng sinh hoạt rõ rệt và khởi sắc. Có Nội Quy làm chuẩn đích cho sự sinh hoạt. Cũng trong thời gian nầy, Đại Đức Thích Tâm Phương đã được Hòa Thượng bảo lãnh từ bên đảo qua Úc và đã được Hòa Thượng bổ nhiệm đảm trách chức vụ trụ trì chùa Quang Minh.

 

Ngày 16 tháng 12 năm 1989 là ngày họp mặt đầu tiên giữa Ban Chức Sự và quý liên viên. Buổi họp mặt nầy có đông đủ các liên viên đã ghi tên xin gia nhập liên hữu sinh hoạt từ trước. Tất cả khoảng 30 vị. Và sau buổi họp nầy, đạo tràng đã bắt đầu sinh hoạt một cách rất khởi sắc. Chương trình sinh hoạt lúc đó, tuy không được phát triển mạnh như hiện nay, nhưng cũng không đến nỗi yếu kém lắm. Tuy nhiên, trong lúc đạo tràng đang có chiều hướng trên đà phát triển vươn lên, thì lại bị một nghịch duyên từ trong nội tự gây ra, nên đạo tràng tạm ngưng sinh hoạt. Điều nầy, nếu nhìn theo lý duyên sinh của Phật giáo, thì lỗi không phải tại ai cả. Mà là do thiếu duyên, nên tan rã thế thôi! Làm Phật sự theo lý tùy duyên, thì không có gì phải buồn phiền, giận tức hay luyến tiếc. Bởi giận tức làm chi phải khổ tâm. Hay thương tiếc làm chi hoa vẫn rụng! Từ đó đạo tràng không còn hoạt động như xưa, dù quý liên hữu vẫn đến chùa thọ bát tu học đều đặn, nhưng sự tổ chức của liên hữu không còn hoạt động.

 

Những tưởng đạo tràng đã không còn đủ duyên để hoạt động được nữa, nhưng không, chỉ tạm ngưng sinh hoạt một thời gian (thiếu duyên) rồi một buổi bình minh đẹp trời không còn những đám mây mù u ám bao phủ, thế là đạo tràng lại sống lại (đủ duyên).

 

Đến năm 1990, Đại Đức Thích Tâm Phương không còn làm trụ trì chùa Quang Minh nữa, tự lập chùa riêng tức tu viện Quảng Đức hiện nay. Thế là, chùa lại vắng bóng trụ trì.

 

Theo nhu cầu của Phật tử, công việc Phật sự mỗi lúc lại gia tăng. Thế nên chùa không thể nào không có vị trụ trì. Do đó, Hòa Thượng lại bổ nhiệm Đại Đức Thích Như Định về làm trụ trì. Cần nhắc lại, trong khoảng thời gian gián đoạn trụ trì nầy, đạo tràng bắt đầu sinh hoạt trở lại. Quý liên hữu tóc trắng lẫn tóc xanh, kéo nhau về chùa, một mặt trau dồi tu học, mặt khác lo phụ giúp công quả cho chùa. Sau khi thầy Như Định làm trụ trì, cứ ngỡ là mọi việc tu học sẽ được hanh thông suôn sẻ, có thầy hướng dẫn tu học, tình thầy trò sẽ thắt chặt bên nhau. Nhưng than ôi! Nào ngờ đâu lại thêm một lần nữa đạo tràng phải bị đình chỉ sinh hoạt. Lý do tại sao? Xin đừng hỏi tại sao. Đã nói, mọi việc đều tùy duyên kia mà!

 

Đủ duyên thì họp nhau lại tu học, thiếu duyên thì tan rã. Đơn giản chỉ có thế thôi! Nếu nói theo cung cách của một con người đạt đạo giải thoát, như Thiền Sư Vạn Hạnh đời Lý đã nói :

 

“…Nhậm vận thạnh suy vô bố úy

Thạnh suy như lộ thảo đầu phô”.

 

Nghĩa là :

 

Nhậm vận thạnh suy đừng sợ hãi

Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.

 

Theo luật mâu thuẫn tương đối, thì sự vật không có gì một mặt. Như trên đã nói, trong thạnh đã có mầm suy, trong suy đã có mầm thạnh. Vì thế, nên khi quý liên hữu tuy không còn sinh hoạt nữa, nhưng không vì thế mà nó đã mất đi hạt giống tịnh nghiệp tiềm tàng. Chỉ cần đủ duyên là sự sinh hoạt sẽ bắt đầu trở lại. Thật vậy, sau khi thầy Như Định ra đi (Thầy chỉ ở Quang Minh thời gian khoảng 6 tháng) một lần nữa, chùa lại thiếu vắng vị trụ trì. Có lẽ tại mảnh đất Quang Minh không lành, nên chim không đậu được lâu chăng?! Lúc nầy, Phật tử về chùa mỗi lúc một đông thêm, nhu cầu tín ngưỡng đám sám cần phải giải quyết, nếu không có thầy trụ trì, thì thật là một bất lợi rất lớn cho chùa. Bấy giờ chùa chỉ có Sư Cô Nguyên Lưu và ni cô Phước Thuận. Hai vị nầy không thể nào đảm đang gánh vác những công việc Phật sự như một vị trụ trì được. Việc cầu an, cầu siêu, cúng vong trong chùa vào mỗi buổi sáng chủ nhật hằng tuần phần lớn là do chúng tôi phụ trách giúp thay cho Sư Cô Nguyên Lưu.

 

Xét thấy, chùa không thể nào thiếu vị trụ trì được, do đó, nên tôi cùng Sư Cô Nguyên Lưu, bác Minh Chiếu, cô tư Thùy Hoàn và một số quý liên hữu Phật tử bàn nhau nên tìm phương cách thỉnh cho được thầy Minh Trí về làm trụ trì. (Bấy giờ, thầy Minh Trí từ chùa Pháp Bảo Sydney có tới thăm chùa Quang Minh và có ở lại đây vài hôm, nên quý liên hữu Phật tử mới biết). Tất cả đều tán thành đồng ý. Do đó, mọi người thỉnh cầu Hòa Thượng bổ nhiệm thầy Minh Trí làm trụ trì chùa Quang Minh. Việc thỉnh cầu nầy đã được Hòa Thượng đồng ý chấp thuận. Sau đó, Hòa Thượng với tư cách Viện Trưởng VHĐ ra Quyết Định bổ nhiệm thầy Minh Trí đảm nhận chức vụ trụ trì chùa Quang Minh.

 

 Được tin nầy, tôi, bác Minh Chiếu và quý liên hữu Phật tử, ai nấy đều rất vui mừng. Buổi lễ ra mắt trụ trì, có Hòa Thượng chứng minh và đông đủ liên hữu Phật tử tham dự. Trong buổi lễ ra mắt nầy, chính Hòa Thượng đã giới thiệu trước số đông Phật tử. Hòa Thượng nói: kể từ nay trở đi Đại Đức Thích Minh Trí sẽ là Trụ Trì chùa Quang Minh. Mong rằng, từ đây về sau sẽ không có vấn đề thay ngôi đổi vị nữa. (Vì hai Thầy trước đã được Hòa Thượng bổ nhiệm, nhưng không bao lâu hai vị đều rời khỏi Quang Minh, nên lần nầy, Hòa Thượng muốn thầy Minh Trí giữ chức vụ trụ trì phải được bền lâu).

 

Buổi lễ ra mắt hôm đó diễn ra trong một khung cảnh chứa chan đầy thâm tình đạo vị. Và hơn thế nữa, là đậm đà tình nghĩa thầy trò. Phật tử ai nấy đều rất vui mừng. Riêng phần chúng tôi, chúng tôi cũng rất vui, vì thầy Minh Trí đối với tôi cũng không có xa lạ. Trước năm Mậu Thân 1968, lúc đó, chúng tôi là bạn học chung trường tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm. Tuy chúng tôi học khác lớp, nhưng vẫn sống sinh hoạt chung trường. Vì Huệ Nghiêm lúc đó Tăng chúng rất đông có khoảng hơn 300 vị, chia ra thành 7 chúng. Thầy Minh Trí thì ở chúng Hư Vân, còn tôi thì ở chúng Vô Trước. Chúng tôi sống chung được một thời gian, sau đó, mỗi người có mỗi nhân duyên khác nhau, nên thầy Minh Trí chỉ học được vài năm, rồi sau đó thầy rời khỏi Huệ Nghiêm. Từ đó, chúng tôi không có cơ hội gặp lại nhau. Bỗng dưng, hôm nay, chúng tôi lại được gặp nhau ở nơi xứ lạ quê người nầy, thật chúng tôi vô cùng xúc động mừng rỡ và rất quý kính.

 

Những tưởng mọi việc sẽ được yên xuôi, nhưng sự đời luôn luôn là trái ngược theo ý mình. Quý liên hữu đến chùa thọ bát tu học được một hai kỳ đầu, do tôi hướng dẫn, mọi việc không có gì trở ngại. Thế nhưng, qua kỳ thọ bát lần thứ ba, như thường lệ, khi tôi đến chùa thấy trống vắng liên hữu, hỏi ra mới biết là thầy Minh Trí tuyên bố cho họ nghỉ, mà không có lý do chánh đáng. Khi thầy tuyên bố cho họ nghỉ, tôi hoàn toàn không hay biết gì cả. Như vậy, là thầy lấy quyền trụ trì muốn cho ai tới chùa tu học thì tới, còn không cho thì không ai được quyền tới. Thế là, thêm một lần nữa, đạo tràng lại phải ngưng sinh hoạt từ đó! Tức vào năm 1991.

 

Đến năm 1996, đạo hữu Minh Từ Đặng Văn Hiền đang làm Giáo Hội Phó đặc trách ngoại vụ, vì công ăn việc làm, nên đạo hữu từ nhiệm chức vụ Giáo Hội Phó để di chuyển lên Sydney sinh sống. Trong thời điểm nầy, chùa đã dời về địa chỉ hiện tại số 18 Burke St. Braybrook Vic 3019. Đến đây, chúng tôi xin mở dấu ngoặc cần nói rõ thêm, chùa làm lễ khởi công cho công trình xây cất Chánh điện tạm hiện nay là vào ngày 13 tháng 1 năm 1993, tức nhằm ngày 21 tháng chạp năm Nhâm Thân. Và ngày nhà thầu bắt đầu thực thụ xây cất là ngày 25 tháng 10 năm 1993. Sau khi xây cất hoàn thành ngôi Chánh điện tạm, chùa nhận chìa khóa và dời về vào ngày 10 tháng 6 năm 1994. Như vậy, tính từ khi chùa bắt đầu xây cất cho đến khi hoàn thành trải qua thời gian gần 8 tháng. Nên biết, đây chỉ là giai đoạn tạm thời.

 

Sau khi dọn về sinh hoạt nơi đây, mọi việc sắp xếp tạm ổn, chùa vẫn tiếp tục tiến hành lo dự án xây cất ngôi Đại Hùng Bảo Điện, nên vấn đề ngoại giao với Hội Đồng Thành Phố Brimbank thật tối cần thiết. Do đó, nên Hòa Thượng đã bổ nhiệm Đại Đức Thích Phước Tấn thay chức vụ cho anh Đặng Văn Hiền. Tức là chức vụ Giáo Hội Phó. Hòa Thượng Thích Phước Huệ là Giáo Hội Trưởng. Kể từ đó, Đại Đức Thích Phước Tấn đã có mặt tại chùa

Quang Minh để xúc tiến lo mọi công việc ngoại giao mà Hòa Thượng đã giao phó trách nhiệm cho thầy.

 

Đến ngày 17 tháng 4 năm 1997, Thầy Minh Trí đã chánh thức rời khỏi chùa Quang Minh. Cũng trong năm nầy, vào dịp Đại Lễ Vu Lan, trước số đông đồng bào Phật tử Hòa Thượng tuyên bố là Giáo Hội Trung Ương đã chánh thức bổ nhiệm Đại Đức Thích Phước Tấn đảm nhận chức vụ Giáo Hội Trưởng và kiêm trụ trì chùa Quang Minh. Cần nói rõ thêm, trước đó, dù có giấy bổ nhiệm, nhưng chưa có cơ hội đông đủ Phật tử để Hòa Thượng công bố, nay nhân dịp Đại Lễ Vu Lan Phật tử về chùa tham dự đông đảo, nên Hòa Thượng mới công bố. Thế là Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng lại có cơ hội sống dậy thêm một lần nữa.

 

Thật vậy, vào khoảng tháng 8 năm 1998, nhân dịp Hòa Thượng về chùa Quang Minh, tôi có trình thưa với Hòa Thượng và xin phép Hòa Thượng cho Cực Lạc Liên Hữu sinh hoạt trở lại. Hòa Thượng vui vẻ nhận lời. Thế là Hòa Thượng chấp thuận và trong một buổi họp Hòa Thượng đã công bố trước đại chúng là Đại Đức Thích Phước Tấn làm Trưởng Ban còn tôi làm chánh thơ ký. Sau đó, tôi biên soạn Nội Quy và rồi trình lên cho Hòa Thượng duyệt xét. Xem xong, Hòa Thượng rất tán thành. Sau đó, tôi triệu tập một cuộc họp với số đông quý liên hữu về chùa để thảo luận thành lập Ban Điều Hành và công cử Ban Liên Chúng. Đồng thời, chúng tôi cũng cho công bố bản Nội Quy. Sau khi mọi thủ tục đã hoàn tất, đạo tràng đã chánh thức sinh hoạt trở lại vào ngày 10 tháng 11 năm 1998.

 

Đó là những chướng duyên mà suốt thời gian qua đạo tràng đã gặp phải. Tuy có trở ngại trên bước đường thăng tiến tu học, nhưng không vì thế mà đạo tràng lại không cố gắng kiên nhẫn để vượt qua. Những lúc bị đình trệ ngưng hoạt động, chính đó lại là thời điểm tốt để chúng tôi học hỏi rút thêm kinh nghiệm cho sự hành hoạt.

 

Kể từ khi đạo tràng chánh thức phục hoạt đến nay (2011), trải qua thời gian gần 13 năm. Suốt thời gian dài qua, sự sinh hoạt của đạo tràng tuy cũng có gặp phải một vài chướng duyên trở ngại khó khăn nho nhỏ, nhưng không đáng kể lắm, tất cả đều cố gắng cương quyết vượt qua. Hiện nay, mọi sinh hoạt của đạo tràng đang trên đà phát triển tốt đẹp. Được thế, cũng nhờ sức thầm gia hộ của Tam Bảo và cụ thể là nhờ sự quan tâm chiếu cố chỉ đạo của Hòa Thượng Liên Trưởng và Đại Đức Trưởng Ban cũng như nhờ sự nhiệt tâm làm việc tích cực của các ban: Ban Điều Hành và Ban Lãnh Chúng và nhứt là nhờ vào tinh thần đoàn kết tu học, thật tâm đóng góp cho đạo tràng của các liên viên, mà đạo tràng mới có được những thành quả tốt đẹp như ngày hôm nay.

 

Với tư cách là người đã được trên Hòa Thượng Liên Trưởng và Thượng Tọa Trưởng Ban giao phó trách nhiệm trực tiếp điều hành hướng dẫn mọi công việc sinh hoạt trong đạo tràng, chúng tôi xin chân thành tri ân quý vị trong Ban Điều Hành và Ban Lãnh Chúng cũng như tất cả quý liên viên, suốt thời gian qua quý vị đã tận tâm nỗ lực tích cực phục vụ cho đạo tràng. Quý vị luôn luôn sát cánh với chúng tôi trong việc điều hành hoàn thành trách vụ mà trong chúng đã tín nhiệm giao phó. Xin tất cả nhận nơi đây lòng biết ân sâu xa của chúng tôi.

 

Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho đạo tràng luôn luôn chân cứng đá mềm, thăng tiến mãi trên bước đường sinh hoạt tu học.

 

Chúng con cũng xin thành kính tri ân Hòa Thượng Liên Trưởng đã chứng minh và chỉ giáo khuyến nhắc chúng con trong sự tu học hành trì về pháp môn niệm Phật. Nguyện cầu Phật lực gia hộ cho Hòa Thượng luôn được dồi dào sức khỏe để tiếp tục hướng dẫn dìu dắt chúng con trên bước đường tu học.

 

Sau cùng, chúng tôi cũng xin chân thành kính chúc toàn thể quý liên hữu vạn sự kiết tường như ý và chúng ta mãi mãi là những người bạn sen đồng hành, đồng tu, đồng học trên bước đường hướng về quê hương Cực Lạc.

 

Trân Trọng

 

Thích Phước Thái

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một Đạo Tràng Lý Tưởng

 

Đạo tràng là nơi hội tụ của những người con Phật có cùng một ý hướng chuyên tu theo một pháp môn mà mình đã chọn. Hơn bao giờ hết, hiện chúng ta đang sống trong một thế giới đầy nhiễu nhương, biến loạn, hận thù, tranh chấp và tàn hại lẫn nhau. Thiên và nhơn tai họa hại xảy ra hàng ngày. Lòng người không bao giờ an ổn. Con người mãi chạy theo vật dục đánh mất định hướng lương tri. Đời sống càng ngày càng nổi trôi trong biển đời đầy hệ lụy đau thương. Muốn thoát ra khỏi nỗi khổ đau của thế giới đảo điên biến loạn nầy, chỉ có pháp môn niệm Phật mới có thể đảm bảo cứu thoát được con người.

 

Theo chiều hướng đó, việc kết hợp mọi người về một nơi để cùng nhau tu học, hành trì niệm Phật đó là điều vô cùng thiết yếu. Người xưa nói: “ăn cơm có canh, tu hành có bạn là ý nầy vậy”. Đạo tràng Quang Minh cũng như các đạo tràng khác là nơi hội tụ của những người bạn sen có cùng chí hướng, lý tưởng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Muốn cho đạo tràng ngày càng phát triển vững mạnh hơn, thì mỗi người chúng ta là một viên gạch góp phần xây dựng. Đó là một ý hướng chung của các đạo tràng. Tuy nhiên, muốn cho đạo tràng được thành tựu cao đẹp vững mạnh hơn nữa, thì chúng ta y cứ vào những mô thức và những yếu tố nào để xây dựng? Đó là điều, mà chúng tôi thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên tìm hiểu qua, để từ đó, chúng ta cố gắng cùng nhau góp phần xây dựng cho mỗi cá nhân cũng như chung cho cả đạo tràng có nhiều tiến bộ khởi sắc hơn.

 

I. Thế nào là đạo tràng?

 

Nói đến đạo tràng chúng ta có thể hiểu qua hai ý nghĩa:cạn và sâu.

 

a. Đạo tràng theo ý nghĩa sự tướng.

 

Về ý nghĩa theo dạng thức sự tướng, thì đạo tràng là nơi hành đạo: thuyết pháp, truyền giới, thọ bát v.v…Nói chung là những gì mang tánh cách hình thức trong những pháp sự, đều gọi chung là đạo tràng.

 

b. Đạo tràng theo ý nghĩa lý tánh.

 

Trong Kinh Duy Ma Cật có câu nói: “Trực tâm tức thị đạo tràng”. Trực tâm là tâm ngay thẳng. Thế nào là tâm ngay thẳng? Tâm ngay thẳng là tâm không có phân biệt hai bên: có không, phải trái, lành dữ v.v… Cùng ý nghĩa nầy, Ngài Nam Tuyền

cũng có câu nói: “bình thường tâm thị đạo”. Cả hai câu nói, đều có ý nghĩa giống nhau và đều chỉ thẳng cái bản tâm thanh tịnh sáng suốt sẵn có của chính mình.

 

II. Dựa trên mô thức nào để xây dựng một đạo tràng lý tưởng?

 

Đọc tụng kinh A Di Đà, chúng ta thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu phát họa một cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà thật vô cùng trang nghiêm và lý tưởng. Một cõi Tịnh Độ mang nhiều yếu tố cực kỳ an lạc và giải thoát. Khác hơn cõi Ta bà nầy rất xa.

 

Nếu đứng về mặt hình tướng mà xét, thì mọi thứ ở cõi Cực lạc đều do năng lực của Phật A Di Đà biến hóa ra. Tất cả đều là cảnh đẹp, kết tụ hình thành bằng bảy thứ báu. Từ ao hồ, đất đá, sen nở, chim kêu, cho đến cây cối gió reo, thiên nhạc v.v…, mọi thứ đều hấp dẫn đẹp đẽ lạ thường. Đó là nói về y báo hay cảnh vật là như thế.

 

Còn về mặt chánh báo hay nhân dân trong cõi nước đó thì sao? Theo Kinh diễn tả, đều là các bậc thượng thiện nhơn, tức là những người cao đức thật dễ thương quý kính. Hẳn nhiên, không có những hạng người chỉ biết sống giả dối bề ngoài.

Bề ngoài thơn thớt nói cười

Mà trong nham hiểm giết người không dao.

 

Cõi đó chắc chắn là không bao giờ có những hạng người như thế. Nói gọn cho dễ hiểu hơn, là không có những con người hung ác, thô bạo, cuồng tín, khủng bố tàn sát nhơn loại lẫn nhau. Cõi đó thuần vui không bao giờ có khổ.

 

 Khi mọi người gặp nhau thì sao? Họ chào hỏi nhau và nói năng rất lịch sự, khiêm cung hòa nhã. Không phải hạng người cống cao ngã mạn hách dịch khinh người dưới mắt. Tất cả đều dùng lời ái ngữ, ngọt dịu dễ thương khi giao tiếp. Họ sinh hoạt nhịp nhàng với nhau. Họ không nạnh hẹ, né tránh việc làm và không dòm ngó, bắt bẻ, phê bình, nói xấu, chỉ trích vạch bày lỗi lầm của bất cứ ai. Họ nói trong tinh thần xây dựng, đoàn kết, yêu thương, hòa hợp. Họ không bao giờ có thái độ liếc mắt nhìn ngang ngó dọc bậm trợn như người ở cõi nầy. Vả lại, không ai có lỗi đâu để mà dòm ngó chỉ trích.

 

 Họ sống với nhau rất chân tình, thật thà. Họ không sống bằng đầu môi chót lưỡi. Họ nghĩ sao nói vậy. Họ xem nhau như tình huynh đệ ruột rà. Khi nghe pháp hay lúc trao đổi luận bàn, họ thốt ra toàn là

những lời đạo đức chân thật. Họ không biết dùng những lời điêu ngoa xảo trá. Họ cần giúp nhau mau thăng tiến trên đường giải thoát chóng thành Phật.

 

Họ đi đứng ăn mặc rất nghiêm trang. Tất cả đều mặc đồng phục. Thân hình họ đẹp đẽ, mỗi người đều có 32 tướng tốt, cao lớn ngang bằng nhau, vì tất cả đều do hoa sen sanh ra. Thân họ là thân kim cương bất hoại, nên không có đẹp xấu khác nhau. Do đó, họ không có tâm ganh tỵ đố kỵ nhau. Tất cả đều yêu thương quý kính nhau như người một nhà. Bên cạnh đó, họ còn luôn được tưới tẩm giáo pháp đều đều. Các vị Giáo Thọ hướng dẫn, đều là những bậc tài đức vẹn toàn, thông suốt giáo lý. Ngoài đức Phật Di Đà làm chủ giảng ra, còn có các vị đại Bồ Tát như các Ngài: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh Tịnh v.v…đều là những vị Giáo Thọ tài năng xuất chúng trợ tuyên phụ giảng. Họ nghe pháp mỗi ngày. Mỗi người đều nỗ lực học hỏi không ngừng.

 

 Họ còn có nhân duyên thù thắng là thường mang hoa cúng dường thập phương chư Phật. Sáng sớm nào họ cũng mang túi đi hái hoa. Tất cả đi bằng thần thông. Xong rồi, họ trở về dùng cơm và sau đó đi kinh hành. Cõi Cực lạc không có nấu nướng như cõi nầy. Thức ăn tùy ý tưởng, muốn ăn thứ gì thì có thứ nấy. Ăn xong, không cần phải dọn rửa, dĩa bát tự động biến mất. Họ sống trong tinh thần thương yêu hòa kính.

 

Khi nghe gió thổi, chim kêu, suối reo, nước chảy, họ đều nhớ đến Phật, Pháp Tăng. Bao giờ họ cũng nhớ đến Tam Bảo. Nhờ thế, mà lòng họ luôn luôn tươi mát, nhẹ nhàng, an thoát. Họ không bao giờ biết khởi niệm buồn giận ai. Họ luôn sống trong ánh hào quang của Phật và Bồ tát. Mọi động tác thi vi họ đều sống trong chánh niệm. Họ giữ gìn chánh niệm từng bước đi. Lúc nào họ cũng vui vẻ luôn nở nụ cười hoan hỷ trên môi.

 

Còn và còn rất nhiều yếu tố cao đẹp khác nữa. Đại khái, chúng tôi chỉ y cứ vào kinh, xin nêu ra bấy nhiêu đó thôi. Thiết nghĩ, bấy nhiêu đó cũng đủ để chứng minh cho chúng ta thấy, đó là một cõi nước hay nói hẹp hơn là một đạo tràng thật vô cùng lý tưởng cao đẹp, thuần lạc mà chúng ta cần phải hướng đến và noi theo. Chúng ta quyết lòng hiệp sức tương trợ xây dựng cho kỳ được một đạo tràng theo mô thức đó ở tại đạo tràng Quang Minh nầy. Nhưng trước hết, chúng ta phải xây dựng bằng những yếu tố nào?

 

 

 

III. Những Yếu Tố Căn Bản Xây Dựng Đạo Tràng Hiện Tại.

 

1. Nội Quy

 

Bất cứ một đoàn thể tu học nào, nếu muốn mọi sinh hoạt đều được an ổn tốt đẹp, tất nhiên, đoàn thể đó cần phải có nội quy. Nội quy là quy định những điều kiện chuẩn mực thực hiện trong nội bộ. Mọi sinh hoạt trong đạo tràng đều dựa vào bản nội quy mà hành sự. Vì vậy, có thể nói, nội quy là ông thầy chỉ đạo trực tiếp. Đã thế, thì mỗi người cần phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thật hành. Có tôn trọng và làm đúng theo nội quy thì mọi sinh hoạt mới không bị trở ngại đình trệ. Nói một cách nghiêm khắc cụ thể hơn, nội quy không phải là điều kiện bắt buộc, mà là điều kiện bổn phận.

 

Bản nội quy của đạo tràng có quy định rõ về những điều khoản qua từng chương một. Nó gồm tất cả mười chương và ba mươi bốn điều khoản. Từ chương Mở Đầu cho tới chương Tổng Kết. Trong chương Mở Đầu có nêu rõ lý do về việc phục hoạt của tổ chức và phương cách hành trì đúng theo pháp môn Tịnh độ. Chương hai, nói về Danh Xưng và Phù Hiệu. Chương ba, nêu rõ Tôn Chỉ và Mục Đích. Tôn chỉ là lấy việc niệm Phật làm phương châm và lấy Tín, Hành, Nguyện làm chỗ y cứ sở tu. Lấy sự vãng sanh Cực lạc làm sở nguyện và lấy việc bất thối chuyển, tiến tu đến thành Phật quả làm cứu cánh.

 

Mục đích của đạo tràng là tạo sự gặp gỡ cùng nhau sách tấn niệm Phật, trau dồi học hạnh, tăng thân tương trợ, hộ niệm lúc lâm chung.

 

Chương bốn, nói về cách thức tổ chức. Vì muốn cho việc điều hành công việc sinh hoạt đạo tràng được trôi chảy dễ dàng, nên đạo tràng có chia ra lập thành hai ban: Ban Điều Hành và Ban Lãnh Chúng. Đồng thời cũng quy định rõ về nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi chức vụ, cũng như nêu rõ nhiệm kỳ của các ban. Chương năm, nói về việc Hội Họp và Đại Hội. Về hội họp có quy định những buổi họp định kỳ và bất thường. Mỗi tháng đều có một buổi họp chúng để kiểm công cứ. Đây là buổi họp định kỳ. Ngoài ra, khi cần giải quyết một vấn đề quan trọng nào đó, thì mới triệu tập buổi họp bất thường. Hằng năm, đều có tổ chức đại hội thường niên vào dịp holiday, tức cuối tháng 12 dương lịch và ba năm có đại hội khoáng đại một kỳ. Chương sáu, nói về thể lệ xin gia nhập. Vì là một đoàn thể chuyên tu, nên phần lớn đặt nặng về phương diện thật hành hơn là lý thuyết. Điều quan yếu là khuyến khích sách tấn lẫn nhau chuyên cần niệm Phật.

Việc xin gia nhập, không phân định phái tính hay tuổi tác, cần nhứt là phải có tinh thần tu học. Liên viên được chia làm hai thành phần: Chánh thức và danh dự. Chương bảy, nói về việc Thăm Viếng, Vãng Sanh, Phúng Điếu và Cầu Siêu. Chương tám, quy định rõ về việc Tu Học, Đồng Phục, Sinh Hoạt và Tán Thưởng. Chương chín, quy định về việc Tu Chính Nội Quy. Chương mười là phần Tổng Kết.

 

Trên đây, chỉ nêu ra những nét đại cương qua mỗi chương, chớ không có nêu rõ phần chi tiết của mỗi điều khoản. Đại khái, đó là mười chương của bản nội quy mà hiện đạo tràng đã và đang thực hiện. Và bản nội quy nầy chỉ lưu hành trong phạm vi nội bộ. Khi gia nhập đạo tràng, thì mỗi người sẽ nhận một bản nội quy để đọc kỹ. Thỉnh thoảng, bản nội quy nầy cũng được đọc trong những buổi họp chúng kiểm công cứ. Với mục đích là để nhắc lại cho quý liên hữu nhớ mà thật hành cho đúng. Đồng thời tất cả liên viên đều phải học hỏi thông suốt qua bản nội quy nầy. Vì các liên viên gia nhập đạo tràng không đồng nhứt, kẻ trước người sau, cũ mới khác nhau, nên thỉnh thoảng cũng phải đọc và giải thích lại cho tường tận để cho các liên viên hiểu rõ mà thi hành. Điểm đặc biệt, khi gia nhập đạo tràng chánh thức, thì vị đó được phát cho một bản nội quy để đọc. Sau khi đọc kỹ rồi, cảm thấy thích hợp, thì chừng đó văn phòng mới phát đơn để điền. Sau khi điền đơn xong nộp lại cho văn phòng, thì vị đó coi như đã trở thành một liên viên chánh thức của đạo tràng.

 

Từ trước tới nay, các liên viên ai nấy đều tuân hành giữ đúng theo bản nội quy nầy. Do đó, nên mọi sinh hoạt trong đạo tràng mới được hanh thông, trôi chảy, hài hòa, gắn bó nhịp nhàng tốt đẹp. Được thế, là do mỗi liên viên tự ý thức được vai trò bổn phận và trách nhiệm của mình. Nhất là đối với các ban, ai nấy đều nghiêm chỉnh chấp hành đúng theo tinh thần của bản nội quy đã quy định. Đó là điều thật đáng khích lệ và tán dương. Nói cách khác, đạo tràng sở dĩ được phát triển khởi sắc vững mạnh như hôm nay, là nhờ mỗi liên viên ý thức tích cực đóng góp vào. Do đó, nên mới có được những thành quả tốt đẹp.

 

2. Tình Thương Chân Thật

 

Chúng ta là những người Phật tử cần phải tôn trọng sự thật. Hơn nữa, chúng ta lại là những bạn sen cùng tu học một pháp môn, cùng hành trì niệm Phật. Lòng từ bi của Phật thương yêu tất cả muôn loài. Chúng ta cần nên tập tu và học theo hạnh từ bi của Phật. Chúng ta hãy thật sự thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta là con một Cha, người một nhà, hãy xem nhau như tình huynh đệ. Vẫn biết, tật tánh ganh tỵ đố kỵ của chúng sanh là một tập khí lâu đời khó trừ khó đoạn, nhứt là đối với phái nữ. Nhưng chúng ta phải ý thức rằng, chúng ta niệm Phật là để mỗi ngày trở nên giống Phật. Mà Phật thì không bao giờ biết ganh ghét một ai. Phật không có phân biệt kẻ thân, người thù. Phật coi mọi người đều bình đẳng như nhau. Biệt nghiệp của mỗi người sai khác nhau, làm sao chúng ta muốn ai cũng như nấy cho được. Nếu chúng ta niệm Phật mà lòng còn ganh ghét người nầy hoặc thù hằn giận tức người kia, thì thật sự chúng ta chưa phải là người biết niệm Phật. Đó chỉ là miệng niệm suông ở đầu môi chót lưỡi mà thôi! Như thế, thì làm sao tương ưng với pháp môn mà chúng ta đang tu, thật hành?

 

Phật Tổ khuyên mỗi người chúng ta cần phải bỏ tật tánh xấu ác nầy. Chúng ta hãy thật sự thương yêu, trân kính nhau. Chúng ta nên nhớ hai câu thơ nầy trong truyện Kiều mà cụ Nguyễn Du đã nhắn gởi, thức nhắc chúng ta:

 

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.

 

Đôi ta ở đây có nghĩa là những người bạn đạo thân thiết, những người thân thuộc trong gia đình, nói chung là người đối với người, khi có dịp gần nhau hay sống chung bên nhau, thì chúng ta nên trân quý hết lòng thương yêu nhau. Chúng ta hãy thật sự hiến tặng cho nhau bằng những nụ cười hiền hòa tươi mát và với tất cả tấm lòng quý mến yêu thương. Nếu không như vậy, để rồi sau nầy người bạn hay người thân của chúng ta mất đi, bấy giờ, chúng ta lại đâm ra buồn đau hối tiếc. Khi đã hối tiếc, thì đã quá muộn màng khác nào như một giấc chiêm bao. 

 

Chúng ta không phải chỉ biết nói thương yêu nhau trên đầu môi chót lưỡi, mà chúng ta cần phải biểu lộ ra bằng hành động phát xuất từ tấm lòng chân thật của chúng ta. Phát xuất bằng cách nào? Bằng cách giúp đỡ, thăm viếng lẫn nhau khi đau yếu bệnh hoạn. Hay những lúc bạn sen ta gặp khó khăn vì một hoàn cảnh nào đó bất như ý. Nhứt là trong giờ phút hấp hối sắp từ giả vĩnh viễn cõi đời. Chúng ta khuyên bảo nhắc nhở cho bạn sen chúng ta nhớ niệm Phật trong giờ phút sắp ra đi nầy, thì đó mới thật là tình thương đầy ý nghĩa. Hãy thể hiện tinh thần: “chị ngã em nâng” hay ngược lại cũng thế”. Chỉ có tấm lòng chân thật đó mới tồn tại trong lòng của mỗi người. Dù mai nầy thân xác của chúng ta có tiêu tan ra thành tro bụi, nhưng tinh thần nghĩa cử yêu thương đó vẫn tồn tại mãi theo dòng thời gian và trong lòng người muôn thuở.

 

Còn sống mạnh khỏe thì nói năng, hoạt động, giận hờn, trách móc người nầy người kia đủ thứ, đến khi bệnh sắp chết nằm đó, thì thử hỏi có còn hơn thua, phải trái, trách móc, tranh giành, ganh tỵ ai nữa không?

 

Chúng ta hãy tập tánh hỷ xả của Bồ tát Di Lặc. Buông bỏ tất cả để ngày ra đi của chúng ta được nhẹ gánh. Hãy nghĩ đến cái chết cận kề, xảy ra cho ta bất cứ lúc nào, thì tội gì chúng ta phải chuốc lấy khổ đau nặng nề cho ta. Nghĩ thế, thì chúng ta mới có tình thương chân thật với mọi người. Đó là một yếu tố quan trọng để tự tu thân và cũng để xây dựng cho đạo tràng.

 

Được thế, thì tình bạn sen của chúng ta thật là tốt đẹp biết mấy. Điều nầy, ta cương quyết làm được. Chỉ cần ta mở rộng tấm lòng bao dung, tha thứ, hỷ xả với mọi người, thì mọi việc đều an vui tốt đẹp. Ta nên nhớ bài hát Buông Xả:

 

Buông xả tâm an vui

Buông xả miệng mỉm cười

Buông xả lòng tươi mát

Buông xả thắm tình người

 

Buông xả có gì hơn

Buông xả hết giận hờn

Buông xả niềm an thoát

Buông xả trở về nguồn.

&&&

Nếu ai bực tức giận buồn ta

Ta hãy bình tâm giữ ôn hòa

Không nên tranh cãi gây thù hận

Chớ trách lỗi người xét lại ta.

 

Học hạnh từ bi tánh vị tha

Mở rộng lòng thương khéo thuận hòa

Dẹp lòng ích kỷ tâm sân hận

Gắng chí tu hành khổ thoát ra.

 

Giận trách chi người khổ lụy sâu

Nhiều đêm không ngủ tóc bạc đầu

Sao bằng hoan hỷ tâm buông xả

Thoát khỏi giam mình giữa vực sâu.

 

Chỉ cần phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật. Noi gương các bậc Thánh Hiền xưa, các Ngài chỉ tu tập có một chữ Xả. Chàng Vô Não buông thanh gươm sát máu trong tay, được đức Phật hóa độ trở về với chánh pháp. Bà Bá Bất Quản buông hết mọi việc, không để một vật gì vướng bận trong lòng, chỉ một lòng niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc, kết quả Bà đã được toại nguyện. Được thế, là vì Bà dám cương quyết buông hết tất cả. Thế nên, chúng

ta muốn có lòng thương chân thật, thì chúng ta nên cố gắng tập buông. Buông từ những việc thô bên ngoài đến những việc vi tế bên trong tâm ta. Buông hết những vọng niệm phải quấy, hơn thua, được mất v.v… thì chúng ta mới thật sự có được an lạc. Chính nhờ hỷ xả mà chúng ta mới thật lòng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.

 

Thời gian qua, các đạo tràng chúng ta đã có thể hiện ít nhiều về vấn đề nầy. Đây là một điều thật đáng vui mừng. Tuy nhiên, chúng ta không nên tự mãn mà cần phải thể hiện phát huy tình thương giúp đỡ cho nhau nhiều hơn nữa. Đó là điều mà đạo tràng chúng ta đã và đang chủ trương thực hiện.

 

3. Khung Cảnh Tươi Mát Thanh Nhã

 

Ngoại cảnh đôi khi cũng làm cho chúng ta cảm thấy tươi mát dễ chịu. Cảnh u tịch thanh vắng cũng dễ làm cho lòng người lắng dịu. Rừng cây, khóm trúc, gió thổi, nước chảy, mây bay, trăng đẹp, hoa nở, chim kêu… đều là những cảnh vật thiên nhiên, chúng có tác dụng làm cho tâm thức ta dễ được yên tĩnh, lắng dịu, an thoát, nhẹ nhàng hơn. Cuộc sống hối hả, vất vả, náo động ồn ào như cái máy, làm cho chúng ta đâm ra nhiều nỗi bức xúc rối loạn điên đầu. Chúng ta quay cuồng theo cuộc sống vật chất, lòng chúng ta càng thêm rối bời như tơ vò. Đầu óc chúng ta luôn mãi suy nghĩ vẩn vơ không bao giờ dừng. Máy cassette còn có cái nút bấm ngừng, còn đầu óc của chúng ta thì không bao giờ tìm ra được cái nút đó. Nhiều người do suy nghĩ nhiều quá, rồi đâm ra bị rối loạn căng thẳng thần kinh, nên họ dễ bị mắc phải chứng bệnh tâm thần. Bởi vậy, đôi khi chúng ta cũng cần đến cảnh trí thiên nhiên, để di dưỡng tinh thần.

 

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa

Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên

Thoát trần, một gót thiên nhiên

Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

(Cung Oán Ngâm Khúc - Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều)

 

Đó là cả một kinh nghiệm sống của một con người khi đã quá mỏi gối chồn chân trong cuộc sống bon chen vật lộn tranh giành hơn thua với đời. Họ cần có những phút giây yên tĩnh thoải mái. Mà chỉ có khung cảnh thiên nhiên mới đem lại nguồn vui sống cho chính họ. Vì thế, chúng ta cần phải thường xuyên tiếp cận với cảnh trí thiên nhiên.

 

Thiên nhiên cảnh trí rất nên thơ

Nắng ấm trời trong chẳng bụi mờ

 Gió mát chim kêu lòng thanh thoát

Nước hồ yên tịnh trí buông tơ

Việc đời gác lại bên đồi núi

Phật đạo tâm gìn lắng đục nhơ

Tây cảnh sen vàng tâm nguyện ước

Di Đà chuyên niệm nguyện ước mơ

 

Người xưa thường ở những nơi vắng vẻ để tham thiền nhập định. Vì cảnh trí thiên nhiên gây cho người ta có nhiều sự thoải mái an lạc hơn. Tổ Quy Sơn cũng đã nói: “Muốn gội tâm nuôi đức phải ẩn tích mai danh, muốn uẩn tố tinh thần phải xa nơi huyên náo”. Trong Chứng Đạo Ca ngài Vĩnh Gia Huyền Giác cũng nói:

 

Nhập thâm sơn trụ lan nhã

Sầm ngâm u thúy trường tòng hạ

Ưu du tĩnh tọa dã tăng gia

Khuých tịch an cư thật tiêu sái

 

Dịch Nghĩa:

 

Vào rừng thẳm, trụ am thanh tĩnh mịch

Dưới cội tùng, bên gộp đá bóng râm che

Làm tăng quê, vui sâu trong tĩnh tọa, trong êm đềm

Cảnh lặng lẽ an lành sao nói hết.

 (Hòa Thượng Thích Từ Thông)

 

Đó là cái vui của con người ly dục đạt đạo. Vui trong lặng lẽ an thoát nhẹ nhàng. Ngược lại, người đời họ đi tìm những thú vui trong cảnh ồn náo rộn rịp. Thú vui đó chỉ mở đường cho đau khổ mà thôi. Cảnh trí tuy là những hiện tướng bên ngoài, nhưng nó cũng có một tác dụng làm cho lòng người dễ được an ổn. Vì thế, nên các ngôi già lam, càng có cây cối hoa kiểng nhiều, thì càng làm cho người ta cảm thấy tươi mát nhẹ nhàng an định dễ chịu hơn. Hiện tại, đạo tràng Quang Minh chúng ta chung quanh cũng có nhiều cây cảnh tươi mát, và có triền đồi nằm thoai thoải rất xinh đẹp. Thời gian qua, chúng ta cũng đã nỗ lực trồng cây tạo thêm nhiều cây cảnh, hy vọng thời gian không lâu nơi đây sẽ trở thành một đại tòng lâm mỹ quan và thanh lịch.

 

4. Lắng Nghe, Hiểu và Cảm Thông

 

Lắng nghe là một phương pháp mà mỗi bạn sen chúng ta cần phải thực tập. Những ngày thọ bát tại chùa, chúng ta cần phải thực tập nghe chuông. Khi nghe chuông, mỗi người cần phải nhiếp tâm giữ chánh niệm. Ta không nên nói chuyện hay suy nghĩ bất cứ điều gì khi âm thanh của tiếng chuông còn đang tiếp diễn. Hãy cố gắng thực tập như thế, thét rồi sẽ quen dần. Vạn sự khởi đầu nan. Cứ thực tập một cách nghiêm chỉnh đi, rồi chúng ta sẽ cảm

nhận sự mầu nhiệm của nó. Khi thực tập thuần thục rồi, từ đó chúng ta sẽ lắng nghe bất cứ âm thanh nào xảy đến với ta. Dù đó là âm thanh của thiên nhiên hay âm thanh phát ra từ tiếng nói của mọi người. Tất cả đều có tác dụng thức nhắc chúng ta cần giữ vững chánh niệm.

 

Khi lắng nghe người đối diện bày tỏ nỗi lòng của họ, ta mới có hiểu rõ và dễ cảm thông. Không có gì vui nhẹ bằng, khi có người biết lắng nghe ta nói. Thái độ lắng nghe rất quan trọng mà đạo tràng chúng ta cần phải thực tập. Tuy đây là một vấn đề mới nghe qua, ta cho là tầm thường, nhưng khi thật hành ta mới cảm thấy khó khăn. Vì ở đời ai cũng thích nói, hơn là thích lắng nghe.

 

Lắng nghe là một nghệ thuật dễ chinh phục tình cảm. “Bạn hãy chịu khó lắng nghe, thì bạn sẽ thấy sự dễ thương và có duyên của nó”. Đó là lời khuyên của một nhà tâm lý học. Không có gì nhẹ thoát hơn bằng có người chịu khó lắng nghe mình phơi bày tâm sự. Những nỗi khổ niềm đau lâu nay mình chất chứa đè nén ẩn ức trong lòng, nay có được người khéo biết chịu khó lắng nghe mình nói. Thử hỏi còn gì vui sướng hơn!

 

Trong các vị Bồ Tát, ta có một vị Bồ Tát thường xuyên khéo biết lắng nghe. Đó là Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm có một trái tim rất rộng lớn như trái tim mặt trời. Đó là trái tim rộng mở bao dung trùm khắp. Một trái tim chan hòa tình thương khắp cả muôn loài. Vì có thương nên mới có chịu khó lắng nghe. Có lắng nghe, ta mới thật sự có hiểu và cảm thông. Từ đó ta mới trải rộng tấm lòng bao dung yêu thương tha thứ.

 

Trong đạo tràng, chúng ta cần chia sẻ những khó khăn, những khúc mắc mà các bạn sen của chúng ta không may gặp phải. “Hiểu, thương và thông cảm”, đó là nhịp cầu tối thiết yếu mà mỗi người chúng ta nên thực hiện. Có thế, thì tình bạn sen của chúng ta mỗi ngày càng thêm thắt chặt nhau hơn. Ba yếu tố nầy không thể thiếu, khi chúng ta sống chung sinh hoạt trong đạo tràng.

 

Khi chúng ta thực tập chịu khó lắng nghe được âm thanh bên ngoài rồi, từ đó, chúng ta cũng có thể đi sâu vào lắng nghe lại cõi lòng sâu kín của ta. Nghĩa là ta phải lắng nghe lại tánh nghe của ta. Đó là hạnh tu của đức Bồ Tát Quán Thế Âm: “Phản văn văn tự tánh”. Có thực sự lắng nghe lại lòng mình cho thật sâu sắc như thế, thì chúng ta mới có thể cảm nhận được sự có mặt của mình và của muôn loài. Sự có mặt trong mối tương quan hình thành bởi nhân duyên tương tức tương nhập. Có thế, thì chúng ta

mới trải rộng lòng thương đến muôn loài. Vì muôn loài đều có chung một nguồn sống thể tánh rộng khắp như ta. Đó là một hạnh tu không bị lệ thuộc vào âm thanh ngoại cảnh và do đó không có âm thanh nào làm cho lòng ta phải bị dao động khó chịu, bực bội dễ phát sanh phiền não.

 

Lắng nghe diệu thuật khéo lắng nghe

Thật lòng hoan hỷ để lắng nghe

Nghe không chưa đủ cần phải lắng

Có lắng tâm thành mới biết nghe.

 

Chia sẻ nỗi niềm chỉ lắng nghe

Nghe lại lòng mình chẳng giấu che

Pháp âm người nói ta nghe mãi

Chẳng chút buồn phiền mới thật nghe.

 

Lắng nghe phương pháp thật rất hay

Vơi khổ lòng người nỗi đắng cay

Bao nhiêu tâm sự đều tan biến

Diệu thuật Quán Âm đã phơi bày.

 

5. Dùng Lời Ái Ngữ Khi Giao Tiếp

 

Như ở trên, chúng tôi đã nêu ra về cách sống khi giao tiếp với nhau của người dân ở cõi Cực Lạc. Họ giao tiếp với nhau bằng tất cả tấm lòng chân thật. Họ không biết dùng sáo ngữ bãi buôi trên đầu môi. Lúc nào, họ cũng thốt ra toàn là những lời ngọt dịu dễ nghe. Vì thương kính nhau, nên họ mới có những lời nói êm tai ngọt dịu không vụ lợi. Họ không tỏ ra theo kiểu giao tiếp mua lòng bề ngoài. Nói một đường làm một ngã. Tuyệt đối, họ không bao giờ nói thêm bớt, gian dối, lường gạt, ly gián nói xấu sau lưng với bất cứ ai. Lời họ nói ra là lời chân thật như đinh đóng cột. Không có trao chuốt, theo kiểu ngọt mật chết ruồi. Họ xử sự rất thành thật với nhau. Do đó, mà họ không bao giờ có đôi chối tranh chấp hơn thua. Đó là nếp sống cao đẹp của nhân dân ở thế giới Cực lạc.

 

Đạo tràng chúng ta đã và đang hướng đời mình về thế giới Cực Lạc. Thế thì, chúng ta cũng nên bắt chước cách nói năng hòa nhã, dịu ngọt, đầy lòng từ ái thương mến chân thật quý kính nhau. Khi cần tiếp xúc nói chuyện với nhau, mỗi người nên dùng lời ái ngữ. Vâng! Chỉ có lời nói ái ngữ mới đem lại nguồn vui hạnh phúc cho nhau. Chúng ta sinh hoạt trong một môi trường đạo đức, trong nếp sống hướng thượng thanh cao, mỗi người nên cẩn thận lời nói. Vì:

 

 Lời nói không mất tiền mua,

 Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Hay:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

 

Dĩ nhiên, chúng ta phải hơn loài chim rất nhiều. Chúng ta phải khôn hơn chúng nhiều. Đã thế, thì lời nói của chúng ta phải là lời nói có giá trị. Con người hơn loài vật là ở chỗ có trí khôn hướng thượng cao đẹp. Mà lời nói là dấu hiệu biểu hiện cho trình độ của trí khôn đó.

 

Từ ngàn xưa, các bậc Cổ Đức đã từng khuyến nhắc cảnh báo chúng ta về lời nói. Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần. Vì lời nói có thể đem lại lợi ích cho mình và người. Có những lời nói gây nên bao hận thù tàn sát đẩm máu lẫn nhau. Một lời nói hưng nhà lợi nước, một lời nói nước mất nhà tan. Một lời nói làm cho mọi người phải chịu đau khổ. Ý thức được điều đó, nên Phật Tổ thường khuyên chúng ta phải nói năng cẩn thận, luôn nhớ câu: “Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Đối với chúng ta là những người đang tiến bước trên đường tu, ai cũng muốn cho mình chóng được giác ngộ giải thoát, muốn thế, tất nhiên chúng ta cần phải gìn giữ khẩu nghiệp. và phải nói lời hòa nhã chân thật. Đừng nói những lời thất đức làm tiêu hao hết phước đức của ta. Một lời nói ác đức khác nào như một đốm lửa nhỏ nó có khả năng thiêu hủy cả khu rừng công đức của ta. Vì thế, chúng ta phải hết sức cẩn thận khi phát ngôn.

 

Lời nói ra phải là vàng là ngọc

Lời nói ra chớ nọc độc phun người

Lời nói ra phải lợi ích vui tươi

Phải thiết lập truyền thông trong tinh thần cởi mở

Lời nói ra như sen vàng tươi nở

Lời nói ra như phóng ngọc hào quang

Lời nói ra phải xuất phát tận tâm can

Cùng xây dựng trong tinh thần yêu thương đoàn kết.

Lời nói ra không bao giờ thêu dệt

Lời nói ra thêm bạn, chẳng thêm thù

Lời nói ra như trăng sáng giữ mùa thu

Như hoa nở giữa sương mù thanh thoát

Lời nói ra như hoa thơm bay ngào ngạt

Lời nói ra gây tươi mát đến người nghe

Lời nói ra chân thật với bạn bè

Không sáo ngữ, không lập phe bằng những lời giả dối.

 

6. Chào Nhau Trong Niềm Trân Kính

Người ở cõi Cực Lạc, mỗi khi gặp nhau, họ chào nhau rất là tôn kính. Khác hơn cõi nầy có nhiều cách biểu lộ chào nhau. Đấy là tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia, mỗi tôn giáo mà sự chào nhau có sai khác. Người theo đạo Phật, tu theo pháp môn Tịnh Độ, ngoài cách chắp tay, họ còn niệm câu A Di Đà Phật. Đó là lối chào vừa thể hiện nét đẹp lịch sự của con người, nó còn có ý nghĩa là thức nhắc lẫn nhau trong ý nguyện nhớ Phật. Họ chào với tất cả tấm lòng thành thật quý kính, chớ không phải chào theo lối xã giao thường tình. Đó là lối chào của người đời. Chúng ta phải học hỏi bắt chước theo lối chào nhau của người ở cõi Cực Lạc. Họ chào nhau bằng tất cả sự quý kính, thương yêu trong lòng. Chắp hai bàn tay lại, theo hình hoa sen búp, đó là nói lên ý nghĩa cao đẹp phát xuất từ tấm lòng chân thật thương kính.

 

Người đời thường nói: “Tiếng chào cao hơn cổ”. Chào nhau trong niềm tương kính yêu thương. Đọc tụng Kinh Pháp Hoa, ta không thể nào quên được hình ảnh của ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát. Một vị Bồ tát luôn tỏ ra kính trọng khiêm cung với mọi người. Đi đâu, gặp ai, Ngài cũng xá chào và nói câu: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ thành Phật”. Thật đó là một lối chào vừa biểu lộ được cung cách cao đẹp của tình người, mà cũng vừa thức nhắc mọi người nhớ lại cái tánh giác sẵn có của chính mình. Vì ai cũng sẵn có tánh giác, nên ai cũng có thể thành Phật. Đó là phương cách thọ ký cho mọi người. Ta nên bắt chước cái cung cách khiêm nhường chào nhau bằng tất cả nỗi lòng tôn kính nhau.

 

Đạo tràng chúng ta mỗi người nên thực tập cho kỳ được lối chào nầy. Chúng ta không nên có ý niệm xem thường với nhau. Đừng nghĩ rằng gặp nhau quen quá khỏi cần phải chào. Chào nhau là một hình thức biểu lộ nét đẹp của người tu. Chớ không phải chào nhau để lấy lệ coi thường. Về Cực Lạc, khi gặp bạn sen với nhau, ta cũng đều phải trân kính chào nhau. Không phải về đó, rồi gặp nhau lấy con mắt ngó nhau. Chúng ta phải thực tập ngay từ bây giờ và phải tạo cho ta một cõi Tịnh Độ ngay đây. Phải làm thế nào biến đạo tràng Quang Minh thành một cõi Tịnh Độ hiện thế. Có thế, thì mới tương đồng với cõi Tịnh Độ ở Tây Phương.

 

Ta chào nhau trong tinh thần tương kính

Ta chào nhau bằng ý niệm không tranh

Ta chào nhau bằng ánh mắt sẵn dành

Dành tất cả cho tình thương thể hiện

Ta chào nhau không bề ngoài cửa miệng

Ta chào nhau trong tiếng niệm chân thành

Ta chào nhau như tiếng hát của trời xanh

Của muôn thuở với bản tình ca bất hủ

Ta chào nhau trong tinh thần tự chủ

Ta chào nhau bao ấp ủ tình thương

Ta chào nhau không ý niệm khinh thường

Luôn khiêm tốn muôn đường ta khiêm tốn.

 

7. Giữ Nụ Cười Theo Bước Chân Đi

 

Cười là một thái độ của miệng biểu lộ một niềm vui. Khi ta mỉm cười là lòng ta phải thực sự tươi mát. Cười không những mang lại hạnh phúc cho chính ta, mà nó còn ảnh hưởng đến những người chung quanh. Nhưng nụ cười đó phải được toát ra từ chánh niệm. Cười có mặt trời ý thức soi sáng. Nụ cười như thế mới thực sự có giá trị.

 

Người ta thường nói: “ Nụ cười là liều thuốc bổ”. Hay “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Cười đem lại sức sống tự tin cho ta hơn. Tại sao người ở cõi Cực Lạc, khi họ gặp nhau đều tươi cười? Phải chăng họ cười xã giao hay cười lấy lệ? Họ cười thật đó! Nụ cười của họ toát ra từ cõi lòng thanh tịnh an vui. Nếu người ở cõi Cực Lạc có nụ cười đó, thì tại sao ở đây mình lại thiếu vắng nụ cười đó? Chúng ta có thể thực tập được nụ cười tươi mát đó mà! Chúng ta không nên có tự ty mặc cảm. Rằng, chúng ta ở cõi Ta Bà luôn luôn đau khổ. Không. Chúng ta cần phải chuyển đau khổ thành nụ cười tươi vui an lạc. Đó là quyền chuyển đổi của chúng ta.

 

Chúng ta muốn trở thành người ở cõi Cực Lạc trong tương lai, thế thì tại sao chúng ta không xây dựng tạo cho ta có một nụ cười an lạc trong hiện tại? Chúng ta nên nhớ, tương lai có ra, đều phải được xây dựng tạo thành bằng những chất liệu hiện tại. Không xây dựng bằng chất liệu hiện tại, thì đừng mong có một tương lai tốt đẹp. Đó là một sự thật. Một sự thật như hai cộng với hai là bốn vậy.

 

Chúng ta đừng quên nụ cười của Tổ sư Ca Diếp. Đó là nụ cười bất diệt siêu vượt thời gian và không gian. Nụ cười đó âm thanh vẫn mãi vang vội trong lòng mọi người. Ta nên bắt chước học theo nụ cười đó. Đó là nụ cười thật sự giải thoát. Cười để cho bao nhiêu những cáu bợn phiền não rối rắm trong lòng tiêu tan hết. Muốn có được nụ cười đó, ta cũng cần phải thường xuyên thực tập mới được. Ta tập mỉm cười khi buổi sáng mới thức dậy.

Khi cười ta có thể nhìn thật kỹ gương mặt ta ở trong gương. Nhìn để ta thấy được nụ cười của ta không phải là thứ nụ cười giả dối bề ngoài. Mà ta phải cười thành thật với lòng ta. Cười để cho những tế bào trong thân ta thư giãn tươi mát. Đó là phương thuốc thần diệu làm cho thân tâm ta ít có khô héo bệnh đau. Vì nụ cười đã đưa hết những thứ nhơ uế: ganh tỵ, thù hềm, bực bội, giận tức, ghét ganh, mặc cảm v.v… tống khứ những thứ đó theo nụ cười của ta mà ra ngoài hết. Ta cố gắng thực tập và noi theo nụ cười của Bồ Tát Di Lặc. Cười để cho bao bụi trần phiền não đều rơi hết.

 

Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá

Bao bụi trần bám đã rồi rơi

Mặc cho thế sự đầy vơi

Dững dưng như một nụ cười an nhiên.

 

Mong sao, trong đạo tràng của chúng ta ai nấy đều có những nụ cười an lạc, thật thoải mái vui tươi như hoa nở. Nhìn đóa hoa nở xinh tươi, ta cảm thấy thật tươi mát dễ chịu. Ta hãy tập mỉm cười như đóa hoa kia vừa hé nụ. Đó là ta khéo biết giữ nụ cười trên môi. Trên môi luôn nở nụ cười hàm tiếu chánh niệm. Đó là một hạnh phúc tuyệt vời mà bạc tiền không thể mua được.

 

Nụ cười an lạc ngát hương thơm

Hoa lá cùng vui thích ngắm dòm

Cười cho vạn loại yêu thương mãi

Hạnh phúc muôn đời Linh Thứu sơn

 

Nụ cười muôn thuở chẳng hề phai

Ôm lấy tình thương khắp vạn loài

Muôn điệu tình ca trong nắng ấm

Vui cười an thoát dứt mộng xoay

 

Nụ cười siêu thoát chốn trần gian

Dâu biển bao đời khóc khổ than

Nặng gánh đường trần thôi buông bỏ

Vang cười một tiếng mộng vỡ tan

 

8. San Sẻ Công Việc

 

Người ở cõi Cực lạc, có thể họ không có những công tác như: nấu ăn, rửa chén, quét nhà, nhổ cỏ, lặt rau, hành đường, lau dọn… như chúng ta ở đây. Nhưng có điều chắc chắn là họ phải có sự sinh hoạt tập thể. Như đi hái hoa cúng dường chư Phật, rồi cũng đi kinh hành niệm Phật, nghe kinh, thuyết giảng v.v… Đó là những sinh hoạt thường nhựt của họ. Trong Kinh diễn tả đời sống hằng ngày của họ là như thế. Tuy việc làm có nhẹ nhàng đến đâu, thì mỗi người cũng phải có trách nhiệm. Ai cũng ý thức được bổn phận trách nhiệm của mình.

 

Công việc của đạo tràng chúng ta, tuy có bận rộn hơn ở cõi Cực Lạc, nhưng chúng ta vẫn có tổ chức quy cũ, nề nếp, trật tự, mỗi người đều có phận sự san sẻ công việc chia nhau mà làm. Nếu mỗi người làm trong niềm hoan hỷ an lạc, thì đâu có thua gì ở cõi Cực Lạc! Dĩ nhiên, những bạn sen có nhiệm vụ đã được đạo tràng tin tưởng giao phó công việc, thì có phần chịu thiệt thòi về việc tu học hơn những vị không có trách nhiệm. Vì chúng ta còn ăn, còn mặc, còn có những nhu cầu thiết yếu cho đời sống tu học, nên chúng ta phải có bổn phận chia nhau gánh vác công việc mà làm. Nhưng có điều, khi chúng ta được phục vụ cho đại chúng, thì chắc chắn, chúng ta sẽ có được một niềm vui lớn. Nhờ có mọi người nên ta mới có cơ hội phục vụ đóng góp. Niềm vui đó chính do mọi người đem lại cho ta. Nếu không có mọi người, thì làm gì ta có được niềm vui đó. Như vậy, ta phải mang ơn mọi người đã cho ta niềm vui.

 

Nghĩ thế, thì ta làm trong một tinh thần hỷ xả, thương yêu, vui vẻ. Người ở cõi Cực Lạc không có cơ hội được phục vụ cho mọi người như chúng ta ở đây. Đó là niềm tự hào của chúng ta. Tuy nhiên, khi làm công việc mang tính phục vụ chung cho đại chúng, ta phải ý thức rằng, nói cho mọi người, nhưng thật ra tất cả cũng chỉ vì ta mà thôi. Vì ta muốn có phước nhiều để mai sau ta hưởng. Nếu làm không có phước bù đắp lại, thì chắc chắn chúng ta cũng không thể nào làm. Không ai làm một việc không công bao giờ. Biết thế, thì khi làm ta nên cởi mở, vui vẻ và san sẻ công việc với nhau.

 

Điều quan trọng là khi làm việc giúp cho đại chúng, ta không nên có ý niệm tương tranh và khinh thường người khác. Chính cái ý niệm bất hảo đó, tất sẽ đem lại sự đau khổ cho mình và người. Khi hành sự, ta nên dẹp bỏ lòng tự cao, tự đại. Chính cái bản ngã cống cao ngã mạn hiu hiu tự đắc, coi người dưới mắt, gây ra biết bao khổ lụy cho mình và người. Ai cũng thấy cái bản ngã của mình quan trọng hơn cả. không ai chịu lép vế thua sút nhường nhịn ai, Đâu có ai muốn kẻ khác coi thường mình. Đó là một tâm lý rất thường tình và cũng rất là tai hại.

 

 Một khi thấy mình quan trọng thì ta lại coi thường người khác. Ta coi kẻ khác không có điểm nào hơn ta. Thực tế, ta để cho cái bản ngã làm mờ mắt ta rồi. Ta nên nhớ, đức khiêm cung, lễ độ, nhẫn nhịn, hòa ái, đó là những đức tánh tốt và cao đẹp. Đó là những đức tánh thiện hợp với tính chất đạo đức nhân bản của con người. Ta cần nên duy trì và làm tăng trưởng những đức tánh tốt đó.

 

Tâm niệm rằng, khi làm việc, ta không làm sao tránh khỏi sự đụng chạm với nhau, ít nhiều gì đều có. Khi ta gặp phải những vấn đề khúc mắc rắc rối nan giải, thì ta cần tỏ thái độ bình tĩnh để cùng nhau tìm phương cách giải quyết. Ta không nên nóng nảy la lối om sòm, nói năng thô lỗ lớn tiếng nặng lời, làm mất đi sự hòa khí. Nếu tự mình không thể giải quyết được, thì phải nhờ đến cấp trên. Những người hiện đang lãnh đạo mình và chung cả đạo tràng. Vì đó là những vị đang lãnh trọng trách điều hành công việc chung cho đạo tràng. Vẫn biết, mỗi cá nhân đều có thiện ý tốt, là muốn đóng góp chung giúp cho đạo tràng, làm cho đạo tràng ngày càng phát triển vững mạnh tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chính vì ai cũng muốn đóng góp, ai cũng có cái nhiệt tâm nhiệt thành nóng bỏng, hăng say làm việc, đôi khi cũng tạo ra những ý kiến quan điểm bất đồng. Chính cái chỗ bất đồng đó, nếu không khéo dung hợp hóa giải, giữ niềm hòa ái cảm thông nhau, thì cũng dễ gây ra sự bất hòa và hậu quả là sứt mẻ tình huynh đệ. Từ đó, có thể tạo thành sự tỵ hềm đố kỵ lẫn nhau. Và rồi sẽ đi đến tình trạng kết hợp bè phái, tạo thành phe nhóm chóng đối và triệt hạ uy tín nhau kịch liệt. Điều đó, Thật là tối kỵ cho một đoàn thể tu học. Hơn nữa, cũng trái với tâm địa hướng thượng của người tu. Tất cả chỉ đem lại sự thiệt hại nặng nề cho đạo tràng mà thôi.

 

Khi làm việc ta nên lưu ý

Việc của ai người nấy lo làm

Việc mình nếu thấy không kham

Nhờ người giúp đỡ chớ ham làm nhiều

Vì làm nhiều khổ than thắm mệt

Rồi than dài thở vắn kêu trời

Muốn cho tâm được thảnh thơi

Làm đâu bỏ đó, sáng ngời đạo tâm

Điều tối kỵ ngấm ngầm mưu hại

Dù thấy người việc đó làm sai

Nhưng vì hiểm độc chua cay

Để cho người ấy mang tai khổ nàn

Nếu ta muốn an toàn công việc

Thì phải nên nhẫn nhịn khiêm cung

Thấy ai tâm niệm ác hung

Ta nên tìm cách khuyên cùng với nhau.

Khi làm việc ngọt ngào san sẻ

Đừng nại hà tìm cách chém dè

Tránh điều trên búa dưới đe

Cùng nhau góp sức thấy nghe vui làm.

 

9. Tình Bạn Sen

 

Trong đạo tràng, chúng ta nên xem nhau như con một cha, người một nhà. Chúng ta đang sinh hoạt hát ca trong ngôi nhà Tịnh độ. Chúng ta hãy xem nhau như tình ruột thịt. Mỗi người nên tận tình thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Khi thấy công việc người đó làm không kịp, thì ta nên góp tay phụ lực vào. Ta nên biết, đó là công việc chung cần nhiều ban tay đóng góp. Tuy nhiên, khi làm, thì ta cần chia mỗi người có một nhiệm vụ riêng để lo cho công việc chạy đều. Nếu không, thì dễ rơi vào tình trạng nhiều sãi không ai đóng cửa chùa. Ta nên dẹp lòng ích kỷ nhỏ nhoi để cùng nhau phục vụ đóng góp chung. Có thế, thì mọi việc tương đối mới được hoàn hảo tốt đẹp.

 

Điều quan trọng, khi làm, ta không nên phê bình chỉ trích bất cứ ai, vì đó là tật tánh xấu mà ta cần phải loại bỏ. Nếu vì xây dựng lợi ích chung, thì ta nên bàn thảo góp ý. Nhưng khi bàn thảo, ta nên cố gắng giữ thái độ ôn hòa và nói năng hòa nhã êm dịu. Tránh nói năng lớn tiếng thô lỗ cộc cằn khó nghe. Ta phải nói trong tinh thần xây dựng lễ độ hòa nhã yêu thương. Ta không nên có thái độ tỏ ra mình là người hiểu biết tài giỏi hơn người. Dù mình có thực sự tài giỏi hơn người đi nữa, thì mình cũng nên tỏ ra khiêm nhường. Vì thái độ cao ngạo đó là con đẻ của bản ngã tự tôn, chắc chắn là không một ai ưa thích thái độ cao ngạo đó của mình. Thái độ đó chỉ làm cho người ta oán ghét và xa lánh mình thêm mà thôi. Ta nên tôn trọng chớ khinh thường người khác, dù người đó dưới quyền sai sử của ta. Có thế, thì ta mới được nhiều người thương mến và cảm phục. Từ đó, ta sẽ dễ dàng chung sức hòa mình cộng sự với mọi người. Và chắc chắn là họ sẽ tin tưởng cảm tình hợp tác với ta nhiều hơn.

 

Nếu gì một lý do nào đó, mà gây ra có sự hiểu lầm với nhau, thì ta nên tìm cách thiết lập truyền thông để thật lòng giải bày cho nhau. Giải bày trong tinh thần cởi mở hỷ xả bao dung. Tuyệt đối, ta không nên ôm ấp chất chứa những thứ phiền muộn trong lòng, vì đó là thứ « nội kết » độc hại. Chính thứ nội kết nầy nó sẽ tàn phá thân tâm ta. Nó làm cho lòng ta luôn luôn xáo trộn bất an. Ta nên ý thức sâu sắc điều đó. Càng ôm ấp oán thù nhiều chừng nào thì đời ta chỉ càng chuốc thêm khổ lụy nhiều chừng nấy. Đồng thời, ta cũng không nên nuôi dưỡng những thành kiến ác ý với ai. Vì thái độ đó không phải là thái độ của người tu. Càng chấp chặt ta càng bị đau khổ vày vò. Đó là điều chỉ gây thêm thiệt hại cho sự tu hành của ta, chớ không có ích lợi gì ! Tốt hơn hết là ta nên buông bỏ tất cả, để cõi lòng của ta được trong sáng tươi mát an thoát nhẹ nhàng. Xin nhắc lại một lần nũa, nếu xét thấy có những điều gì nan giải mà chính mình không thể tự giải quyết được, thì ta nên trình bày lên cấp trên để nhờ những vị đó giải quyết giùm cho ta.

 

Ta nên nhớ, bất cứ đoàn thể nào khi sinh hoạt làm việc chung đụng với nhau, tất nhiên, không sao tránh khỏi những va chạm bất đồng không vui. Do bất đồng ý kiến cũng có thể gây ra sự tranh chấp làm mích lòng cho nhau. Vì ai cũng thấy ý kiến của mình quan trọng hơn cả. Vì thấy như thế, nên mình cố bảo thủ ý kiến của mình cho tới kỳ cùng. Và bắt buộc kẻ khác phải nghe theo mình. Đây là lối chấp định kiến bảo thủ. Ta không nên chấp thủ định kiến của ta như thế. Vì ý kiến của mình chẳng qua cũng chỉ là do nhận xét theo lăng kính chủ quan của mình mà thôi. Khi bàn thảo, ta cũng phải tôn trọng ý kiến của người khác, dĩ nhiên, ý kiến đó phải được mọi người đồng thuận, vì nó sẽ đem lại lợi ích chung cho đoàn thể.

 

Sự va chạm khi hành sự chung đụng với nhau, dù ta có cố gắng cẩn thận gìn giữ đến đâu, cũng không sao tránh khỏi. Tuy nhiên, điều đó còn tùy thuộc vào thái độ và cách hành xử khôn khéo tế nhị của mỗi người. Tùy cường độ của sự kiện xảy ra nặng, nhẹ có khác nhau. Chúng ta nên ý thức và tự hỏi : Làm sao mọi người có thể theo ý muốn của mình hết được ? Nếu cái gì người ta cũng chiều theo ý muốn của mình hết, thì hóa ra mình là kẻ quá độc đoán độc tài. Nếu ai thuận theo ý mình thì mình cho người đó là tốt, là dễ sai khiến và dễ được cảm tình. Bằng ngược lại, thì mình cho kẻ đó là bất hảo không thể dùng được. Thế là người đó không đáng cho ta hành sự giao tiếp. Thái độ đó sẽ làm cho ta lần lần mất hết người cộng sự. Đó không phải là thái độ của người tu trong việc đồng sự nhiếp. Nhất là đối với tình bạn sen của chúng ta. Vì chúng ta cùng tu, cùng học và cùng sinh hoạt với nhau chung một môi trường. Ta nên khéo giữ gìn và tôn trọng điều đó, đừng bao giờ để cho chuyện xích mích đáng tiếc không tốt đó xảy ra.

Bạn sen Tịnh độ một nhà

Tôn thờ giáo chủ Di Đà Tây Phương

Ta nên tôn trọng kính nhường

Kẻ trên người dưới một đường tiến tu.

Việc đời rối rắm lu bu

Về chùa sinh hoạt cùng tu học hành

Ăn cơm thì phải có canh

Tu hành có bạn đồng hành với nhau

Bạn sen kẻ trước người sau

Một lòng niệm Phật nêu cao duyên lành

Nổi trôi nhiều kiếp tử sanh

Luân hồi lục đạo lợi danh tham cầu

Hành thâm, nguyện thiết, tin sâu

Di Đà sáu chữ bền lâu chuyên cần

Gieo trồng hạt giống Tịnh nhân

Một lòng niệm Phật tham sân xin chừa

Thanh nhàn đạm bạc tương dưa

Sớm chiều kinh kệ chẳng lừa dối nhau

Gắng công tu học bền lâu

Nguyện về Cực Lạc đạo mầu viên dung.

 

IV. Những Nét Sinh Hoạt Thể Hiện Trong Thâm Tình Bạn Sen.

 

1 Thăm Viếng

 

Ngoài những khi làm việc ra, ta còn phải thương yêu nhau và chia sẻ cho nhau những lúc bạn sen ta gặp những việc khó khăn ngoài ý muốn. Như những trường hợp không may xảy ra tai nạn bất ngờ, hay vì hoàn cảnh khó khăn nào đó ở trong gia đình, hoặc vì đau yếu bệnh hoạn trầm trọng v.v… Do đó, nên họ không đến đạo tràng để sinh hoạt được. Ta cần tìm hiểu để chia sẻ và cảm thông. Đồng thời, ta cũng nên biểu lộ tấm lòng tương kính trong thâm tình bạn sen với nhau là ta nên ân cần hỏi han thăm viếng. Điều nầy, đạo tràng của chúng ta trong quá khứ cũng như hiện tại đã và đang thực hiện.

 

 Theo quy định chung của đạo tràng, một năm có hai kỳ thăm viếng. Một kỳ vào dịp đầu năm Tết Nguyên Đán và một kỳ sau đại lễ Vu Lan, Ban lãnh chúng thay mặt đạo tràng đi thăm các bạn sen bị đau bệnh nằm điều trị ở bệnh viện hoặc dưỡng bệnh ở tại nhà. Hơn nữa, các vị chúng trưởng cũng thường điện thoại thăm hỏi những vị đang bị bệnh ở trong chúng của mình. Đó là chúng ta thiết lập mối dây liên hệ thắt chặt trong tình cảm tương thân, tương ái với nhau. Không gì hạnh phúc vui sướng cho bằng, khi ta bị đau yếu, hay gặp chuyện khó khăn không may, mà có người quan tâm chiếu cố thăm lom an ủi và chia sẻ những nỗi đau buồn của ta. Đó cũng còn là một niềm an ủi lớn lao cho nhau. Với tinh thần : « Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, hay một nhà có việc thì trăm nhà đều quan tâm lo lắng » (nhứt gia hữu sự bá gia ưu) của người xưa đã từng khuyến nhắc chúng ta.

 

Bạn sen thăm viếng với nhau

Những khi hoạn nạn bệnh đau buồn lòng

Nghiệp trần quyết trả cho xong

Luật vay, vay trả, khó hòng thoát ra

Đã sanh trong cõi Ta bà

Muốn cho khỏi khổ thật là khó mong

Bạn sen chung quyết một lòng

Cùng nhau chia sẻ tâm đồng buồn vui

Bao nhiêu cay đắng ngọt bùi

Khổ vui, vui khổ, cái « Tôi » tạo thành

Nguyện cầu nghiệp chướng tiêu nhanh

Gắng công niệm Phật sẵn dành đài sen

Thị phi bao tiếng chê khen

Ngoài tai phủi sạch chẳng xen chuyện người

Thương nhau vui vẻ tươi cười

Một lòng tu học vẹn mười thủy chung.

 

2. Hướng Dẫn Các Bạn Sen Mới

Trong tinh thần thương yêu tương trợ đó, những bạn sen cũ nên quan tâm hết lòng hướng dẫn chỉ bảo những bạn sen mới. Hướng dẫn tất cả mọi việc. Bởi khi mới gia nhập, mọi sinh hoạt trong đạo tràng đối với các bạn sen mới, tất nhiên, là có nhiều điều mới lạ và bỡ ngỡ, mà họ chưa quen và rất ngại ngùng. Hiểu thế, ta nên hướng dẫn các bạn sen ta qua mọi sinh hoạt về những cách thức lễ nghi hành trì trong đạo tràng. Từ những việc đơn giản dễ làm, cho đến những việc tương đối khó khăn hơn. Ta phải hướng dẫn cách ăn, cách mặc và cách hành lễ. Nghĩa là từ việc mặc đồng phục cho đến những nghi thức khác như : Nghi thức cúng quá đường, cách bắt ấn, hai tay bưng bát, rồi đến những nghi thức tụng kinh, lễ bái, kinh hành, tịnh tọa, thiền hành, thắp nến, hoa đăng, sử dụng chuông mõ, bưng khai lễ, tác bạch thỉnh sư v.v… Nói chung, là tất cả những nghi thức thông dụng trong đạo tràng, cũng như các hạnh kiểm oai nghi, ta đều phải hết lòng hướng dẫn chỉ bảo cặn kẽ tường tận cho họ.

 

Điều nầy, trong thời gian qua cũng như hiện nay, các bạn sen cũ đã được huấn luyện học hỏi nhuần nhuyễn, và họ đã tận tâm giúp cho các bạn sen mới. Ngược lại, đối với các bạn sen mới, ta không nên ngại ngùng, rụt rè, e sợ, điều gì chưa hiểu rõ, thì chúng ta cũng nên hỏi những bạn sen cũ, nhất là đối với những vị trong Ban Nghi Lễ có trách nhiệm hướng dẫn. Vì những vị nầy, đã được đạo tràng công cử và giao phó trách nhiệm đó cho họ. Nếu cả hai đều hợp tác thông cảm với nhau trong tinh thần trao đổi tìm hiểu học hỏi, thì thật là tốt đẹp biết bao ! Việc nầy từ trước tới nay chúng ta cũng đã từng làm như thế. Chúng ta cần nên tích cực hỗ trợ cho nhau. Thật đó là điều đáng vui mừng và đáng tán dương khích lệ công đức. Mong sao mọi người nên cố gắng lưu tâm nhiều hơn về vấn đề nầy.

 

Thương nhau chỉ dẫn cho nhau

Những gì chưa hiểu đổi trao an hòa

Bạn sen mới cũ một nhà

Một lòng trợ giúp ruột rà yêu thương

Đạo tràng chỉ có một đường

Hướng tâm tu học am tường lễ nghi

Dẹp ngoài những tiếng thị phi

Gắng công học hỏi những gì chưa thông

Tụng kinh niệm Phật bền lòng

Oai nghi hạnh kiểm suốt thông giữ gìn

Nhớ lời Phật dạy đinh ninh

Di Đà chuyên niệm vãng sinh tức thì

Pháp môn tu học chẳng nghi

Cố công bền chí việc gì chẳng xong

Trẻ già trên dưới một lòng

Cùng nhau xây dựng tâm đồng an vui.

 

3. Sinh Nhật

 

Những kỳ sinh nhật, ta thấy rõ nét là các bạn sen ta đã thể hiện được ít nhiều tấm lòng thương yêu quý kính tương trợ lẫn nhau. Từ những cái thiệp chúc mừng sinh nhật duyên dáng thật đơn giản, những cái bánh sinh nhật xinh lịch tự tay các bạn sen làm ra, đến thiết trí bàn ghế và chưng hoa quả trang nghiêm trên bàn thờ Phật, rồi đến những bản nhạc hát ca chúc mừng qua 4 câu vọng cổ và bản nhạc Mừng Sinh Nhật. Ngần ấy công việc, như đã biểu lộ hết cả tấm lòng thương yêu trìu mến. Tất cả đều gói trọn chia sẻ niềm vui trong ngày mừng sinh nhật nầy.

 

Ngày sanh của các bạn sen tuy có khác nhau, nhưng tất cả đều có cùng chung trong một tháng. Mỗi tháng, tùy theo số bạn sen sanh trong tháng đó nhiều ít, mà số người tham dự chúc mừng khác nhau. Mỗi tháng đạo tràng chúng ta đều có tổ chức một kỳ. Thời gian không cố định, tùy theo hoàn cảnh mà tùy nghi linh động thay đổi cho thích hợp. Nhưng hiện nay, mỗi kỳ sinh nhật được tổ chức thực hiện trước giờ thọ trai ở trai đường.

 

Sở dĩ đạo tràng tổ chức sinh nhật, nói đúng hơn là ngày tiếp nối, với thâm ý là nhằm mục đích thức nhắc mọi người nên ý thức đến lý vô thường sinh diệt Phật dạy, mà mỗi người cần khắc ghi sâu đậm để lo thức tỉnh tu hành. Vì thời gian trôi qua rất nhanh chóng, không chờ đợi một ai. Mới ngày nào tóc xanh mơn mởn óng ả đen huyền mà nay đã đổi sang màu trắng toát. Đời người sống chết như trở bàn tay. Sáng thấy còn, chiều lại mất, khác nào như những con phù du sớm sanh chiều chết, hay nhanh hơn giống như những hạt sương mai đóng trên đầu ngọn cỏ, chợt có liền không. Nó tan biến vô thường nhanh chóng như làn chớp, như bọt nước, như đám mây tan hợp… Thật không có gì bền chắc tồn tại lâu dài.

Cứ mỗi kỳ sinh nhật, quý bạn sen luôn được thức nhắc như thế. Nhờ đó, mà mỗi người tự thức tỉnh chóng lo niệm Phật tu hành. Việc tổ chức sinh nhật của đạo tràng chúng ta, tất nhiên, khác hơn những buổi lễ sinh nhật ở ngoài đời. Vì chúng ta khéo biết lợi dụng pháp thế gian để chuyển thành Phật pháp. Nói cụ thể hơn, các pháp thế gian không gì ngoài Phật pháp cả. Bởi vậy trong kinh nói, Phật ngộ là ngộ chỗ chúng sanh mê lầm chớ Phật không có chứng ngộ ở đâu khác. Chúng sanh và Phật đồng một thể tánh thanh tịnh sáng suốt như nhau, nhưng chúng sanh vì bị các thứ phiền não che mờ, nên tánh giác không hiển lộ. Do đó, nên chúng sanh theo dòng vô minh tạo nghiệp thọ khổ, mãi trầm luân trong biển sanh tử luân hồi. Ngược lại, Phật đã sạch hết vô minh phiền não, nên gọi Ngài là đấng toàn giác hay Chánh Biến Tri. Nghĩa là, một đàng Như Lai còn tại triền (Phật tánh bị phiền não ràng buộc) và một đàng Như Lai đã xuất triền (Phật tánh ra khỏi phiền não ràng buộc).

Hòa nhịp trong niềm vui chung đó, nên mỗi lần sinh nhật, thì các bạn sen trong Ban Văn Nghệ đã không ngần ngại gởi đến chúc mừng cho những vị được sinh nhật, bằng những tiếng hát lời ca thật chứa chan tình nghĩa đậm đà thương yêu. Trong bài hát Mừng Sinh Nhật, có những điệp khúc được lặp đi lặp lại :

 

Tình bạn sen, tình rạt rào

Tình bạn sen, luôn bên nhau

Tình bạn sen, vui đón chào

Tình bạn sen, luôn ngọt ngào.

 

Đó là điệp khúc nhằm nói lên tất cả mối thâm tình hoài vọng trong khung trời yêu thương hòa kính dịu ngọt. Nội dung bài hát như đã trút cạn nỗi lòng hoài vọng trong sự gắn bó đoàn kết yêu thương. Có lẽ nhờ đó, mà tình bạn sen ngày càng thắt chặt yêu thương đậm đà gần gủi nhau hơn. Điều nầy, các bạn sen đã thể hiện tình thương rõ nét cụ thể qua các lãnh vực sinh hoạt lễ nghi khác.

 

Cánh thiệp mừng vui tặng chúc nhau

Chúc cho thăng tiến thọ bền lâu

Mỗi người chung tháng ngày sanh khác

Thức tỉnh vô thường nhớ thật sâu.

 

Mới đó xuân xanh đã bạc đầu

Tuổi đời chồng chất có vui đâu

Cận kề cái chết nào ai biết

Chỉ biết tu hành niệm Phật lâu.

 

Mừng ngày sinh nhật hát đôi câu

Theo dòng Tục đế cũng chúc nhau

Chúc cho mạnh khỏe không đau ốm

Sớm kệ chiều kinh dứt khổ đau.

 

Thâm tình liên hữu mến thương nhau

Cắt bánh mừng vui rất ngọt ngào

Chia sẻ an hòa khi thọ dụng

Chúc mừng liên hữu mãi bên nhau.

 

4. Chúc Thọ

 

Ngoài những kỳ lễ sinh nhật ra, đạo tràng còn có tổ chức những buổi lễ chúc thọ mỗi năm một kỳ cho các liên hữu cao thọ có số tuổi từ 80 trở lên. Người được chúc thọ ngoài số tuổi đã định, họ còn phải có một quá trình sinh hoạt tu học liên tục gắn bó sát cánh với đạo tràng, thời gian tối thiểu là 5 năm. Đó là quy định chung của đạo tràng.

Một buổi lễ chúc thọ thường được tổ chức tùy theo thời gian thuận tiện thích hợp. Sở dĩ có lễ nầy, là vì đạo tràng muốn cho các bạn sen cao tuổi, được có chút niềm vui nho nhỏ, qua quá trình sinh hoạt tu học lâu dài của họ với đạo tràng. Một quá trình mang lại cho họ nhiều lợi lạc trong việc tu học, nhất là việc hành trì niệm Phật công cứ. Đó cũng là phần thưởng khích lệ đáng tán dương trong tinh thần cầu tiến tu học. Đồng thời cũng là nhịp cầu nối kết giữa các con cháu của họ với đạo tràng. Vì ngày đó, các con cháu, thân nhân hoặc bạn bè của họ đều cùng nhau câu hội về đạo tràng để dự lễ chúc mừng chung vui.

 

Các con cháu trong mỗi gia đình của những vị đã được chúc thọ, họ thành kính dâng lên cho ông bà cha mẹ của họ bằng những đóa hoa xinh tươi, hoặc những món quà quý giá để biểu lộ tấm lòng yêu thương quý kính đối với các đấng sanh thành. Đó còn là cơ hội tốt để họ cùng nhau hợp lực quay quần chung vui cùng với đạo tràng. Nhờ đó, mà sự gắn bó giữa họ và đạo tràng càng gần gủi thiết thân nhau hơn. Đồng thời, cũng để cho các con cháu của họ biết qua phần nào về những sinh hoạt tu học của đạo tràng, mà từ trước tới nay, họ chưa có dịp biết đến. Đó là chủ đích nhắm tới của đạo tràng.

Ngoài ra, còn thể hiện những vấn đề an ủi khác. Như chúng ta đều biết, tâm lý của người già bao giờ họ cũng thích sống ôn lại quá khứ. Không có người già nào thích sống hướng về tương lai. Vì tương lai đối với họ thật quá ngắn ngủi. Họ không bao giờ dám nghĩ tới, vì khi nghĩ tới thì họ thấy cái chết quá cận kề. Người già ở xứ nầy, thường cảm thấy trống vắng cô đơn và buồn tủi. Vì buồn tủi nên người già lại càng mau già hơn. Để trốn chạy sự buồn tủi nầy, mỗi người đi tìm cho mình mỗi cách tiêu khiển giải trí khác nhau, tùy theo biệt nghiệp sở tập thói quen riêng biệt của mỗi người.

 

 Người có thói quen đi chùa hay thích niệm Phật tu hành, thì họ thường tìm đến chùa để tu học. Vì nơi đây là môi trường thích hợp với họ. Đó phải là người có đầy đủ căn lành với Phật pháp lắm mới được. Buồn lo là tâm trạng chung không riêng gì người già. Tuy nhiên, đối với người già sống nơi xứ lạ quê người thì có lẽ họ buồn tủi nhiều hơn. Thế nên, họ rất cần có nơi để sinh hoạt tu học được gần gủi các bạn đồng tu. Đó là cách tốt nhứt có lợi cho đời sống tâm linh của họ trong hiện tại và mai sau.

 

Chúc thọ hay khao thọ là một tập tục lâu đời của người Việt Nam. Ngày xưa, các gia đình giàu có khá giả, họ thường tổ chức ăn mừng khao thọ cho cha mẹ ông bà của họ rất thịnh soạn linh đình. Có khi kéo dài thời gian đến đôi ba ngày mới chấm dứt. Bạn bè thân hữu đến chúc mừng chia vui bằng những món quà hoặc những câu đối chúc tụng, nếu là người có trình độ văn học và hay chữ. Đó là nói những gia đình khá giả. Còn những gia đình không mấy khá giả thì họ chỉ tổ chức đơn sơ cho các cụ vui thôi.

 

Đặc biệt lễ chúc thọ do đạo tràng đứng ra tổ chức, dĩ nhiên, nó mang màu sắc khác hơn người đời. Từ những lời chúc tụng cho đến những việc lễ lộc khác, đa phần đều làm theo nghi thức Phật giáo. Không có điểm nào giống như ngoài đời. Ngoại trừ phần quà cáp do các con cháu trong các gia đình biếu tặng.

 

Chương trình của một buổi lễ chúc thọ thật là phong phú đa dạng, phần lớn là do các bạn sen trong đạo tràng hội ý thực hiện đóng góp vào. Những lời ca tiếng hát, những vở kịch vui, những câu hò dí dỏm v.v… tất cả đều quyện vào với nhau tạo thành một khúc nhạc vang lên trong lòng mọi người, như để hướng lòng về các bạn sen cao tuổi để thành tâm chúc mừng cho họ được vui khỏe an lành trong nếp sống, và luôn tinh tấn tu học thường xuyên gắn bó sinh hoạt với đạo tràng.

Những lễ nghi trong buổi lễ chúc thọ đại khái gồm có những điều thiết yếu sau đây :

- Thiết trí một cái bàn để bánh sinh nhật (3 từng) và hoa quả (các quả đào tiên giả) cũng như sắp hàng ghế cho các vị được chúc thọ ngồi.

- Những vị được chúc thọ phải trang điểm và phục sức theo truyền thống trang phục của người Việt Nam.

- Người xướng ngôn (nam, nữ bạn sen trong đạo tràng) phải mặc áo dài khăn đống.

- Các tấm thiệp chúc mừng tuổi thọ.

- Những tràng hoa choàng cổ (với mục đích là nhằm tán dương khích lệ tinh thần tu học, nhất là phần niệm Phật công cứ).

- Tóm tắt vài nét tiểu sử của những vị được chúc thọ.

- Những bài hát chúc mừng tuổi thọ.

- Lời khai mạc của Trưởng Ban tổ chức.

- Lời phát biểu mừng thọ đại diện của các ban trong đạo tràng.

- Đạo từ của vị Thầy chứng minh.

- Cắt bánh mừng tuổi thọ.

- Tặng quà lưu niệm v.v…

- Văn nghệ.

Đại khái, trên đây là những điều chính yếu cần có, ngoài ra còn có chương trình chúc thọ gồm những tiết mục linh tinh khác nữa.

 

Do biểu lộ bằng tất cả tấm lòng ưu ái đó, nên những vị được chúc thọ rất vui mừng cảm động, có người không cầm được nước mắt, bật khóc trong sự ngẹn ngào rơi lệ nói không ra lời. Thật là cảm động! Thường buổi lễ chấm dứt trong niềm vui chung của mọi người. Các con cháu của họ cũng dâng lên tràn ngập niềm vui để chúc mừng cho ông bà cha mẹ của mình luôn được an vui, khỏe mạnh và sống lâu với con cháu. Đó cũng còn là một niềm vui chung thật ấm cúng thân thương của đạo tràng.

 

Tuổi thọ trên đời được tám mươi

Thật là hy hữu lắm ai ơi!

Biết bao yểu mạng khi còn trẻ

Nghiệp báo mỗi người phải chịu thôi!

 

Đời trước có tu mới sống dai

Giữ giới tu hành lại ăn chay

Sát sanh hại vật không gây tạo

Bố thí phóng sanh thọ lâu dài.

 

Chúc cho các cụ tuổi tám mươi

Cái tuổi ít ai được trên đời

Bởi do niệm Phật luôn tươi trẻ

Chẳng giận, buồn lo được thảnh thơi.

 

Tuổi đời các cụ tuy có cao

Nhưng nhờ niệm Phật ít bệnh đau

Răng long tóc bạc thân cằn cổi

Tâm trí thần minh sáng trăng sao.

 

 

5. Hộ Niệm

 

Hộ niệm là nhằm trợ giúp cho những bạn sen đang trong tình trạng hấp hối, để cho họ nhớ lại những việc lành mà họ đã làm. Nhất là nhắc lại cho họ nhớ đến câu niệm Phật để họ tập trung tâm ý gìn giữ chánh niệm. Suốt thời gian dài qua, các bạn sen đã từng hộ niệm cho những bạn sen khác, trong lúc họ hấp hối ở trong bệnh viện hoặc tại tư gia. Việc làm nầy đã đem lại một sự lợi ích rất lớn. Có nhiều bạn sen nhờ sự trợ niệm nầy mà ra đi một cách rất thanh thản bình an nhẹ nhàng. Có vị còn lưu lại một vài thụy ứng vãng sanh. Đó là một niềm vui chung thật lớn lao cho đạo tràng.

 

Điều đáng nói, là có những bạn sen dù không phải trong Ban hộ niệm, nhưng khi hay tin có một bạn sen nào đó lâm trọng bệnh hấp hối chờ chết, thì họ liền gọi điện thoại liên lạc với nhau và rồi cùng nhau đến bệnh viện hoặc tại tư gia để cùng luân phiên thay nhau hết lòng niệm Phật. Họ túc trực bên cạnh bệnh nhân niệm Phật liên tục cho đến khi bệnh nhân tắt thở sau 8 tiếng đồng hồ mới thôi. Có chứng kiến tận mắt, chúng ta mới thấy được mối thâm tình sâu đậm mà họ đã sẵn dành cho nhau. Quả thật, đây là một nghĩa cử vô cùng cao đẹp và rất hiếm thấy trong thể cách hành xử đầy tình người và tình đạo của họ. Đó là họ đã biểu lộ một tinh thần tương trợ rất quý giá. Họ đã thành tâm niệm Phật để hỗ trợ tận lực giúp cho người bạn sen của họ chóng được siêu sanh thoát hóa.

 

Ngoài ra, họ còn chí thành tụng kinh cầu nguyện, cúng vong cho các bạn sen ở nhà quàn hoặc quàng tại nhà. Tùy theo thời gian quàng thi thể lâu mau, mà họ cùng nhau hết lòng luân phiên tụng niệm. Ngoài việc tụng niệm cầu siêu ra, đạo tràng còn thực hiện những thủ tục lễ nghi khác như : biểu lộ bày tỏ phân ưu cùng tang quyến và sắp xếp lo hết mọi việc tang lễ. Ngoài ra, còn thực hiện các nghi thức khác :

- Lễ phúng điếu.

- Đồng hát bài Mở Cửa Tây Phương.

- Tóm tắt vài nét về tiểu sử của người mất.

- Chúng trưởng bày tỏ cảm tưởng.

- Tiễn đưa linh cửu đến lò thiêu hoặc ở nơi nghĩa trang

 

Điều cảm động nhứt, có hôm đang tiển đưa lại gặp thời tiết nóng cháy da, hoặc lạnh buốt đến tận xương tủy, nhưng mọi người vẫn bất chấp nóng, lạnh, gian lao mệt nhọc. Họ vẫn quyết tâm niệm Phật để tiển đưa người bạn sen của mình lần chót. Họ cầu cho hương linh của người mất chóng được cao đăng thượng phẩm. Sự biểu lộ đầy đạo tình nầy thật khó tìm thấy ở cái xứ sở đặt nặng phần vật chất mà coi thường xem nhẹ phần tâm linh. Điều nầy, thử hỏi những ai có tiền kho bạc đụng giàu có nhứt trên đời, hẳn cũng chưa chắc có được mối thiện cảm chứa chan tràn đầy thâm tình đạo vị mà họ đã sẵn dành như thế.

 

Hộ niệm bạn sen lúc lâm chung

Tâm trí hôn mê tối mịt mùng

Nhắc nhở cho người mau nhớ lại

Hạnh lành nhớ Phật chẳng mông lung

 

Quyết lòng niệm Phật cho người đi

Thanh thoát nhẹ nhàng lúc biệt ly

Cuối nẻo đường trần chia đôi ngã

Một lòng niệm Phật dứt mê si

 

Thượng phẩm cầu sanh chốn Lạc bang

Chẳng còn lưu luyến cõi trần gian

Ham chi trần thế như cơn mộng

Sao bằng niệm Phật vãng Tây phang

 

Thôi chúc người đi được bình an

Cõi đời từ giả hết lo toan

Nương theo ánh sáng hào quang Phật

Chớp mắt ngồi trên báu sen vàng.

 

6. Các Khóa Tu Kết Kỳ Niệm Phật

 

Có thể nói trong tất cả các sinh hoạt trong đạo tràng, tổ chức các khóa tu học là đóng vai trò chính yếu. Mỗi năm đạo tràng có tổ chức 3 khóa tu Kết Kỳ Niệm Phật. Thời gian ấn định cho mỗi khóa tu là 7 ngày. Đây là noi theo trong Kinh tiểu bổn Di Đà mà thực hiện. Trong Kinh Di Đà Phật dạy, hành giả nào phát nguyện hết lòng niệm Phật từ một ngày cho đến bảy ngày, nếu được nhứt tâm bất loạn, thì khi lâm chung sẽ được đức từ phụ A Di Đà và chư thánh chúng phóng quang tiếp dẫn người đó về Cực Lac. Nghĩa là người đó sẽ được cao đăng thượng phẩm. Nói cách khác là sẽ được thượng phẩm thượng sanh. Vì noi theo đó, nên mỗi khóa tu đều có tổ chức 7 ngày. Tính từ khóa đầu cho đến khóa nầy (29/7/11) tất cả là 21 khóa. Ngoài ra, còn có các khóa tu khác tổ chức vào những dịp lễ vía đức Bồ tát Quán Thế Âm. Thường các khóa tu nầy chỉ tổ chức có 3 ngày.

 

Với tinh thần ham tu hiếu học, khóa tu nào mở ra, cũng có đông đảo các bạn sen về đạo tràng tham dự. Họ nghĩ rằng, chính những khóa tu nầy giúp cho họ thăng tiến rất nhiều trong sự tu học và nhất là chuyên cần niệm Phật cầu vãng sanh. Có chứng kiến tận mắt, chúng ta mới thấy được nỗi lòng thương yêu trìu mến nhau của họ. Sáng sớm tinh sương là họ đã có mặt tại đạo tràng. Tuy mỗi kỳ thọ bát, họ cũng thường gặp nhau, nhưng khi họ gặp lại nhau trong khung cảnh của ngày đầu khai giảng khóa tu, thì lòng họ lại vui mừng rộn lên như ngày mở hội. Họ chào hỏi nhau trong niềm vui mừng phấn khởi thật đậm đà trong tình nghĩa bạn sen. Nỗi vui mừng nầy đều hiện rõ trên gương mặt của mỗi người.

 

Thời gian chùa đang xây cất, họ phải nằm chen chúc với nhau bằng những tấm nệm trải ken sát với nhau trên sàn nhà. Chỗ ngủ nghỉ của họ thật vất vả không đủ tiện nghi. Nhất là những khóa tu lại rơi vào mùa đông thì rất là lạnh lẻo. Thế nhưng, họ chưa bao giờ than van một tiếng. Họ bất chấp và kiên quyết vượt qua sự lạnh lẻo đó. Có những bạn sen cao thọ, có người gần 90 tuổi, nhưng họ cũng vẫn nằm ngủ chung với những bạn sen trẻ tuổi khác. Trong đạo tràng, phải nói người trọng tuổi chiếm đa số.

 

Điều cảm động hơn nữa, trong thời gian dự tu, có những vị ngã bệnh, thì Ban Tri Bệnh đã tận tình giúp cạo gió và chăm sóc cháo lao cho họ. Có những vị tuy trong người không mấy khỏe, nhưng họ quyết không bỏ sót một thời khóa lễ tụng niệm nào. Nhất là thời công phu khuya, họ tinh tấn lên chánh điện để tịnh tọa nghe chuông niệm Phật. Có những vị khác vì không tiện ngủ lại ở đạo tràng, tuy họ xin phép về nhà ngủ nghỉ, nhưng những buổi khuya họ đều về đạo tràng rất sớm để kịp giờ công phu. Những vị cao tuổi, đi đứng hơi khó khăn, thì họ được các bạn sen trẻ dìu dắt họ.

 

Nói thế, để thấy rằng, tinh thần tu học của họ rất cao độ. Họ quyết tâm tu học theo đúng nội quy của khóa tu. Họ bất chấp mọi khó khăn, kiên quyết vượt qua để hoàn thành tâm nguyện niệm Phật cầu vãng sanh của họ. Đồng thời, họ đã thể hiện tinh thần tận tâm giúp đỡ tương kính lẫn nhau trong thâm tình bạn sen sống trong môi trường thực tu thực học.

 

Điều quan yếu hơn nữa, sau thời công phu khuya ngày cuối của mỗi khóa tu, đều có lễ lạy thù ân. Vì suốt khóa tu, mọi người được sự thầm gia hộ của Tam bảo, cũng như của các vị Tổ sư, chư long thần hộ pháp, hộ giới Già lam, nên tất cả đều được an vui khỏe mạnh tu tập. Đồng thời cũng để tri ân cửu huyền thất tổ, nội ngoại tông thân, ông bà cha mẹ quá khứ, hiện tại, Đàn na thí chủ, quốc vương thủy thổ, hồn thiêng sông núi, nói chung là tứ trọng ân. Trong không khí trang nghiêm thanh tịnh thật yên tĩnh trầm lắng của buổi sáng tinh sương, mọi người thành kính đảnh lễ dâng lên bằng tất cả tấm lòng hoài niệm thâm ân.

 

Hôm nay ta tụ về đây

Đồng tu đồng học bảy ngày an vui

Tấn tu Tịnh nghiệp không lùi

Giữ câu niệm Phật bền lâu khộng rời

Tu hành bền chí ai ơi !

Kết kỳ niệm Phật ta thời về tu

Duyên đời rối rắm lu bu

Bảy ngày tu học chẳng ưu phiền hà

Một lòng niệm Phật thiết tha

Việc đời buông bỏ đường tà chớ theo

Hồ tâm nước tịnh trong veo

Tới lui chánh niệm dây neo vững bền

Cùng nhau tu học tiến lên

Thân an niệm chánh dựng nên đạo tràng.

 

7. Những Khóa Lễ Đặc Biệt

 

Chương trình của mỗi khóa tu, đại khái đều giống nhau. Pháp lễ bái trì danh kinh hành niệm Phật là thời khóa chính yếu của mỗi khóa tu. Những bạn sen mới, tuy họ được sự hướng dẫn của quý vị trong Ban Nghi Lễ và của vị thầy hướng dẫn chỉ dạy, nhưng đôi khi họ cũng vẫn thật hành sai. Sai thì được điều chỉnh sửa lại. Không phải chỉ có người mới hành sai, mà thỉnh thoảng người cũ cũng quên, thật hành không đúng. Điều đáng nói, các vị nầy lúc nào cũng cố gắng chú tâm vào việc thật hành. Khi họ được những vị có trách nhiệm hướng dẫn chỉ bảo, thì họ quyết tâm sửa lại. Họ rất vui vẻ khi được các vị đó thức nhắc. Vì họ thừa biết, những vị nầy là thừa hành nhiệm vụ do vị thầy giáo thọ hướng dẫn dạy bảo. Họ dẹp bỏ hết mọi tỵ hềm hay tự ái trong khi người khác chỉ bảo. Đó là điều đáng khen trong tinh thần tu học cầu tiến của họ.

 

Ngoài thời khóa lễ bái trì danh kinh hành niệm Phật ra, còn có các thời khóa khác như : Thắp nến niệm Phật, lễ hoa đăng hay Ngũ hội niệm Phật v.v… Các thời khóa lễ nầy, như trong quyển « Cẩm Nang Tu Tập » đặc biệt dành cho khóa tu có nói rõ. Ở đây, chúng tôi xin miễn đề cập đến. Chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh điểm đặc biệt trong các khóa lễ nầy, là các bạn sen mỗi người như tự ý thức trách nhiệm và bổn phận của mình, mà cùng nhau nỗ lực hợp tác để dồn hết tâm lực vào sự tu cũng như sắp đặt điều hành cho các buổi lễ thật trang trọng. Cứ mỗi buổi lễ diễn ra trong khóa tu, kết quả rất thành công mỹ mãn tốt đẹp. Được thế, cũng nhờ sự tích cực tham gia đóng góp chung của mọi người. Họ chuẩn bị sắp xếp mọi thứ. Từ các cây đèn cầy, đài sen, sắp bồ đoàn, xướng ngôn v.v….Nhất là quý vị trong Ban nghi lễ đã tận tâm làm việc phục vụ hết mình.

 

Cùng nhau lễ bái trì danh

Kinh hành niệm Phật lợi danh chẳng màn

Thân tâm đều ở đạo tràng

Cửa thiền rộng mở an nhàn tịnh tu

Sớm chiều gắng chí công phu

Bền tâm niệm Phật oán thù tiêu tan

Oai nghi đi đứng nghiêm trang

Tới lui gìn giữ đàng hoàng thân tâm

Cùng nhau đóng góp chung làm

Hoa đăng, thắp nến cao thâm đạo tình

Nổi trôi nhiều kiếp điêu linh

Nguyện về Cực lạc tử sinh không còn

Dù cho mệt nhọc mỏi mòn

Quyết tâm tu học lòng son một bề

Não phiền rũ sạch bến mê

Bước lên bờ giác đồng về Tịch quang

Trí mầu đuốc tuệ sáng choang

Tâm an thanh tịnh sen vàng dạo chơi

Sống vui an phận tùy thời

Một lòng niệm Phật đời đời an vui.

 

8. Văn Nghệ

Song song với việc tu học, thỉnh thoảng đạo tràng còn có tổ chức những buổi văn nghệ chung vui vào những dịp lễ tất niên hay những buổi lễ chúc mừng tuổi thọ. Nói văn nghệ nghe cho oai phong, chớ kỳ thật thì đây là những bạn sen, họ vốn mang trong mình có chút dòng máu văn nghệ nghiệp dư, nên nhân cơ hội nầy họ muốn thể hiện đóng góp giúp vui cho đạo tràng. Vì suốt một năm dài sinh hoạt tu học, ai nấy cũng cảm thấy thấm mệt. Nay họ muốn mượn lời ca tiếng hát hay những vở kịch vui, để cống hiến mang niềm vui đến cho mọi người, dĩ nhiên, trong đó có họ. Vì mình có vui mới mang niềm vui đến cho những người khác.

 

Cần nói thêm, văn nghệ là một bộ môn nghệ thuật có sức hấp dẫn truyền cảm dễ đi sâu vào lòng người. Sự chuyển hóa hướng tiến lành mạnh bằng con đường nghệ thuật qua cửa ngỏ văn nghệ, từ xưa tới nay, các bậc tiền bối cũng đã rất quan tâm chú trọng và cổ võ phát triển cho vấn đề nầy. Tuy nhiên, không phải ai cũng hâm mộ yêu thích hết. Dĩ nhiên, cũng có những người chóng đối và cho những người ca hát thuộc hạng người xướng ca vô loại. Sự quan niệm chóng đối nầy, tùy theo nhân sinh quan của mỗi người. Song có điều ta thấy, đất nước và dân tộc ta dù đã trải qua nhiều biến thiên lịch sử thăng trầm vinh nhục thạnh suy, nhưng bộ môn nghệ thuật nầy vẫn mãi mãi tồn tại theo dòng sống nổi trôi của dân tộc. Nếu nó là thứ hủ bại hay đầu độc, thì thử hỏi làm sao tồn tại đến ngày nay ?

 

 Ở đây, chúng tôi không dám đi sâu và lạm bàn nhiều về vấn đề chuyên môn nầy. Vì đây không phải là lĩnh vực nằm trong kiến thức chuyên môn của chúng tôi.

 

Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói lên mối dây tình cảm thiêng liêng gắn bó của con người. Mà văn nghệ cũng là một bộ môn nhằm nối kết thắt chặt tình người qua nhiều thế hệ. Văn nghệ còn có tác năng mang con người lại gần gủi với nhau hơn. Nó cấm sâu vào gốc rễ tình cảm của con người. Vì ai cũng biết, tình yêu vốn là lẽ sống đích thực của con người, xin hiểu chữ « Yêu » trong chiều hướng thăng hoa làm đẹp cho cuộc sống. Ngoài tình yêu giữa nam nữ ra, con người còn có thứ tình yêu thiêng liêng cao cả rộng rãi bao la hơn. Đó là thứ tình yêu thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái, hay giữa tình thầy trò v.v…và nhất là giữa tình đồng loại với nhau.

 

Người ta nói, tình yêu không có biên giới. Thứ tình yêu nầy quả phải là thứ tình yêu rộng lớn như trái tim mặt trời. Âm nhạc tùy theo trình độ nhận thức và cách sử dụng của mỗi người mà nó có tác động ảnh hưởng tâm lý khác nhau. Tuy nhiên, nếu người ta khéo biết sử dụng nó theo chiều hướng thượng thăng hoa, thì nó cũng mang lại cho người ta nhiều điều thú vị ích lợi cho đời sống. Nghe một bản nhạc hay, hay xem một tuồng tích đẹp, hoặc một vở kịch vui và có ý nghĩa xây dựng, thì chính nó đã làm cho người ta cảm thấy vui tươi hơn, thoải mái hơn và yêu đời nhiều hơn. Ngược lại, nó cũng có thể làm cho tâm hồn người ta trở thành ủy mị yếu đuối hơn, hoặc kích động mạnh làm rối loạn tâm hồn, đó là tùy theo nội dung của mỗi bản nhạc và người diễn đạt sử dụng nó.

 

Nói thế để chúng ta thấy rằng, văn nghệ mà đạo tràng chúng ta vui chơi, tất cả đều thể hiện lành mạnh mang tính nghệ thuật của chiều hướng thăng hoa trong nếp sống đạo đức. Bởi những lời ca hay kịch vui… nội dung của nó đều hướng về những nét tinh hoa đạo lý, mục đích nhằm thức nhắc mỗi người trong sự thức tỉnh tu hành. Tuy cũng có sức hút truyền cảm gây tác động tâm lý cho người xem nghe để họ chú tâm theo dõi, nhưng kết quả đem lại sự an lạc cho thân tâm của mọi người. Đó cũng là thể hiện trong tinh thần xây dựng hướng tiến lành mạnh cho nhau.

 

Những kỳ văn nghệ, các bạn sen trong Ban Văn Nghệ đều nhiệt tâm tích cực đóng góp trong những tiết mục giúp vui. Ca tuy không hay như những ca sĩ chuyên nghiệp, nhưng họ có tinh thần văn nghệ lại yêu nghệ thuật nên họ đóng góp rất tích cực cao độ. Sự chia sẻ niềm vui trong thâm tình bạn sen với nhau, đó là điều mà mỗi bạn sen đều rất mong muốn. Có người còn tìm niềm vui bằng cách tự mình sáng tác và tự hát. Những bài hát lời lẽ đều chứa đựng đầy chất giáo lý, xây dựng tình người. Do đó, tuy có vui thật nhưng không đi xa đạo lý như ở ngoài đời. Nhạc đạo cũng là một phương tiện nhằm thức tỉnh con người. Có nhiều bản nhạc sau khi nghe, họ cảm thấy rất buồn cho số phận hẩm hiu làm người. Vì cuộc đời có quá nhiều đau khổ hệ lụy đắng cay. Từ đó, họ muốn tìm cách thoát ly khỏi sự ràng buộc. Và đi tìm nguyên nhân gây ra sự đau khổ để diệt trừ. Và cuối cùng họ đạt được ý nguyện theo chiều hướng giải thoát. Đó là kết quả của phần văn nghệ nghệ thuật, mang đến những chất liệu có tác năng cải thiện đời sống tâm linh của con người.

 

Đường nghệ thuật có lắm người yêu thích

Vang lời ca như vút tận mãi phương xa

Âm thanh kia theo ánh nắng trải rộng chan hòa

Mang sức sống tin yêu ngàn thuở trước

 

Đường nghệ thuật hành trình luôn cất bước

Trải bao đời thế hệ mãi vui ca

Hát lên đi ! những khúc hát thật đậm đà

Cho trần thế vơi đi niềm hận tủi

 

Đường nghệ thuật cứu bao người đang chết đuối

Biển trầm luân khổ lụy đắm mê sâu

Muôn lời ca nhạc đạo trổi bền lâu

Lan tỏa khắp tinh cầu vang âm hưởng

 

Đường nghệ thuật cứu những người vất vưởng

Vắng đêm buồn giá lạnh cõi lòng đau

Hát lên đi ! để giải tỏa hết những nỗi âu sầu

Không vướng bận, không lo âu trong mùa thu hay nắng cháy.

 

9. Sinh Hoạt Ngoài Trời

 

Như trên đã nói, cảnh sắc thiên nhiên cũng mang lại cho con người nhiều điều thú vị. Sống trong cảnh ồn náo phức tạp dễ gây ra cho người ta nhiều phiền não rối rắm, căng thẳng bực dọc. Vì muốn thay đổi không khí trong sự sinh hoạt, nên mỗi năm đạo tràng có tổ chức hai kỳ du ngoạn sinh hoạt ngoài trời. Một kỳ đi xa và một kỳ đi gần. Kỳ đi xa, thường tổ chức vào tháng mười. Vì thời tiết tháng mười nó rơi vào mùa xuân nên khí hậu tương đối mát mẻ dễ chịu hơn.

 

Nói đi xa, nhưng vẫn còn nằm trong địa phận của tiểu bang Victoria. Còn kỳ đi gần, thường tổ chức vào tháng ba. Địa điểm sinh hoạt tùy theo sự chọn lựa mỗi nơi cho thích hợp. Thường nơi đó phải thoáng rộng và có nhiều cây cảnh xinh đẹp. Tháng ba là tháng sắp cuối mùa hè trời bắt đầu chuyển sang thu. Thời tiết của mùa nầy không nóng lắm và cũng không lạnh lắm. Trời vào thu, thời tiết ấm áp mát mẻ rất dễ chịu. Do đó, nên đạo tràng quyết định tổ chức đi vào tháng nầy. Mỗi kỳ đi, đều chọn địa điểm sinh hoạt mỗi nơi khác nhau, nhưng không quá xa đạo tràng. Và thời gian sinh hoạt chỉ trong vòng một ngày. Thường đi vào ngày chủ nhật, bắt đầu sinh hoạt từ 9 giờ sáng cho đến 5 giờ chiều. Đây là dịp để cho các bạn sen tiếp cận thưởng ngoạn vui sống với thiên nhiên.

Cứ mỗi lần đi, các bạn sen tham dự rất đông. Tùy theo số người đi nhiều ít mà thuê xe buýt. Thường những kỳ đi xa thì tổ chức vào hai ngày cuối tuần thứ bảy và chủ nhật. Ngày thứ bảy, đặc biệt dành cho mọi người tham quan lãm cảnh. Tối lại ngủ nghỉ ở khách sạn. Ngày chủ nhật thì sinh hoạt tu học trọn ngày. Bắt đầu sinh hoạt từ lúc 9 giờ sáng cho đến 5 giờ chiều. Sau khi dọn dẹp sạch sẻ công viên, tất cả đều lên xe trở về chùa.

 

Sự thay đổi không khí sinh hoạt tu học nầy, các bạn sen rất thích thú. Vì thế nên mỗi kỳ tổ chức, số người tham dự rất đông. Như đã nói, đây là cơ hội tốt để cho mọi người có dịp sinh hoạt hít thở không khí tươi mát trong lành. Nhất là đối với các bạn sen trọng tuổi, họ cần có những giây phút thoảì mái thư giản tâm hồn. Nhìn chung quanh cây cảnh tươi mát cũng làm cho tinh thần người ta cảm thấy sảng khoái tươi mát theo. Sự thay đổi không khí nầy, phải nói các bạn sen trọng tuổi rất thích. Riêng các bạn sen trẻ tuổi, (nói trẻ chớ không trẻ lắm, đa số là từ 40 tuổi trở lên) thì lại càng thấy thích thú và dễ chịu hơn. Vì có dịp để cho tinh thần của họ bớt đi sự bức xúc căng thẳng, các hệ thần kinh của họ thoải mái êm dịu hơn.

 

Vì suốt ngày, họ mải miết bon chen vật lộn với cuộc sống, nên đầu óc của họ như quay cuồng theo công việc. Dù làm việc bằng tay chân hay trí óc, dù ở hảng xưởng hay ở nhà, tất cả, cũng đều bị bức xúc căng thẳng. Nhất là làm việc bằng trí óc, thì đầu óc của họ dễ bị căng thẳng hơn. Nay có dịp tiếp xúc với thiên nhiên, ngắm cảnh hoa lá cây rừng, làm cho tâm hồn của họ cảm thấy tươi mát và rất dễ chịu. Cõi lòng của họ cảm thấy nhẹ nhỏm như trút đi bao nhiêu gánh nặng ưu phiền.

 

Chương trình sinh hoạt trong ngày chủ nhật, có nhiều tiết mục rất hấp dẫn thú vị. Ngoài những giờ tịnh tọa, thiền hành, nghe pháp, trao đổi học hỏi với nhau bằng cách hội thảo, hoặc trả lời những câu hỏi giáo lý đố vui có phần thưởng ra, họ còn ca hát những bản nhạc đạo. Họ hát ca trong tinh thần hòa hợp vui tươi cởi mở. Họ hát ca trong nắng ấm. Họ vui cười trong niềm hoan hỷ hòa nhịp theo nhạc điệu thiên nhiên của hoa lá cây rừng. Họ cảm thấy rất thích thú !

 

Giờ ăn trưa, mỗi người lấy thức ăn mà họ đã tự túc mang theo. Họ lấy ra rồi cùng nhau ngồi quây quần bên nhau thọ thực. Họ san sẻ chia thức ăn cho nhau. Thức ăn mỗi người làm mỗi kiểu, mỗi cách khác nhau. Họ ngồi chùm nhum thành từng nhóm nhỏ. Mỗi nhóm vài ba người cùng ăn. Họ ăn một cách rất tự nhiên thoải mái và vui vẻ. Khác hơn những ngày thọ bát ở chùa. Những ngày thọ bát, vì tập tu theo pháp hạnh của người xuất gia, nên khi thọ thực họ phải thật hành theo nghi thức cúng quá đường. Họ ăn trong im lặng, mỗi người phải tự gìn giữ chánh niệm. Hôm nay, tuy họ không theo nghi thức thọ trai như thế, nhưng theo thói quen, họ vẫn giữ yên lặng và ăn trong chánh niệm.

 

 Nhìn thấy cảnh tượng họ ngồi ăn dưới bóng cây che mát, tôi liên tưởng đến thời xa xưa, thời mà Đức Phật và các thánh chúng, sau khi đi khất thực, các Ngài trải tọa cụ, rồi mỗi người ngồi thọ thực dưới những tàng cây râm mát. Nhìn thấy họ vui vẻ san sẻ những thức ăn cho nhau, tôi cảm thấy rất vui. Thật là một khung cảnh tràn đầy hoan hỷ ấm cúng trong thâm tình bạn sen với nhau.

 

Trong giờ nghe pháp, họ lắng tai theo dõi chăm chú để nghe. Sau thời pháp thoại, họ nêu ra những câu hỏi thắc mắc qua nhiều vấn đề. Những vấn đề mà họ nêu ra đều có liên quan ít nhiều thiết thân đến cuộc sống thực tế. Những buổi sinh hoạt ngoài trời như thế nầy, chúng tôi không đặt nặng về hình thức lễ nghi tôn giáo. Vì muốn cho mọi người sinh hoạt thật thoải mái nhẹ nhàng, miễn sao tâm hồn của họ cảm thấy an lạc thanh thoát là được. Vì những ngày sinh hoạt tu học ở chùa, họ đã thật hành và mang nặng quá nhiều phần lễ nghi hình thức. Nay, họ cần có những giây phút sinh hoạt thoải mái hơn. Do đó, nên ai nấy đều cảm thấy rất vui. Họ hít thở không khí tươi mát trong lành của một không gian rộng lớn mà trời đất đã ban cho.

 

Ta có cả không gian rộng lớn

Có muôn loài vạn vật ở bên ta

Có sơn hà và cả thế giới hằng sa

Có tất cả tâm hồn sao trống vắng ?

Hãy vui sống trong biển trời đầy yên lặng

Hãy vượt lên những cái « CÓ » cùng « KHÔNG »

Để tâm hồn luôn lắng đọng sạch trong

Không chết lịm trong dòng sông sanh tử

Đừng tranh chấp hơn thua sanh tâm hung dữ

Cũng đừng theo ý niệm mãi tranh giành

Vì cõi đời là giả tạm diệt sanh

Sanh với diệt là hai phạm trù đối nghịch

Dẹp đối đãi đi vào trong không tịch

Thấy rõ đời là vạn pháp sắc không

Muôn vật đều quyết không để trong lòng

Thôi, dẹp hết chỉ còn lại một bầu trời viên giác.

(trích trong quyển Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút cùng một tác giả).

 

Ngoài những giờ tu học ra, gần tới giờ về, các bạn sen quây quần bên nhau, họ nắm lấy tay nhau ca hát. Họ ca hát trong vòng tay yêu thương và rất tự nhiên thoải mái. Gìa trẻ gì cũng cùng nhau hát ca cả. Họ ca hát những bài hát đạo, mang chất giáo lý siêu thoát và xây dựng tình người tình đạo.

 

Sinh hoạt ngoài trời vui lắm thay !

Cùng nhau ca hát trong vòng tay

Hoa lá cây rừng ôi ! tươi mát

Nắng đẹp trời trong buổi sớm mai

Tịnh tọa, thiền hành trong cảnh vắng

Nghe kinh thọ thực dưới tàng cây

Còn chi vui đẹp hơn tình đạo

Liên hữu một nhà vui lắm thay !

 

10. Khu Nhà Bếp

 

Người ta thường nói, có thực mới vực được đạo. Thật vậy, vấn đề ăn uống trong khi tu học cũng rất cần thiết. Tuy không phải cần đến những thức ăn sang trọng, cao lương mỹ vị, nhưng ít ra, thức ăn cũng phải có đầy đủ chất liệu sinh tố bổ dưỡng. Tu học mà thiếu sức khỏe thì cũng khó đạt được kết quả. Nó cũng gây trở ngại rất lớn trên bước đường tu học. Vì vậy, trong đạo tràng có cử ra một Ban trai soạn. Ban nầy có nhiệm vụ là sắp xếp và soạn bày những thực phẩm nấu nướng ở nhà bếp. Ban nầy nằm trong bộ phận chỉ đạo của Ban Trù Đường. Tầm hoạt động của Ban Trù Đường phạm vi rộng lớn hơn. Mọi sắp xếp ở khu nhà bếp cũ (hội trường cũ) đều do Ban Trù Đường phụ trách.

 

Cần minh định rõ, phạm vi hoạt động của Ban Trai Soạn chỉ phụ trách lo phần vụ trong đạo tràng mà thôi. Đặc biệt, là những kỳ thọ bát và những khóa tu. Tuy hai ban nầy, phân chia phần nhiệm có khác nhau, nhưng họ vẫn làm việc trong sự hỗ tương liên đới chặt chẽ với nhau. Họ luôn tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.

 

Suốt bao nhiêu năm qua, phải thành thật mà nói, Ban Trù Đường của chùa rất là cực nhọc vất vả. Cực nhứt là vào những dịp đại lễ : Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Ngoài những đại lễ chính định kỳ ra, chùa còn có những buổi lễ linh tinh khác. Đó là chưa nói đến nấu thức ăn thiết đãi miễn phí cho quý đồng hương Phật tử đến chùa vào mổi buổi trưa chủ nhật hằng tuần. Số lượng đồng hương Phật tử đến chùa vào mỗi buổi sáng chủ nhật cũng khá đông.

 

 Cứ mỗi kỳ đại lễ như vậy, thì Ban Trù Đường phải đảm trách gánh vác toàn bộ. Nghĩa là phải phục vụ đãi đằng thực phẩm cho số lượng người rất đông. Đó là chưa kể đến vấn đề quản lý thức ăn và chế tác thực phẩm để bán kiếm tiền gây quỹ cho chùa. Do đó, nên nhà bếp cần phải có nhiều người phụ lực tiếp sức. Ngoài những đầu bếp chính ra, bên cạnh đó còn có những đầu bếp phụ. Nói đầu bếp phụ có nghĩa là bao gồm những vị phát tâm làm công quả xắt gọt hay làm những việc lặt vặt linh tinh khác.

 

Nói thế, để thấy rằng số người lo cho khu nhà bếp nầy, phải nói phần lớn là các bạn sen trong đạo tràng. Họ làm việc cật lực với nhau. Làm trong tinh thần hòa hợp, cởi mở và giúp đỡ lẫn nhau. Vì ít nhiều gì, họ cũng hấp thụ những lời Phật Tổ dạy bảo. Những người nầy, tuy họ phục vụ công việc ở nhà bếp, nhưng họ cũng vẫn sát cánh với đạo tràng trong việc tu học. Nhất là mỗi khóa tu mở ra, cũng đều có mặt họ tham dự. Đó là tinh thần ham tu hiếu học của họ thật đáng khen ngợi. Ngoài ra, có một số ít Phật tử chỉ đến công quả cho chùa xong việc thì họ về. Số người nầy, vì họ chưa đủ nhân duyên để tu học với đại chúng trong đạo tràng. Hy vọng một ngày nào đó đủ duyên, thì họ sẽ phát tâm gia nhập sinh hoạt tu học cùng với các bạn sen trong đạo tràng.

 

Ngoài ra, còn có những vị ở trong Ban Hành Đường. Ban nầy họ cũng hoạt động tích cực trong việc bưng dọn thức ăn. Đồng thời, họ còn phân phát thức ăn cho những bạn sen tới đạo tràng thọ bát định kỳ hoặc những khóa tu học đặc biệt. Họ làm việc trong tinh thần hài hòa vui vẻ. Họ tận tình phụ giúp với nhau. Khi hành sự họ luôn ý thức trong nhiệm vụ bổn phận vai trò của mình. Tuy có phân chia từng ban để tiện điều hành trong khi làm việc, nhưng kỳ thật, thì tất cả đều san sẻ tiếp tay phụ lực với nhau. Người nầy làm không kịp, thì người khác nhảy vô phụ giúp. Đó là họ đã thể hiện tinh thần tương trợ chị ngã em nâng hay ngược lại cũng thế.

Mỗi khi có cúng dường trai tăng, họ đều làm cật lực tương trợ lẫn nhau. Họ sắp xếp phần vụ cho mỗi người phụ trách trong mỗi công việc của mình. Người nầy lo dọn thức ăn, người kia lo việc hướng dẫn bưng quà, hoặc hướng dẫn chỉ cách thức cho người đứng ra tác bạch v.v…

 

 Trong đạo tràng có thành lập một Ban Tương Trợ. Ban nầy chuyên lo việc cúng dường trai tăng cầu siêu chung thất cho những bạn sen. Những thành viên của ban nầy, hầu hết là các liên hữu trong đạo tràng. Cứ mỗi kỳ thiết lễ trai tăng, thì ban nầy liên lạc với các thân quyến của người mất để hợp lực trong việc cúng dường trai tăng. Đồng thời, họ cũng liên lạc với vị Trưởng Ban Trù Đường để lo thức ăn. Mỗi khi có một liên hữu nào vãng sanh, thì các thành viên khác đóng tiền cho vị Trưởng Ban Tương Trợ để vị nầy lo hết mọi việc. Vì họ muốn cho những bạn sen, nhờ công đức cúng dường trai tăng mà các hương linh chóng được siêu sanh thoát hóa. Đó là một việc làm chẳng những thể hiện lòng yêu thương tương trợ khi còn sống, mà đến lúc mất họ cũng thương để lo cho nhau. Quả đây là một tinh thần hiếm có ở cái xứ sở văn minh trục vật, xem nhẹ coi thường phần đạo đức tâm linh.

 

 Điều đáng nói, là họ làm trong tinh thần thương yêu và hòa hợp. Họ không tranh cãi hờn giận với nhau. Nếu có, khi biết lỗi họ liền sửa sai ngay. Họ có được như thế, phần lớn là do họ có áp dụng thật hành những lời Phật dạy mà họ đã thật tâm tu học.

 

Nhìn chung, tất cả các ban do đao tràng cắt đặt công cử, họ đều một lòng quyết tâm phục vụ lo cho đạo tràng. Nói đạo tràng chớ kỳ thật cũng là lo cho chùa mà thôi. Vì chùa và đạo tràng cũng không có gì khác biệt. Suốt thời gian dài qua cũng như hiện tại, tất cả bạn sen đều có chung một tâm nguyện là cùng nhau quyết tâm xây dựng và phát triển đạo tràng. Ngoài những công việc đã được phân nhiệm cho mỗi người ra, còn lại tất cả đều dồn hết tâm lực trong việc tu học. Mỗi người tự ý thức đến bổn phận của mình mà cùng nhau đồng tâm hiệp lực chung vai đóng góp. Đó là điểm son sáng giá trong tinh thần hướng thượng tu học. Mong sao mỗi bạn sen là một viên gạch cùng nhau quyết tâm xây dựng tòa nhà đạo tràng mỗi ngày càng thêm khởi sắc tiến bộ và vững mạnh hơn.

 

Với tâm nguyện chung niệm Phật cầu vãng sanh, không phải chỉ có tương lai không, mà ngay trong hiện tại, ước mong mỗi bạn sen phải là một đóa sen tinh khiết ngát tỏa hương thơm khắp cả bầu trời tự do giải thoát. Được thế, thì lo gì tương lai chúng ta không được mãn nguyện. Xin nhấn mạnh và nhắc lại để cho các bạn sen nhớ : « Nếu chúng ta muốn có được một tương lai huy hoàng sáng lạng tốt đẹp, thì chúng ta cần phải xây dựng những chất liệu tốt đẹp ngay trong hiện tại. Bởi tương lai có ra là do hiện tại định đoạt. Nếu hiện tại không có những chất liệu tốt đẹp, thì đừng mong có được một tương lai tốt đẹp ». Nếu muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc, thì hằng ngày chúng ta cần phải chuyên tâm niệm Phật bền bỉ và đồng thời cũng nên tu tạo tài bồi thêm nhiều phuớc đức ngay trong đời sống hiện tại nầy. Đó là hướng tiến xây dựng một báo thân thật tốt đẹp cho chúng ta ở mai sau.

 

Chị về lo soạn thức ăn

Nếu không thì bị cằn nhằn đó nghe

Em ơi ! em nhớ rang mè

Thơm vàng hương vị bạn bè thương nhau

Chị xắt gọt, em rửa rau

Chị xào, em nấu ngọt ngào tình thâm

Ớt kia em để chị bầm

Còn chanh em vắt để làm nước tương

Chị ơi ! nhờ bỏ thêm đường

Thêm tiêu gia vị bình thường cho ngon

Mì căn xả ớt chiên dòn

Gỏi bì, lẩu thái, mì ngon ăn liền

Chị rằng : em khéo vẽ duyên

Nấu cho mau chín dọn liền nhanh đi

Em rằng : nấu đãi Tăng Ni

Phải cho đủ món kịp thì ngọ trai

Chị em cực nhọc chẳng nài

Cúng dường đại chúng bảy ngày yên tu

Dù cho khó nhọc mặc dù

Chị em vui vẻ chẳng ưu phiền hà

Thương nhau tu học một nhà

Nhớ lời Phật dạy « Lục Hòa » an vui.

Thức ăn thắm đượm đủ mùi

Là mùi đạo đức sống vui chan hòa.

 

V. Kiên Nhẫn

 

Kể từ khi đạo tràng phục hoạt vào năm 1998, mọi sự sinh hoạt của đạo tràng bắt đầu đi vào nề nếp. Thời gian đầu, với số liên hữu cũ và mới trên dưới khoảng năm mươi người. Nói cũ, vì một số đã gia nhập và sinh hoạt tu học từ trước. Còn mới, là những vị khi hay tin đạo tràng sinh hoạt trở lại, thì họ mới xin ghi tên gia nhập. Tuy bước đầu mới sinh hoạt, nhưng sự tổ chức cũng rất là chặt chẽ. Bởi nhờ có nội quy làm cương lĩnh. Từ đó, mọi sinh hoạt tu học của đạo tràng đều căn cứ theo bản nội quy mà hoạt động. Phải thành thật mà nói, từ quý vị trong Ban Điều Hành và Ban Lãnh Chúng đến các liên viên, tất cả đều hỗ tương làm việc rất tích cực đắc lực. Từ đó, số người xin gia nhập vào đạo tràng, mỗi năm con số cứ gia tăng dần. Tính đến nay (2011), đạo tràng đã trải qua mười ba năm. Thời gian tuy dài đối với tổ chức của một đoàn thể tu học, nhưng không dài lâu so với một đời người.

 

Từ con số khiêm tốn của buổi sơ khai đó, trải qua quá trình hoạt động mười ba năm, cho đến nay con số liên viên đã tăng lên gần ba trăm vị, kể cả các liên viên danh dự. Kiểm điểm lại qua quá trình sinh hoạt, đạo tràng cũng đã gặp một vài trở ngại khó khăn. Nhưng nhờ sự kiên nhẫn quyết tâm của mỗi người, nhất là đối với các vị lãnh đạo trong đạo tràng, và với sự chỉ đạo hướng dẫn nhắc nhở của Hòa Thượng Liên Trưởng, nên tất cả đều khắc phục nhẫn nại kiên quyết vượt qua mọi khó khăn thử thách. Xưa nay, không có một tổ chức nào mà mọi sinh hoạt đều được thuận duyên suôn sẻ như ý muốn. Có khó khăn mới đánh giá được tinh thần phấn đấu nhẫn nại của mỗi người. Chính nhờ vào sự kiên nhẫn bền chí tu học, nên đạo tràng mới có được kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.

 

Tu hành học đạo phải bền tâm

Lập chí kiên gan nhẫn nhục thầm

Mặc thế cười chê ai nhạo báng

Vui mùi kinh kệ nín như câm

Cho hay chữ « Nhẫn » là cao thượng

Giận tức làm chi phải khổ tâm

Nầy hởi ai ơi ! mau tỉnh giác

Tu hành học đạo phải bền tâm

 

Nhìn lại, trong khoảng thời gian dài qua, đạo tràng đã mất và vắng đi một số các liên viên. Một số, vì lý do làm ăn hay vì hoàn cảnh gia đình hoặc đau yếu bệnh hoạn… nên phải di chuyển chỗ ở đến các tiểu bang khác hoặc về lại Việt Nam. Một số khác, thì vĩnh viễn từ giả đạo tràng vãng sanh về Cực lạc. Số nầy, cũng không phải là ít. Tính đến nay (2011) đã có 32 vị vãng sanh. Như vậy, sự tăng, giảm, sanh diệt vô thường, đó là luật định xưa nay. Tuy nhiên, số giảm thì ít, nhưng số tăng thì nhiều. Nhờ vậy, mà đạo tràng cũng có thêm nguồn an ủi. Đối với các liên viên đã mất, năm nào đạo tràng cũng có tổ chức một buổi lễ cầu siêu chung cho những vị nầy vào những khóa tu Báo Ân trong dịp đại lễ Vu Lan hằng năm.

 

Dù đã gặp một vài nghịch cảnh chướng duyên thử thách từ bên trong lẫn bên ngoài, nhưng không vì thế mà đạo tràng lại thối chí chùn bước. Âu đó, cũng nhờ sức thầm gia hộ của Tam Bảo và gần nhứt là dưới sự chỉ đạo của Hòa Thượng Liên Trưởng, nên con thuyền đạo tràng vẫn luôn luôn vững tay lái để vượt qua những cơn sóng gió bão táp. Đó là nhờ sự kiên tâm của các liên viên đóng góp vào. Bằng vào sự lập trường kiên định, với ý chí nỗ lực tinh tấn niệm Phật tu hành, thì dù có gặp trở ngại khó khăn đến đâu, tất cả cũng đều cố gắng kiên quyết vượt qua. Có thế, thì sự sinh hoạt tu học của mỗi cá nhân mới được tiến bộ và đạo tràng mới đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

 Tóm lại, mọi thành quả tốt đẹp, là nhờ hội đủ nhiều thiện duyên, nhất là nhờ sự đóng góp tích cực của mỗi liên viên thể hiện trong tinh thần tương kính hòa hợp, yêu thương, đồng tâm hiệp lực xây dựng. Với tinh thần đoàn kết chung sức xây dựng đó, chắc chắn đạo tràng mỗi ngày sẽ mỗi tiến bộ khởi sắc hơn. Đó là điều mong mỏi của Hòa Thượng Liên Trưởng và cũng là niềm hoài vọng chung của đạo tràng vậy.

 

 VI. Bất Thối Chuyển

 

Người sanh về thế giới Cực Lạc được cái nhân duyên thù thắng là bất thối chuyển. Nghĩa là chỉ có một bề tu hành tiến tới không bao giờ lùi bước. Họ tu học không lui sụt cho đến ngày viên thành Phật quả mới thôi. Đó là một nét rất đặc thù tuyệt diệu mà cõi nầy không có. Người tu ở cõi Ta Bà hay có chứng bệnh khi trồi khi sụt. Lúc thì tinh tấn rất mực, khi thì biếng trễ bê tha. Có ngày thì niệm Phật thật nhiều; có ngày thì vì bận công kia việc nọ nên quên niệm Phật. Có người còn viện cớ bận rộn, ngày nay niệm không đủ số, ngày mai niệm bù.

Lại thêm mắc phải cái chứng bệnh nghe đâu chúc đó. Lòng tin Phật pháp không vững, nay đến chỗ nầy mai chạy chỗ kia. Họ là người thuộc dạng ba phải, thiếu lập trường. Nay tu theo pháp môn nầy, mai chạy theo pháp môn khác. Nay đến chùa nầy mai chạy đến chùa kia. Nơi nào có tình cảm, khéo biết chiều chuộng, tiếp đón họ một cách nhiệt tình thì họ đến. Nơi nào lơ là không ngó ngàng đến họ, thì họ bái bai.

 

Cứ thế mà chạy lòng vòng. Người ta gọi họ là đạo vòng vòng. Cuối cùng, họ không đạt được kết quả gì cả. Họ là người thật đáng thương xót!

 

 Ngược lại, người ở cõi Cực Lạc, thì chỉ hành trì có một pháp môn duy nhứt, đó là Niệm Phật. Ngoài ra, họ được thường xuyên nghe Phật và các vị Bồ tát thuyết giảng chánh pháp, nên việc tu học của họ tiến bộ rất nhanh. Đồng thời, được thêm cái nhân duyên thù thắng hơn nữa, là tất cả đều là bạn lành. Ai cũng là thiện nhân cao đức thật dễ thương.

 

Mọi người đều thức nhắc trao đổi học hỏi Phật pháp với nhau. Không bao giờ nghe tiếng thị phi. Đó là một thắng duyên làm cho họ tiến đến đạo quả rất nhanh. Ngược lại, ở cõi nầy, nghe tiếng đạo đức thì ít, mà nghe tiếng thị phi thì nhiều. Từ đó, mà họ sanh tâm nhân ngã bỉ thử, khởi tham, sân, si chấp trước đủ thứ. Người khuyến nhắc tu hành thì ít, người nói chuyện đời hơn thua phải trái thì nhiều. Người sách tấn tu học theo chánh pháp thì ít, người nói bàn ra, khuyến khích theo con đường tà ngoại, trụy lạc bê tha thì nhiều.

 

Chẳng những thế, họ còn chế giễu những ai đi chùa, tụng kinh bái sám. Quả cõi nầy là một chướng duyên, thật khó tiến đạo nghiêm thân. Có người khi mới bước chân vào đạo, gặp phải một vài nghịch cảnh, chướng duyên thử thách nào đó, như có ai nói xấu chê bai, gây cho họ bực tức, thì họ thối tâm chùn bước ngay. Từ đó, họ không bao giờ bước chân đến chùa. Thế là họ bị thối thất bồ đề tâm.

 

Có người gặp cảnh khổ đau, như trong thân nhân có người chết, rồi bạn bè khuyên lơn an ủi tu niệm, lúc đầu thì họ phát tâm tinh tấn, nhưng dần dà về sau mải mê với công việc làm ăn rồi bỏ ngang sự tu hành. Cho nên, muốn giúp nhau không lui sụt như người ở cõi Cực Lạc, chỉ có đạo tràng mới thức nhắc khuyến tấn nhau tu hành niệm Phật. Chính vì điểm nầy, nên chư Tổ mới bày ra cho chúng ta niệm Phật công cứ. Đó là một phương tiện mà các Ngài không muốn cho chúng ta lui sụt: ngày niệm ngày không.

 

Đạo tràng chúng ta cứ mỗi tháng họp chúng kiểm công cứ một lần cũng chính là noi theo cái đạo tràng của người ở cõi Cực lạc. Người ở cõi Cực lạc tuy không có mỗi tháng kiểm công cứ như chúng ta. Vì tất cả chỉ có một con đường tiến tu và ai ai cũng ý thức tu hành. Không một ai giải đãi bê tha. Tương lai, chúng ta muốn về Cực Lạc, thì hiện tại, chúng ta phải chịu khó bền chí niệm Phật tu hành, cố gắng làm lành lánh dữ. Được thế, thì lo gì mai sau, chúng ta không được vãng sanh về Cực Lạc.

 

Tóm lại, tuy chúng ta mang nghiệp duyên sinh sống ở cõi Ta Bà, nhưng nếu chúng ta khéo biết tu, chuyển nghiệp nhân ác thành nghiệp nhân thiện, thì chúng ta cũng có thể chuyển Ta Bà thành Tịnh Độ.

 

Thật ra Di Đà không ở đâu xa mà Di Đà ở trong tâm ta. Cho nên kinh nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”.

 

Đêm tụng kinh Di Đà

Tây Phương hiện trong ta

Mỗi lời trong chánh niệm

Tiếp xúc Phật Di Đà

 

Đêm tụng kinh Di Đà

Cực lạc thật không xa

Nhạc trời vang tiếng gọi

Tịnh độ tại Ta bà.

Chúng ta thật có nhân duyên với pháp môn Tịnh Độ rất lớn. Nếu đời trước chúng ta chưa từng gây chủng nhân Tịnh nghiệp, thì làm gì đời nay chúng ta biết tu theo pháp môn niệm Phật. Hơn thế nữa, chúng ta lại cùng nhau sinh hoạt trong một đạo tràng. Tuy hiện tại chúng ta thiếu nhân duyên thù thắng đối với người ở cõi Cực Lạc rất nhiều, nhưng nếu chúng ta cương quyết tinh tấn bền chí tu học, thì chắc chắn hiện tại và tương lai, chúng ta cũng gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp. 

 

Chúng ta cũng có phước duyên thường xuyên đến chùa tu học. Ngoài những tuần lễ thọ bát định kỳ ra, chúng ta còn dự những khóa tu kết kỳ niệm Phật mỗi năm 3 kỳ, mỗi kỳ 7 ngày. Những thời gian nầy là cơ hội ngàn vàng để mỗi người chúng ta gieo chủng duyên tịnh nghiệp sâu dầy hơn. Chúng ta luôn có thầy bạn thức nhắc. Nếu không có đạo tràng, thì việc tu hành của chúng ta khó được tiến bộ. Cho nên, năng lượng tăng thân soi sáng cho nhau rất là quan trọng. Nhờ thường xuyên nghe pháp, mà pháp thân huệ mạng của chúng ta ngày càng tăng trưởng.

 

Đồng thời, đó cũng là nguồn năng lực thúc đẩy chúng ta tinh tấn thêm lên. Nhờ vậy, mà sự tu hành, niệm Phật của chúng ta mỗi ngày có thêm tiến bộ. Và cũng nhờ đó mà đường về Cực lạc của chúng ta ngày càng thâu ngắn lại. Đó là một hướng tiến mà đạo tràng của chúng ta đã và đang thực hiện.

 

Mong sao, mỗi liên hữu chúng ta sẽ là mỗi đóa sen đang nở mỗi ngày mỗi thêm lớn. Không những nở tại đây thôi mà nó còn đang nở to bên cõi Cực Lạc. Chính những đóa sen đó đang chờ đón chúng ta. Khi chúng ta nhắm mắt, sẽ được đức Phật Di Đà và chư Bồ tát phóng quang tiếp dẫn chúng ta về ngự tọa trên đài sen. Đó là một sự thật, không phải là chuyện mơ hồ!

 

Chúng ta cùng nhau quyết tâm xây dựng một đạo tràng lý tưởng cụ thể ở tại nơi đây. Đó là ý nguyện chung của chúng ta. Bằng vào sự gia hộ của Tam Bảo và gần nhứt là sự hướng dẫn chỉ giáo của Hòa Thượng Liên Trưởng, cũng như sự quyết tâm xây dựng của mỗi liên hữu, thì chắc chắn đạo tràng của chúng ta quyết định phải đạt được kết quả tốt đẹp cao. Kính mong, mỗi liên hữu nên ý thức đến sự sanh tử khổ đau, mãi trôi lăn trong vòng lục đạo luân hồi, mà mỗi người nên hạ quyết tâm tài bồi công đức, niệm Phật tu hành nhiều hơn nữa, để sớm đạt thành sở nguyện.

 

Kính chúc quý liên hữu thân tâm thường lạc, tịnh nghiệp tinh chuyên, bồ đề quả mãn, Phật quả chóng viên thành.

 

 Đối Chiếu Sự Dị Đồng Giữa Ta Bà và Cực Lạc

 

Khi đối chiếu so sánh giữa hai thế giới Ta Bà và Cực Lạc, ta thấy ngay nơi danh xưng đã là khác nhau một trời một vực rồi. Thế thì đối chiếu so sánh để làm gì cho phí sức. Thật ra, có đối chiếu so sánh giữa đời sống và cảnh vật của hai thế giới, thì ta mới phát khởi tín tâm nhiều hơn. Và như thế, đâu không phải là điều thú vị lắm sao! Như thế, thì việc làm nầy đâu phải là vô ích.

 

Hôm nay, tôi xin nêu ra một số vấn đề về cảnh vật và đời sống của hai thế giới Ta Bà và Cực Lạc, để chúng ta chiêm nghiệm giữa hai đời sống khác nhau như thế nào. Đã gọi là thế giới, tất nhiên, đó là phần vật chất hình tướng. Đã là vật chất hình tướng, thì tất cả đều là hư ảo huyễn mộng. Tuy nhiên, tuy huyễn mộng, nhưng cũng có mộng đẹp và mộng xấu. Nói cách khác là thiện mộng và ác mộng, tức mộng khổ và mộng vui. Thế thì ta nên chọn mộng nào? Chắc ai cũng thích chọn mộng đẹp và vui. Có ai ngu dại gì mà lại chọn mộng xấu khổ bao giờ?

 

Đứng về mặt sự tướng mà nói, thì Ta Bà hay Cực Lạc, tất cả đều tùy tâm hiển hiện. Không có vật nào ngoài tâm. Đúng vậy. Nhưng hiện tại, thử bình tâm xét lại tâm ta như thế nào? Tâm ta có được an ổn không? Hay luôn luôn bất an xáo trộn, loạn động không dừng. Vẫn biết, khi tâm tịnh, thì mọi vật đều tịnh. Nhưng ngặt nỗi, tâm ta chưa an tịnh thì sao? Mọi vật có an tịnh hết không? Hay là tối ngày phan duyên theo trần cảnh, chưa từng ngừng nghỉ. Do đó, chúng ta cần tìm hiểu giữa hai thế giới người và cảnh khác nhau thế nào.

 

I. Khác nhau về danh xưng và cảnh vật

 

1. Khác nhau về danh xưng

 

 Ta thấy, ngay trong danh xưng: Ta bà và Cực lạc, thực chất của nó đã là khác nhau rất xa rồi. Một bên là thuần vui không khổ. Ngược lại, một bên là thuần khổ không vui. Cho nên gọi là Ta bà và Cực lạc.

 

Ta bà là cực kham khổ. Cực lạc, thì cực thuần vui. Khổ như thế nào? Và vui như thế nào? Về khổ thì cõi nầy, xét về mặt tục đế, hay sanh diệt Tứ đế, thì đời sống của con người không một ai thoát khỏi bốn nỗi khổ lớn: “sanh, già, bệnh, chết”. Bốn nỗi khổ phụ là: “ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội và ngũ ấm xí thạnh khổ”. Ngược lại, cõi Cực lạc, thì không có những nỗi thống khổ nầy. Lý do tại sao? Lần lượt đối chiếu, chúng ta sẽ thấy rõ.

 

2. Khác nhau về cảnh vật

 

 Theo kinh Di Đà diễn tả cho chúng ta biết, thì cõi Cực Lạc, tất cả cảnh vật đều kết thành bằng bảy thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

 

- Đất báu (bảo địa) Ở cõi Cực lạc, đất toàn bằng lưu ly (thuộc loại ngọc xanh ) trong suốt sáng ngần. Ngược lại, đất ở cõi nầy, thì nhơ uế, đủ loại: đất sét, đất phèn, đất chay, đất nẻ v.v…

 

- Ao báu (bảo trì) đáy ao và chung quanh ao, đều kết hợp bằng 7 thứ báu tạo thành. ( tượng trưng cho thất thánh tài. Thất thánh tài gồm có: Tín, tấn, giới, tàm quý, văn, xả, định huệ ). Dưới đáy ao toàn bằng cát vàng, khác hẳn với ao ở cõi trần toàn là bùn lầy. Ao sâu và rất rộng. Nước thì có tám thứ công đức: 1.Vắng lặng. 2. Mát mẻ 3. Ngon ngọt 4. Nhẹ nhàng 5. Bóng lộng 6. Ôn hòa 7. Uống vào khỏi đói 8. Uống vào nuôi lớn các thiện căn. Nước trong ao khi uống vào mát mẻ và khỏe khoắn lạ thường. Nước thuần một vị trong mát, không có mặn lạt hay nhơ bẩn như nước cõi nầy.

 

 - Cây báu (bảo thọ) cây tự nhiên không do ai trồng. Có nhiều loại cây tên gọi khác nhau. Tất cả đều ngay hàng thẳng lối. Cây chiên đàn hương, cây kiết tường quả v.v… nhánh lá, bông, trái đều đặn chỉnh tề. Thân lá bông trái đều kết tụ bằng thất bảo.

 

Ngược lại, cây ở cõi nầy có vô số loại và tên gọi khác nhau. Có những loại mọc tự nhiên, có nhiều loại do người ta trồng. Loại trồng theo hai bên đường, cũng giống như cõi Cực Lạc, cũng ngay hàng thẳng lối, trông rất đẹp mắt. Song có điều không phải do các thứ báu kết tụ thành. Dĩ nhiên, thân và tàn cây không cao lớn và sum suê mát mẻ như cây ở cõi Cực Lạc.

 

- Lầu báu (bảo lâu) các tòa lâu đài cũng do các thứ báu tạo thành. Những cung điện có rất nhiều từng. Dĩ nhiên, là sang trọng cao quý hơn ở cõi nầy rất nhiều. So với những cung điện, lầu các của các cõi trời ở cõi Dục giới, thì lâu đài, cung điện ở cõi Cực Lạc sang trọng đẹp đẽ hơn nhiều. Ngược lại, ở cõi nầy, cũng có các thứ lâu đài, cung điện nhiều từng, nhưng tất cả đều do nhơn tạo. Những vật liệu xây dựng, trang trí, không phải là các thứ báu, mà toàn là những thứ ô uế.

- Tòa sen báu (bảo tòa) Màu sắc rực rỡ đẹp lạ thường. Màu nào phát ra ánh sáng màu nấy. Phật, Bồ tát và các người dân ở cõi Cực Lạc đều ngồi trên tòa sen báu cả. Tòa sen có nhiều cỡ loại lớn nhỏ cao thấp khác nhau. Sự khác biệt nầy, tất cả đều do công đức niệm Phật tu hành sâu cạn của người ở cõi nầy mà có những tòa sen khác nhau. Ngược lại, cõi nầy cũng có các thứ tòa ngồi, nhưng không phải bằng sen báu mà là những loại gỗ, nệm v.v…

 

Ngoài ra, còn có những thứ khác nữa như lưới cũng bằng báu. Ở đây, cũng có lưới, nhưng lưới kết lại bằng dây nhợ.

 

Đến như các loài chim, như chim Khổng tước, chim Ca lăng tần già, chim Cọng mạng v.v… cũng đều do đức Phật A Di Đà biến hóa ra. Ngày đêm phát ra những tiếng pháp nhiệm mầu. Rồi đến gió thổi, suối reo, nước chảy, nhạc trời v.v… cũng đều phát thành tiếng nói pháp, ai nghe đến cũng đều phát khởi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Về cảnh vật, chúng tôi chỉ xin đơn cử lược bày đại khái như thế. Tất cả những cảnh vật nêu trên, ở cõi nầy cũng đều có. Nhưng chỉ khác nhau ở chỗ một đằng thì kết tụ bằng báu vật, một đằng thì không phải vật báu, mà toàn bằng những thứ xấu uế.

II. Khác nhau về đời sống của người dân

 

Sự sống của người dân ở cõi Cực Lạc như thế nào? Trong quyển Đường Về Cực Lạc, do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn có nêu ra, chúng tôi xin tóm lược đại khái như sau:

 

1. Khác nhau về thai sanh

 

Người sanh về cõi Cực Lạc là do thần thức gá vào hoa sen thành thai, nên gọi là thai sen hay liên hoa hóa sanh. Lấy hoa sen làm cha mẹ. (Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu). Khác hơn cõi nầy, thân người có ra là do nam nữ giao hợp và thần thức gá vào, đủ duyên kết hợp lại tạo thành thai bào, rồi đủ ngày tháng sanh ra. Nên gọi nam nữ là cha mẹ. Người sanh ra ở cõi Ta Bà là do nghiệp thức quá khứ dẫn thọ sanh. Tùy nghiệp báo thọ sanh.

 

2. Khác nhau về thân thể

 

Người sanh về Cực lạc, do liên hoa hóa sanh, nên thân hình của họ tất cả đều giống nhau. Người nào cũng có đủ 32 tướng tốt, không ai thua kém ai. Nhan sắc hình tướng tất cả đều như nhau. Ngược lại, người ở cõi nầy, vì tùy nghiệp thọ sanh, nên thân hình của mỗi người khi sanh ra đẹp xấu… có khác nhau. Nghĩa là xét về thân hình, thì có đẹp xấu, cao thấp, màu da, đen trắng, vàng xanh, mập ốm v.v… mỗi mỗi đều khác nhau. Trên gương mặt cũng không ai giống ai. Đã có thân, thì có trẻ, già, bệnh và cuối cùng là chết. Ngược lại, người sanh về Cực Lạc là do nghiệp Tịnh mà sanh, nên thân thể khác hơn ở cõi nầy.

 

 Nói tóm lại, thân thể cõi nầy là do duyên hợp mà có. Đã do duyên hợp nên mới có những sự khác biệt và các nỗi thống khổ. Ngược lại, người ở cõi Cực Lạc, vì do hoa sen báu sanh ra, nên thân hình của họ là thân kim cương bất hoại. Do đó, nên họ không có sự sai biệt về thân hình cũng như không có những nỗi khổ sanh, già, bệnh chết.(không có già nên không có nhà dưỡng lão. Không có bệnh nên không cần có bác sĩ, y tá, bệnh viện và thuốc men. Không có chết, nên không cần có quan tài, nhà quàn, nghĩa địa, lò thiêu và mồ mả. Khỏi phải tốn tiền chi phí cho những thứ nầy. Ở cõi nầy, khi sống, thì tốn tiền chi dụng đủ thứ, lúc chết cũng phải tốn tiền, mới thanh toán được cái thân xác hôi thúi. Thật là lắm phiền toái phức tạp). Thân tướng ai cũng như nấy, đồng xinh đẹp tướng hảo như nhau. Đó là sự khác biệt rất lớn về thân thể của hai thế giới Ta Bà và Cực Lạc.

 

 

III. Khác nhau về phần thọ dụng

 

1. Ăn mặc tùy ý thích

 

 Mọi cảnh vật ở cõi Cực Lạc do tự nhiên mà thành, tuyệt đối, không do ai tạo tác. Ăn mặc hưởng dụng tự nhiên, muốn như thế nào thì hiện ra như thế nấy. Các thứ vật dụng uống ăn, đều tùy ý của người thọ dụng mà hiện ra. Như dĩa, bát v.v… tất cả đều bằng châu báu. Thực phẩm đều thuần chất thơm ngon. Không có vấn đề bị nhiễm độc hay mất vệ sinh như ở cõi nầy. Ăn xong, mọi vật dụng đều tự biến mất. Không cần phải dọn rửa cất dẹp chi cả. Nên cõi Cực lạc không có Ban Trù Đường, Ban Hành Đường và cũng không có người công quả, xắt gọt, nấu nướng ở nhà bếp, nồi niêu soong chảo, mọi thứ lỉnh kỉnh như ở cõi nầy. Do đó, nên không có phiền toái tính toán về vấn đề ăn uống vệ sinh. Và cũng không có nạn chết vì ngộ độc ăn uống.

 

2. Tiêu hóa tự nhiên

Đã có ăn vào, tất nhiên phải có tiêu hóa. Như vậy, người ở cõi Cực Lạc có phải đi đại tiểu tiện như người ở cõi nầy hay không? Nếu có tiêu tiểu, tất nhiên, là phải có nhà cầu vệ sinh (toilet). Vậy nhà cầu vệ sinh bên đó như thế nào? Nếu không có đại tiểu tiện thì họ phải tiêu hóa ra sao?

 

Xin thưa, Sau khi ăn, “vật thực vào thân họ tự nhiên tiêu tan lần, hóa thành hơi thơm theo lỗ chưn lông tiết ra ngoài, không có cặn bã, tẩm bổ thân thể thêm sự khỏe mạnh, tâm được an vui như bậc vô lậu”. (Đường Về Cực Lạc, tr 77). Ngược lại, ở cõi nầy nếu mượn vô mà không trả ra, thì phải đến bác sĩ hoặc vào bệnh viện điều trị. Vì sinh lý người cõi Ta Bà và người cõi Cực Lạc sự cấu tạo khác nhau. Khác nhau từ lúc thọ thai. Điều khác biệt đó, cũng không có gì là lạ. Cho nên, người ở cõi nầy, bận rộn phiền toái đủ thứ về vấn đề ăn mặc. Ho lo lắng, tính toán, đua chen, tranh giành, cấu xé, hơn thua, quanh đi quẩn lại, suốt tháng quanh năm, khổ đau, đau khổ cũng chỉ vì ba cái thứ ăn, mặc, ở nầy. Còn ở cõi Cực Lạc, như trên đã nói, thật là sung sướng vô cùng. Cái gì cũng tự nhiên, cũng tùy ý hết. Muốn ăn, có ăn, muốn mặc, có mặc, không thiếu thốn thứ gì.

 

Có người thắc mắc: Nếu nói như vậy, thì người ở cõi Cực Lạc ai nấy đều lười biếng hết sao? Vì tối ngày không có làm gì hết. Cứ ăn không ngồi rồi, như thế, thì làm sao chịu nổi? Người nói như thế, là vì họ quen sống trong cảnh cơ cực lầm than vất vả ở cõi nầy. Tối ngày, họ làm đầu bù tóc rối kiếm sống mà không có đủ tiền bạc tiêu dùng. Đúng là cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm. Nói thế, khác nào như người nhà quê, nghe nói những người giàu có ở thành thị, nhà cao cửa rộng sang trọng, tiền kho bạc đụng, tối ngày họ ăn không ngồi rồi, không làm động tới móng tay, đời sống rất sung sướng, thì họ cho đó là hạng người lười biếng được hay sao? Hay tại vì người ta đang thụ hưởng cái phước báo giàu sang mà do người ta đã hết lòng tu tạo.

 

3. Điều kiện tất yếu để được vãng sanh

 

Người muốn sanh về Cực Lạc, không phải muốn về là về được. Cũng như người ở cõi nầy, không phải muốn giàu là giàu được. Tất cả đều phải nỗ lực tu tạo phước đức. Người nào muốn vãng sanh về Cực Lạc, thì Phật Tổ thường khuyên dạy, phải bền tâm chí thành niệm Phật và tu tạo các nghiệp phước lành. Đồng thời, phải Tin sâu, Nguyện thiết, và Hành chuyên, nghĩa là phải hội đủ ba món tư lương, tâm niệm hằng luôn mong mỏi nguyện sanh về cõi đó. Được thế, thì mới kỳ vọng vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

 

IV. Khác nhau về tâm tánh và thần thông

 

1. Tâm tánh thuần thiện

 

Người ở cõi Cực Lạc, tất cả đều có trí huệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Vì tâm tánh của họ thuần thiện, không bao giờ khởi niệm nghĩ ác hay sai trái, nên lúc nào họ cũng phát ra lời nói hiền lành và đúng với chánh pháp. Họ tinh cần tu học, thường xuyên nghe pháp, không có một niệm phóng vật, nên lòng họ rất an định.

 

2. Thần thông tự tại

 

Mỗi người đều có ngũ thông. Ngũ thông là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông và thần túc thông. Họ không có lậu tận thông. Vì họ chưa dứt sạch hết phiền não lậu hoặc.

 

Ngược lại, người ở cõi Ta Bà nầy, thì lắm điều triền phược, thiếu trí huệ sáng suốt, tâm trí luôn u mê. Do sống trong vô minh vọng nghiệp, nên ý nghĩ, lời nói, hành động của họ thảy đều bất thiện. Ít khi, họ nói lời đạo đức xây dựng, phần nhiều hay nói những lời hung ác phá hoại. Tâm ý thì buông lung tạo nghiệp ác, nên họ thích sống phóng thể trụy lạc sa đọa. Đã thế, thì làm gì họ có được thần thông. Thần thông của cõi nầy là do nhân tạo. Như những thứ vận chuyển: tàu thuyền, máy bay, điện thoại, máy vi tính điện tử v.v… Đó là những thứ thần thông hiện đại của nhơn loại ở cõi Ta Bà.

V. Khác nhau về công việc thường ngày

 

1. Cúng dường chư Phật

 

Người ở cõi Cực Lạc, mỗi sáng sớm, họ thường mang hoa báu đến cúng dường bổn Phật (Phật Di Đà) và thập phương chư Phật. Ngoài ra, do nương thần lực của đức Phật Di Đà, họ muốn cúng dường các thứ vật báu khác đều được toại nguyện cả. Họ cũng dùng âm thanh vi diệu xưng tán ca tụng công đức của chư Phật. Cúng dường nghe pháp xong, bỗng nhiên, họ cảm thấy thân thể rất nhẹ nhàng bay về bổn quốc vẫn còn trước giờ ăn trưa.

 

2. Thọ thực kinh hành và tịnh niệm

 

Sau giờ thọ trai, họ đi kinh hành tư duy diệu pháp, hoặc niệm Phật, Pháp và Tăng. Xong rồi, chiều lại, tất cả đều nghe giảng kinh thuyết pháp, hoặc trên đất liền hoặc ở hư không. Sau đó, mỗi người tham thiền nhập định, hoặc đi thiền hành tùy ý. Do sống trong khung cảnh đầy thắng diệu như thế, nên ai nấy đều nỗ lực tu hành. Do đó, mà họ tu học tiến bộ rất nhanh.

 

Xét về điểm nầy, người tu học ở cõi Ta bà, cũng có những điểm giống nhau, ít ra là giống nhau trên hình thức. Ở đây, chúng ta cũng thọ trai, kinh hành niệm Phật, cũng dâng hoa cúng Phật, (nhưng chỉ cúng Phật tượng chớ không phải Phật thiệt). Chúng ta cũng có những buổi giảng pháp, nghe Kinh và pháp đàm, hoặc thiền trà… Nghe xong, chúng ta cũng có những giờ tọa thiền, hoặc thiền hành.

 

Đạo tràng chúng ta trong mỗi khóa tu, cũng có tổ chức những buổi thắp nến niệm Phật. Mỗi hai tuần, chúng ta cũng có những ngày tu học thọ bát chung. Nhứt là những khóa tu Kết Kỳ Niệm Phật, chúng ta cùng tu học sinh hoạt trong đạo tràng suốt bảy ngày. Nhờ những lúc tu học, sinh hoạt chung như thế, mà sự tu học của chúng ta có thêm phần tiến bộ. Tuy tinh thần tu học của chúng ta không bằng người ở cõi Cực Lạc, nhưng chúng ta quyết chí cố gắng tạo cho mình có những thắng duyên để cùng nhau nhịp nhàng tiến bước. Nghĩa là, chúng ta cùng nhau tiến bước về mặt hành trì trên phần sự tướng cũng như gạn lọc phiền não nội tâm. Cả hai, đều phải tận lực song hành.

 

3. Tịnh độ hiện thực

 

Đó là những đặc điểm mà chúng ta không khác mấy ở cõi Cực lạc. Còn về phần tâm tánh, nếu chúng ta nhiếp tâm tha thiết niệm Phật, thì những giây phút đó là chúng ta đang ngồi ở cõi Cực lạc rồi. Lý do tại sao? Tại vì những lúc đó tâm ta thật sự an lạc, không khổ. Mà an lạc không có khổ, thì đó là Cực lạc. “Vì cõi Cực lạc không có những điều khổ mà chỉ thuần có những điều vui”. Vậy, lúc nào tâm ta thật vui thì lúc đó ta đang ở Cực lạc. Theo ý nghĩa đó, ta cũng có thể tạo cho ta có Cực lạc ở tại nơi đây. Khi tâm ta thanh tịnh, thì dù ta ngồi ở đâu, thì nơi đó cũng là cõi Cực lạc cả.

 

Nhưng chỉ ngồi ở Cực lạc trong từng phút giây thôi, chớ chưa phải trọn đời. Vì vậy, chúng ta cố gắng tu hành, thành tâm niệm Phật, càng kéo dài thời gian ra chừng nào, thì ta có Cực lạc dài chừng nấy. Đó là một kinh nghiệm hiện thực, chớ không phải nói ngoa. Chúng ta cứ nỗ lực gia công hành trì, thì chúng ta sẽ chứng nghiệm cảm nhận cõi Cực lạc hiện đời ngay.

 

VI. Khác Nhau về Đức Vị

 

1. Nhứt sanh bổ xứ

 

Người sanh về cõi Cực lạc được cái thắng duyên là không bao giờ thối chuyển, chỉ có một bề tiến tu cho đến khi thành Phật. Trong kinh nói, chỉ một đời thành Phật. Nhưng một đời ở cõi Cực lạc, chúng ta không biết là bao lâu. Vì con người không có sanh, già, bệnh, chết. Đó là một thắng duyên hy hữu mà cõi nầy không có.

 

Sau khi đạt thành quả vị cứu cánh giải thoát, chừng đó, họ tùy duyên mà phân thân các nơi để cứu độ chúng sanh. Nơi nào chúng sanh khổ, thì họ đến cứu độ. Khác nào như ánh sáng mặt trời chiếu khắp mọi nơi. Đó là một nguyện lực rộng lớn vô biên. Họ làm với tất cả tấm lòng bi nguyện hỷ xả, không bao giờ biết mỏi mệt. Đó là một hạnh nguyện vị tha thật cao cả tuyệt vời. Một hạnh nguyện độ sanh không bao giờ thối chuyển.

 

Ngược lại, người tu hành ở cõi nầy, vì chưa đạt được giải thoát, nên sự tu hành khi tiến, khi thối bất thường, sự tinh tấn rất yếu kém. Có khi, vì một nghịch duyên nào đó, cũng dễ thối thất bồ đề tâm. Sự tiến tu đạo nghiệp, thật khó khăn vô cùng!

 

2. Thắng duyên kỳ diệu

 

Cõi Cực lạc cảnh duyên trang nghiêm thanh tịnh, gần gũi các bậc toàn là thượng thiện nhơn, ngày đêm thức nhắc tu hành, chỉ giúp tăng thêm đạo hạnh, cho nên khó mà thối chuyển. Theo Ngài Trí Giả Đại Sư, thì ở cõi Cực Lạc có 7 duyên lành làm cho người ta luôn mãi thăng tiến. Bảy duyên lành đó là:

 

1. Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp trì. Như ở trên tàu to không bị sóng nhồi nước đắm.

 

2. Quang minh của Phật thường chiếu đến thân, làm cho bồ đề tâm tăng tấn. Như được ánh sáng mặt trời, khỏi sa hầm sụp hố.

 

3. Thường gần gũi Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, chư đại Bồ tát, được Bồ tát dắt dìu gia hộ, mọi người ở quanh mình đều thuần là bực thượng thiện, không tà sư ác hữu, như gần đèn được sáng.

 

4. Nước, chim, cây, lưới, gió nhạc, quang minh v.v…đều luôn diễn nói pháp mầu. Tai nghe tiếng pháp thời tâm liền thanh tịnh.

 

5. Đồ ăn thức uống, nước tắm rửa đều làm thêm lớn thiện căn.

 

6. Tâm ý trọn không kiến chấp vọng duyên, không ác niệm phiền não, chánh niệm thường hiện tiền.

 

7. Thân thể lại là kim cương bất hoại. Không già yếu, không tật bệnh, sống lâu vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp. Không bị già bệnh làm trở ngại công phu. Khỏi phải vô thường làm gián đoạn đạo hạnh.

 

Đủ các thắng duyên như trên thời có thể nào thối thất đạo tâm mà không quyết định thành Phật!

 

Tóm lại, qua những điểm dị đồng giữa cõi Ta Bà và Cực Lạc mà chúng tôi y cứ vào quyển Đường Về Cực Lạc của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh tạm nêu ra sáu điểm khác biệt. Đa phần đều khác biệt. Khác biệt ngay từ cái tên gọi của nó. Từ đó, cho chúng ta thấy, một cõi thuần vui, một cõi thuần khổ. Tuy nhiên, nếu nói theo Chân đế, thì cõi nầy cũng không hẳn là thuần khổ. Thuần khổ, là đối với những ai còn sống trong vòng vô minh nghiệp thức. Ngược lại, đối với những người giác ngộ, thì cõi nầy cũng là Cực lạc. Cho nên chúng ta không thể nói quyết định một chiều được.

 

Thế nhưng, số người thực sự giác ngộ, tâm họ luôn luôn an tịnh, thử hỏi thời mạt pháp nầy có được mấy người? Đối với những bậc thượng căn thượng trí, thì chúng ta không dám luận bàn đến. Chỉ bàn đến là đối với bậc Trung và Hạ căn. Đối với những hạng người nầy, theo tôi, thì chúng ta nên dốc chí niệm Phật cầu sanh về cảnh giới Cực lạc. Vì cõi Cực lạc có đầy đủ thắng duyên hơn cõi nầy rất nhiều. Phải nói là quá siêu việt tuyệt vời. So với cõi nầy mà chúng ta đang sống, thì thật là lắm phiền toái chướng duyên.

 

Nội tâm thì luôn luôn bị phiền não thiêu đốt làm rối loạn bất an. Ngoại cảnh, thì luôn luôn xáo trộn, biến loạn. Lớp thì bị thiên tai giáng xuống họa hại, rồi đến nhơn tai khủng bố đe dọa hằng ngày. Mỗi ngày nhơn loại sống trong hồi hộp, phập phòng, lo âu, sợ hãi đủ thứ. Thế thì, từ con người cho đến cảnh vật, không lúc nào yên cả. Bởi thế, nên Phật nói, cõi nầy là Ngũ trược ác thế. Khổ khổ chất chồng, trong lòng không lúc nào an vui.

 

Chỉ có cõi Cực lạc mới là nơi an thân lập mệnh của chúng ta. Cực lạc mới chính là đích thực quê hương của chúng ta để gởi thân về đó. Vậy, chúng ta còn chần chờ ngần ngại gì nữa mà không tiến bước. Chỉ cần chúng ta hội đủ ba yếu tố: “Tín, Hành, Nguyện” là chúng ta có đủ tư lương để về Cực lạc rồi. Chúng ta nguyện kết duyên làm người bạn sen trong muôn thuở. Mong lắm thay!

 

 

 

 

 

 

Cẩm Nang Tu Tập

(Đặc biệt cho khóa tu)

 

Lời đầu tập

Biên soạn tập cẩm nang tu tập nầy, chúng tôi nhắm thẳng vào khóa tu. Mục đích là để cho quý liên hữu dự tu biết rõ thêm về ý nghĩa và cách thức hành trì qua những vấn đề quan trọng trong chương trình của khóa tu. Đồng thời, chúng tôi cũng muốn cho quý liên hữu trong đạo tràng, dù thiếu nhân duyên không đến dự tu được, cũng nên biết qua để tự hành trì lấy. Bất cứ việc làm nào dù nhỏ hay lớn, nếu chúng ta không hiểu rõ mục đích, thì sự hành trì của chúng ta dễ bị sai lệch. Do đó, chúng tôi cố gắng biên soạn tập cẩm nang nầy. Mặc dù không được đầy đủ ý nghĩa cho lắm, nhưng chúng tôi thiết nghĩ, nếu quý liên hữu chịu khó đọc cho thật kỹ và nghiền ngẫm cho thật thấu đáo, thì cũng đủ giúp cho quý vị hành trì đúng pháp và sẽ được lợi lạc rất nhiều. Mong sao tập sách nhỏ nầy sẽ luôn ở bên mình quý vị. Quý vị hãy coi nó như là một người bạn đồng hành chí thân luôn ở bên cạnh để thức nhắc quý vị.

Hiểu rõ là một điều rất tốt. Nhưng điều quan trọng là phải thật hành. Khi thật hành có điều gì không rõ hay bị trở ngại, xin quý vị đừng ngần ngại cứ trực tiếp hỏi chúng tôi. Chúng tôi sẽ sẵn sàng trao đổi chỉ dẫn thêm cho.

Chúng tôi xin nói rõ thêm, qua các vấn đề mà chúng tôi đã nêu trong tập sách. Về phần nghi thức, chúng tôi chỉ đề cập sơ qua. Vì chúng tôi nghĩ, đa số quý liên hữu ít nhiều đều biết qua. Chúng tôi chỉ chú trọng nói lên phần ý nghĩa của sự thật hành mà thôi. Kể từ khóa tu nầy trở đi, chúng tôi quyết định tập trung vào sự hướng dẫn thật hành nhiều hơn là lý thuyết. Vì phần lý thuyết, chúng ta cũng đã học qua nhiều và mỗi tuần chúng ta cũng đều có nghe quý thầy giảng dạy.Thật ra, Kinh điển của Phật dạy, chúng ta học hỏi không biết bao giờ cùng. Nên mỗi khóa tu là những cơ hội rất tốt để chúng ta dốc hết tâm lực tập trung vào việc hành trì. Dù có nói, cũng nói trong sự hướng dẫn thật hành. Đó là chủ đích chính của chúng tôi khi biên soạn tập sách nhỏ nầy.

Lời sau cùng, chúng tôi chân thành cám ơn quý vị đã lưu tâm đọc kỹ tập sách nầy. Sau khi đọc qua, kính chúc quý vị sẽ gặt hái nhiều kết quả mà những gì sách nầy nhằm trao đổi hướng dẫn quý vị.

Trân trọng kính chào toàn thể quý vị .

Kính chúc mỗi người sẽ đạt được nhiều thành quả tốt đẹp trong khóa tu.

Trân trọng.

T.M Ban Điều Hành.

Thích Phước Thái

 

Đạo Tràng

 

Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng bắt đầu sinh hoạt trở lại vào ngày 10/11/ 1998. Trụ sở sinh hoạt của đạo tràng là chùa Quang Minh. Mục đích của đạo tràng là lấy việc niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc làm tôn chỉ. Đạo tràng có Nội Quy làm tiêu chuẩn để sinh hoạt. Đạo tràng đặt dưới sự chứng minh và chỉ đạo của Hòa Thượng Liên Trưởng. Đây là một tổ chức chuyên tu, không đặt nặng về vấn đề sinh hoạt hành chánh. Tuy nhiên, vì muốn cho việc điều hành liên lạc được dễ dàng, nên đạo tràng có cử ra hai ban: Ban Điều Hành và Ban Lãnh Chúng. Đạo tràng gồm có 5 chúng. Mỗi chúng lấy tên của một vị Tổ Liên Tông mà đặt tên. Tên gọi của 5 chúng như sau: Huệ Viễn, Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Diên Thọ và Châu Hoằng. Mỗi chúng đều có phù hiệu riêng. Điều hành mỗi chúng gồm có một Chúng Trưởng và hai Chúng Phó. Trên có Ban Lãnh Chúng gồm một Liên Chúng Trưởng và hai Liên Chúng Phó. Trên Ban Lãnh Chúng có ban Điều Hành. Một Ban Điều Hành gồm có: Trưởng Ban, 2 Phó Ban. Một Chánh Thơ Ký và 3 Phó Thơ Ký cùng 2 vị Phụ Tá văn phòng và một Thủ Quỹ. Số liên viên của mỗi chúng hiện nay trên 40 vị. Ngoài những liên viên chánh thức ra, còn có những liên viên danh dự. Tổng số chúng chánh thức hiện nay (2011) khoảng gần 250 vị.

 

Về sinh hoạt chung của đạo tràng gồm có:

- Thọ Bát định kỳ 2 tuần một lần, mỗi lần sĩ số liên hữu đến thọ có trên trăm vị. Ngoài ra, một số liên hữu đến chùa thọ Bát vào ngày thứ bảy cũng 2 tuần một lần, mỗi lần sĩ số trên dưới khoảng 30 vị.

- Kiểm công cứ và sinh nhật hằng tháng.

- Tổ chức thăm viếng những liên hữu bị bệnh tại tư gia hoặc ở bệnh viện.

- Hằng năm, đều có tổ chức khóa tu Kết Kỳ Niệm Phật 3 lần (sẽ nói rõ phần sau).

- Hằng năm, đều có tổ chức Lễ Trai Tăng vào dịp Đại Lễ Vu Lan rằm tháng Bảy.

- Lễ rước vía Đức Phật A Di Đà vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hằng năm. Có tổ chức lễ hoa đăng và 2 ngày thọ Bát.

- Tổ chức lễ trai tăng chung thất 49 ngày, do Ban Tương Trợ thực hiện.

- Tổ chức Đại Hội vào dịp holiday hằng năm. Có chiếu phim và văn nghệ.

- Tổ chức liên hoan, có văn nghệ và sớ Táo Quân.

- Tổ chức và điều khiển chương trình lễ tang cho mỗi liên hữu khi đã vãng sanh, có quay phim lưu niệm.

- Lễ kỳ siêu chung cho quý liên hữu đã vãng sanh vào mỗi khóa tu Báo Ân.

- Lễ chúc thọ hằng năm cho quý liên hữu tuổi từ 80 trở lên.

- Hằng năm đều có 2 kỳ đi sinh hoạt ngoài trời một kỳ đi xa và một kỳ đi gần.

 

Trên đây, là những nét chính mà đạo tràng hiện đã và đang sinh hoạt. Ngoài ra, còn nhiều chi tiết linh tinh khác mà chúng tôi không thể kể ra hết được.

 

Khóa Tu

 

Hằng năm, đạo tràng có tổ chức 3 khóa tu. Mỗi khóa tu là 7 ngày.Tên gọi của khóa tu là “Kết Kỳ Niệm Phật”. Kết kỳ nghĩa là giới hạn thời gian (chữ kỳ là kỳ hạn tức chỉ cho thời gian) không nhứt định. Hành giả chuyên tu, tùy theo mỗi cá nhân và hoàn cảnh mà có sự phát nguyện kiết thất hay đả thất không giống nhau. Sự kiết thất chuyên tu định kỳ hay bất thường là tùy theo mỗi cá nhân và mỗi đạo tràng.

 

Đạo tràng Quang Minh trong thời gian qua đã tổ chức được 6 kỳ. Số lượng tu sinh dự tu qua mỗi kỳ không dưới một trăm. Thời gian tổ chức trong năm vào những dịp: lễ Easter vào khoảng đầu tháng tư. Đây là khóa tu đầu. Khóa thứ hai vào dịp Đại Lễ Vu Lan, thường tổ chức trước ngày Đại Lễ chánh thức hai tuần. Khóa tu nầy cũng còn gọi là khóa tu Báo Ân. Khóa 3 được tổ chức vào dịp holiday cuối năm. Về thời gian ấn định cho mỗi khóa tu chưa quyết định hẳn. Thông thường sẽ thông báo cho quý liên hữu biết trước thời gian tổ chức ít nhứt là một tháng. Những khóa tu nầy đặt nặng chuyên hành trì niệm Phật hơn là lý thuyết. Cho nên, việc diễn giảng sẽ không có thường xuyên trong suốt thời gian khóa tu. Về chương trình hướng dẫn khóa tu mỗi kỳ đều có soạn sẵn. Tuy nhiên, có đôi khi cũng thêm bớt chút ít.

 

Người dự tu, đặc biệt là ưu tiên cho quý liên hữu của đạo tràng, ngoài ra bất cứ Phật tử nào cũng có thể xin dự tu. Khóa tu nầy, phần lớn chỉ thích hợp cho người trọng tuổi, còn đối với các em tuổi còn quá trẻ thì không mấy thích hợp lắm. Do đó, Ban Tổ Chức sẽ không nhận các em tuổi còn quá nhỏ.

Trọng tâm của khóa tu là chuyên lễ bái trì danh kinh hành niệm Phật. Ngoài ra, các tu sinh còn được hướng dẫn qua các lễ nghi hành trì khác. Mọi việc hành trì đều nhắm thẳng vào một mục tiêu chính là làm sao cho mỗi tu sinh cố gắng chuyên cần niệm Phật sớm đạt được “Nhứt Tâm Bất Loạn”. Đó là mục đích chính và cũng là tôn chỉ của khóa tu.

Thọ Giới

 

Người tu hành dù xuất gia hay tại gia, nếu thiếu sự hành trì giới luật, thì chẳng khác nào như ngựa không giây cương. Ngựa không giây cương, thì không có gì kềm thúc, nên tha hồ rong chạy tứ tung. Đã thế, thì tránh sao khỏi tai hại. Giới luật của Phật chế ra, để người Phật tử giữ gìn. Giới luật là những điều ngăn cấm những việc làm phi pháp sái quấy. Cho nên giới, nguyên tiếng Phạn là “Thi la” Trung Hoa dịch là Giới, nó có nghĩa là “phòng phi chỉ ác”. Phòng phi là ngăn ngừa những điều sái quấy; chỉ ác là dừng những ác nghiệp gây ra. Người tu hành có nghiêm trì giới luật, thì mới khắc phục chính mình và cảm hóa kẻ khác. Thế nên, sự tu hành muốn được thân tâm an lạc, thì trước tiên phải thọ trì giới luật.

 

Trong Giới Sớ nói: “Giới luật hay giúp phòng ngừa, ngăn đoạn phiền não phát sanh; thường phải nương theo mà thực hành như là cầm gậy khi tranh đấu, thì mới mong dạo chơi trong cảnh trần mà không bị các thứ phiền não xâm lăng”.

 

Có giữ giới thì 3 nghiệp mới thanh tịnh. Giới luật là căn bản của đạo giải thoát. Thế nên, người đến dự khóa tu, trước hết cần phải lãnh thọ giới pháp, do quý thầy truyền trao, rồi sau đó cố gắng gìn giữ đúng theo những giới mà mình đã lãnh thọ. Có thế, thì sự tu hành trong bảy ngày mới có lợi ích lớn. Suốt trong thời gian dự tu 7 ngày, quý tu sinh sẽ nhận 8 giới, như thọ giới bát quan trai vậy. Thọ bát quan trai giới có nghĩa là đóng bít 8 cánh cửa tội lỗi. Nói gọn là mỗi người tự gìn giữ ở nơi 3 ngiệp: Thân, miệng, ý của mình một cách thật cẩn thận, đừng để sai phạm. Được vậy, thì sự thọ giới của ta mới có ích lợi và tâm ta mới được an lạc. Do đó, quý vị dự tu chánh thức ở lại đạo tràng, dù thời gian trọn 7 ngày hay ít hơn, cũng được xem như là người đang tu hạnh xuất gia. Sự thọ giới hành trì trong thời gian 7 ngày nầy, công đức thật lớn lao. Mong sao mỗi người nên ý thức gìn giữ. Nếu không, thì sẽ mang trọng tôi với chính mình.

 

Chánh Niệm

Chánh niệm là cột trụ, là cốt tủy trong đạo Phật. Chánh niệm rất thiết yếu đối với người Phật tử. Nó thiết yếu như hơi thở và mạng sống. Dù chúng ta tu theo bất cứ pháp môn nào, điều tiên quyết là phải thực tập cho mình có chánh niệm. Chánh niệm quan trọng giống như người gác cổng. Kẻ gác cổng không thể thờ ơ đối với kẻ ra người vào. Nhứt là đối với kẻ lạ mặt. Người gác cổng thận trọng là phải luôn đề cao cảnh giác. Nếu không, thì kẻ lạ mặt hay kẻ trộm cướp vào nhà lấy hết của báu. Cũng thế, đối với người tu phải luôn có chánh niệm. Phải luôn đề cao cảnh giác qua mọi lời nói và việc làm. Người có chánh niệm, khi tâm ta khởi nghĩ điều gì là ta biết rất rõ. Ngược lại, nếu ta thiếu chánh niệm, hay thất niệm, thì tâm ta luôn luôn bất an và sự khổ, bức bách sẽ kéo đến ngay.

 

Thế nên, trong suốt thời gian dự tu, các tu sinh cần phải thực tập gìn giữ chánh niệm trong mọi thời gian và nơi chốn. Một tu sinh dự tu, phải cố gắng giữ gìn cẩn thận 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi cho thật tề chỉnh. Muốn được thế, thì cần phải có chánh niệm. Vì chánh niệm là năng lượng giúp ta nhận diện rõ ràng những gì đang xảy ra cho ta và những người chung quanh. Khi năng lượng ấy có mặt, thì thân và tâm ta sẽ có mặt ngay và khi ấy, ta mới thật sự đang sống trong giây phút hiện tại, một giây phút thật là mầu nhiệm vô cùng. Ta phải cố gắng thường xuyên tập cho kỳ được trong thời gian dự tu. Xin nhấn mạnh để các tu sinh quan tâm ghi nhớ: Chánh niệm là kim chỉ nam cho khóa tu. Mất chánh niệm, thì sự tu hành của chúng ta khó được an lạc, giải thoát.

 

Bớt Nói Chuyện

 

Ai ơi! Xin chớ nói nhiều

Để tâm niệm Phật muôn điều an vui

Khổ nhiều cũng tại cái tôi

Nhiều lời lắm chuyện hao hơi thêm phiền

Muốn cho tâm được bình yên

Miệng thời ít nói là Tiên trên đời.

 

Nói nhiều là một tập khí khó bỏ. Người khéo biết tu, càng ít nói nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy. Nói chuyện nhiều trong khóa tu, có nhiều điều bất lợi. Bản thân mình chẳng những không lợi ích mà còn gây ra cho người khác khó chịu. Vì nói chuyện nhiều sẽ làm động chúng. Tâm mình bất an, gây tâm người khác cũng bất an. Đây là một trọng tội.

 

Người nào có tật nói nhiều, khi dự tu nên bỏ bớt. Khi thốt ra lời, phải có chánh niệm ngay. Có chánh niệm là mình biết mình đang nói gì. Và điều mình nói đó có lợi hay hại. Có làm tổn thương cho mình và người khác hay không. Người có tật già hàm, thật là khó tu.

 

Người xưa nói: “Đa ngôn thì loạn ngữ”. Thật vậy, nói nhiều quá, mình không kiểm soát được lời mình nói, nên dễ gây ra lắm chuyện không vui. Người đối diện nghe mình nói huyên thuyên câu chuyện không đầu đuôi, họ cũng đâm ra bực mình và phát chán. Thật họ khó chịu vô cùng. Tuy họ không nói ra, sợ mình buồn giận, nhưng thật lòng, thì họ cũng không bao giờ thích muốn nghe. Người có tật già hàm, ham nói nhiều, sợ người khác dành nói hết, nên họ chỉ muốn nói một mình thôi. Họ nói huyên thuyên, không để cho người khác hé môi, hở miệng. Thật đây là một tật xấu và tối kỵ cho người biết tu hành. Nhứt là trong một tập thể đang tu. Ai vướng phải tật bệnh nầy, chư Tổ khuyên nên bỏ bớt. Người tu cần giữ tâm cho thanh tịnh. Nói nhiều làm sao tâm thanh tịnh cho được.

 

Chư Tổ khuyên chúng ta: “Bớt nói nhiều câu chuyện, niệm nhiều câu Phật”. Có thế, thì mình và người đều được an lạc. Đây là điều tối hệ trọng và cũng là điều tối kỵ trong khóa tu. Xin tất cả hãy giữ gìn cẩn thận. Vì ý thức sự tu hành, bởi ham tu nên mình mới đến đạo tràng để dự tu. Do đó, mình càng bớt nói chừng nào thì tốt cho mình chừng nấy. Nếu phải nói, thì ta nên nói những lời chánh ngữ và ái ngữ. Tục ngữ có câu:

 

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,

Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

Hay:

Lời nói không mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

 

Không nên vì lời nói của mình mà làm cho kẻ khác mất vui. Và mình sẽ bị tổn đức. Kính mong tất cả hãy tự trọng chính mình và tôn trọng khóa tu, mà giữ gìn cẩn thận khi phát ngôn.

 

Vào Điện Phật

 

Bước vào trong Phật Điện

Thân ý giữ nghiêm trang

Xin nguyền không nói chuyện

Quy kính hướng tâm thiền.

 

Chánh điện là nơi tôn nghiêm thờ Phật. Là Phật tử ta phải hết lòng kính trọng Phật. Khi dự tu, mỗi khi bước vào trong Chánh điện, ta phải giữ thân tâm cho trang nghiêm. Thân phải tề chỉnh, khi đi tới lui hay ngồi xuống. Còn tâm phải có chánh niệm, chánh quán, tức đừng để cho con khỉ ý thức chạy rong. Ta phải nhiếp tâm thành ý niệm Phật. Điều tối kỵ là nói chuyện nhỏ to trong Chánh điện. Khi cần nói, ta nên mời người bạn mà ta muốn nói ra ngoài. Khi nói xong câu chuyện cần thiết, thì ta mới trở vào trong Chánh điện.

 

Mỗi người hãy tự ý thức giữ gìn cho Chánh điện được trang nghiêm. Đừng biến chỗ tôn nghiêm, trở thành nơi chợ búa. Thế là ta mang tội rất lớn. Tội là vì ta không kính Phật và cũng không giữ đúng quy luật. Đến tu là ta đã ý thức và tự dặn lòng mình, nên bòn mót thêm phước đức, chớ không nên gây thêm tội lỗi. Bất cứ liên hữu, Phật tử nào, khi đến dự tu cũng đều có mang tâm niệm đó. Thế thì tại sao ta không chịu gìn giữ tâm niệm rất tốt đẹp ban đầu đó. Đó là một tâm niệm, một ý nguyện thật trong sáng và đáng kính biết bao! Mong sao tất cả chúng ta ai nấy cũng đều nhớ đến tâm nguyện của mình là một tu sinh, cần phải gìn giữ nghiêm túc những gì mà bản Nội Quy đã nhắc nhở chúng ta.

 

 Mỗi người phải là một bản nội quy sống. Hãy biến những nhận thức của mình thành hành động cụ thể. Ý thức đến sự vô thường, cái chết gần kề, nó xảy ra cho ta bất cứ lúc nào, nên ngay bây giờ ta còn sống được phút giây nào, thì ta nên tiếc nuối phút giây đó mà gắng lo tu niệm. Hãy dành hết tất cả thời gian cho sự tu hành của ta. Có thế, thì ta mới thật sự là tự biết thương mình. Ta phải hết lòng quy kính và tự trọng để hướng về nội tâm của ta mà lo dẹp trừ phiền não. Được như vậy, thì thân tâm ta mới thật sự an lạc. Và những ngày dự tu của ta mới không luống uổng, vô bổ! Mong lắm thay!

 

 

 

 

 

 

Lễ Bái Trì Danh

Kinh Hành - Niệm Phật

 

Về chùa lễ bái trì danh

Kinh hành niệm Phật chí thành chuyên tu

Việc đời rối rắm lu bu

Về chùa tu niệm hết ưu não phiền.

Gieo trồng hạt giống Tịnh liên

Sâu dầy vững chắc vui miền Lạc bang.

 

 

• Lễ Bái

 

Pháp tu nầy, về cách thức hành trì, thì đa số liên hữu đã biết và thật hành qua. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nói rõ thêm về sự lợi ích của pháp tu nầy trong khi chúng ta thật hành. Trước hết, là nói về lễ bái.

 

Lễ bái là một hình thức được biểu lộ bên ngoài. Khi lễ bái cần phải có sự cung kính. Cung kính là từ trong tâm ta phát hiện ra. Trong mười hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, nguyện đầu tiên là Lễ kỉnh chư Phật. (Nhứt giả lễ kỉnh chư Phật). Đây là một động tác vừa có lợi cho thân mà cũng vừa có lợi cho tâm. Vì khi đứng lên lạy xuống, có sự vận động cho thân, máu huyết được lưu thông đều đặn, nên rất có lợi cho sức khỏe. Trừ những vị nào bị bệnh áp huyết cao, thì không nên lạy nhiều và khi lạy phải hết sức cẩn thận.

 

Phương pháp lễ bái nầy, nó rất phù hợp với y học. Quý vị nào muốn biết rõ hơn về sự ích lợi của pháp môn lễ bái nầy, xin đọc quyển: Bái Phật Và Y Học, do Đạo Chứng Pháp Sư biên thuật, Tâm Tịnh và Phan Thế Hùng Anh chuyển dịch Việt ngữ.

 

 Ngoài sự lợi ích về sức khỏe cho thân ra, nó còn rất lợi ích cho tâm và nhứt là tiêu trừ được nghiệp chướng lâu đời. Đây cũng là biểu lộ cách sám hối tội lỗi mà chúng ta đã gây tạo. Nên khi lễ bái chúng ta phải chí thành tha thiết. Lễ bái không có nghĩa là van xin cầu khẩn ở nơi Phật, Bồ tát để được các Ngài ban ân giáng phước cho ta, mà lễ bái với một tâm thành tha thiết cung kính để hạ mình dẹp trừ ngã mạn.

 

Khi lễ bái, hành giả phải cẩn thận chú ý đến phần oai nghi. Thân phải đứng nghiêm trang tề chỉnh. Phải đứng ngay thẳng và thầm nhớ bài kệ:

 

Giữ thân như tường vách

Thế đứng sư tử vương

Thân tâm cùng hợp nhất

Tự tại thể chơn thường.

 

Khi lạy xuống phải thật nhẹ nhàng, không nên lụp chụp lẹ làng. Phải ứng dụng đúng theo phương pháp: « Ngũ thể đầu địa ». Nghĩa là đầu mặt và tay chân phải sát đất. Chữ “tiếp túc” có nghĩa là chạm xúc chân Phật. Đây là một tục lệ của người Phật tử Ấn Độ lạy Phật khi xưa. Cho nên khi lạy hai bàn tay ta để úp xuống. Khi đứng lên cũng phải thật chậm rãi và nhẹ nhàng. Khi xá phải từ từ và thật sâu. Pháp lễ bái nầy, nó còn trừ được một chứng bệnh nặng nề nhứt của người tu đó là bệnh hôn trầm. Hôn trầm là ngủ gục là đi vào hôn mê tối tăm. Trong Kinh thường gọi trạng thái nầy là rơi vào hang quỷ. Bệnh nầy rất trở ngại cho sự tu hành của chúng ta.

 

Khi lạy xuống, tâm ta còn theo dõi câu hiệu Phật của các bạn đồng tu cùng niệm, như thế, thì làm sao ta có thể hôn trầm cho được. Sở dĩ chúng tôi cho ứng dụng thực tập, khi lạy xuống hành giả còn phải để tâm theo dõi câu hiệu Phật của những người khác đang niệm, mục đích là để trừ cái bệnh tán loạn của tâm. Vì chú ý theo dõi câu hiệu Phật, nên tâm ta không nghĩ gì khác. Nhờ thế, mà thân và tâm được hợp nhứt. Có hợp nhứt là có chánh niệm và an lạc. Đó là nói sơ lược về sự ích lợi của lễ bái.

 

Khi nhóm A xướng danh hiệu đức Phật A Di Đà lễ lạy, thì nhóm B ngồi niệm Phật. Đây là chúng ta ứng dụng gọi là lễ bái trì danh. Thay vì cá nhân lễ bái trì danh, thì chúng ta lại áp dụng cho tập thể. Phương pháp trì danh niệm Phật nầy, ta cần phải hiểu cho thật rõ trong khi hành trì. Trước hết, nói về tư thế ngồi. Khi ngồi xuống, ta liền thầm niệm bài kệ:

 

Bồ đoàn ngồi thảnh thơi

Không bận tâm việc đời

Chỉ chuyên lòng niệm Phật

Trí huệ chiếu sáng ngời.

 

• Ngồi niệm Phật

 

Tư thế ngồi, có 2 cách: Kiết già hoặc bán già. Kiết già hay còn gọi là Toàn già, đây là kiểu ngồi hình hoa sen. Cách ngồi nầy, được cái lợi là xương sống thẳng, thân vững vàng. Đây là cách ngồi theo Phật ngồi. Tư thế ngồi nầy, đối với những người trọng tuổi, thì rất khó. Vì chân cứng, nên khó bẻ và dễ bị đau chân. Tuy nhiên, nếu ai ngồi được, thì rất tốt. Còn ngồi bán già, thì tương đối dễ hơn. Cách ngồi nầy, là chân mặt để lên chân trái, hay ngược lại đều được. Đại đa số chúng ta đều ngồi theo tư thế ngồi nầy. Khi ngồi niệm Phật hay ngồi thiền, trước tiên là phải điều thân, mà điều thân tức là điều chỉnh tư thế ngồi cho đúng cách. Có ngồi đúng cách, thì ta mới ngồi lâu và thoải mái. Bằng ngược lại, thì dễ đau chân và sanh bệnh.

 

 Hai chữ “thảnh thơi” trong bài kệ nói, là nó đồng nghĩa với “tâm không”. Tâm không là tâm không có vướng mắc, không phiền não, không suy nghĩ lung tung, chớ không phải là tâm không trơn, như lông rùa sừng thỏ. Vì hễ có phóng tâm suy nghĩ việc nầy, việc kia, thì lòng ta đã bất an rồi. Đã bất an, thì làm gì có thảnh thơi. Muốn có được thảnh thơi, thì nhứt quyết là ta không bận tâm đến việc đời. Kể cả việc nhà cửa, việc cháu con v.v… Nói một cách nghiêm khắc và dứt khoát rõ hơn là ta không suy nghĩ hai bên : có không, phải trái, hơn thua... Có như thế, thì tâm ta mới thật sự an lạc. Vì không còn những cặp đối đãi khuấy rầy ta nữa.

 

Ta phải ý thức rằng, sự có mặt của ta hôm nay và ở đây là ta đã phát nguyện quyết chí tu hành. Đã thế, thì ta cần phải buông bỏ tất cả. Còn vướng bận bất cứ việc lớn nhỏ gì, thì tâm ta không bao giờ yên được. Như thế, thì chỉ còn có cái xác ngồi đó mà hồn ta đã gởi tận nơi đâu đâu. Muốn không khởi nghĩ chuyện gì, thì ta phải hết lòng niệm Phật. Khi niệm danh hiệu Phật, ta phải lắng tai nghe theo nhịp mõ và nghe tiếng niệm Phật của ta và của người. Nghĩa là tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau. Ta phải nghe rõ ràng từng chữ, từng câu. Không để tâm xao lãng. Phải luôn nhớ danh hiệu Phật, không được buông lơi, hở ra, nên gọi đó là Trì Danh.(giữ gìn danh hiệu Phật một cách chắc nịch không xen hở)

 

Tâm ta luôn nhớ Phật như thế, thì chắc chắn là ta sẽ có an lạc ngay tức khắc. Mà tâm ta được an lạc, thì đó là tịnh độ hiện tiền. Cõi Tây phương hiện ra trước mắt ta. Nhưng với điều kiện là tâm ta phải thật sự an lạc. Vì tất cả đều từ tâm mà ra. Cảnh Cực lạc cũng do tâm ta mà có. Vậy khi niệm Phật, ta phải hết lòng tập trung tâm ý vào câu hiệu Phật. Nếu được kéo dài như thế, thì lâu ngày tâm ta dễ được an định và khi đã được an định, thì lần lần ta sẽ đạt được Nhứt tâm bất loạn. Đó là sự lợi ích thiết thiệt của pháp môn Trì Danh Niệm Phật.

 

Kinh Hành

 

Vừa đi niệm Phật

Miệng niệm tai nghe

Bước đi thật đều

Không nên lật đật.

 

Kinh hành là đi vòng quanh điện Phật để niệm Phật. Đây cũng là một phương pháp rất tốt. Vừa lợi ích cho sức khỏe cũng vừa lợi ích cho sự nhiếp tâm. Một buổi hành lễ, muốn cho thân tâm được an lạc thoải mái, thì ta phải khéo linh động, thay đổi động tác. Lạy nhiều thì mệt, ngồi lâu thì bị tê chân, đứng lâu thì mỏi, nên cần phải có đi. Ba động tác nầy cần phải thay đổi. Cho nên sau khi đại chúng ngồi niệm Phật, thì phải đứng lên đi kinh hành. Thời gian lạy, ngồi và đi, đều có phân chia thời gian thích hợp.

 

Điều ta nên nhớ, khi đi kinh hành, tai ta nghe tiếng nhạc niệm Phật, miệng ta niệm nhỏ theo. Điều quan trọng, ta nên chú ý là: “Nghe”, “tiếng”, và “bước đi” cả 3 đều phối hợp cho đều nhau. Tai ta nghe rõ ràng từng câu hiệu Phật. Tâm ta duyên theo tiếng và hòa nhập cùng với tiếng nhạc, tiếng đại chúng và tiếng của ta thành một. Nên nhớ là nương vào tiếng, chớ không phải dính kẹt vào tiếng. Như thế, thì tâm ta không phóng nghĩ ra ngoài âm thanh niệm Phật. Khi phóng nghĩ, ta liền nhận diện nó rõ ràng. Muốn nhận rõ, ta cần phải có chánh niệm. Chánh niệm là ngọn đuốc soi sáng qua mọi hành động và ý nghĩ của tâm ta. Ta chỉ cần nhận rõ vọng tưởng, tức thời vọng tưởng sẽ tan biến ngay. Vì bọn chúng không thật. Cho nên, lúc nào cũng phải có trí huệ soi sáng. Có thế, thì chắc chắn sự tu hành của chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt đẹp cao.

Thắp Nến Niệm Phật

 

Thắp nến niệm Phật là một hình thức hơi mới lạ. Có người nói: Niệm Phật được rồi, cần gì phải thắp nến? Nhân thắc mắc nầy, chúng tôi xin thưa để quý liên hữu rõ thêm. Trong nhà Phật, tất cả lễ nghi hình thức đều là phương tiện. Bất cứ phương tiện nào nhằm có lợi ích cho sự tu hành, chúng ta đều có quyền bày ra. Ở đây, chúng tôi muốn tạo ra một khung cảnh vừa trang nghiêm thanh tịnh vừa có sự ấm cúng. Cảnh trí tuy ngoại tại, nhưng nó cũng có một tác dụng rất lớn. Tùy theo mỗi khung cảnh mà nó có sự khích động đánh mạnh vào tâm thức của con người. Khi bước chân vào những nơi như : trường học, nhà thương, rạp hát, nhà hàng, tòa án, nhà thờ, tự viện v.v… ta thấy mỗi khung cảnh đều có một tác động mạnh vào tâm thức ta khác nhau. Vào rạp hát, lòng ta như vang lên bao niềm xao động, vui nhộn… Vào tòa án, lòng ta như chùn xuống, vì ta phập phồng lo âu sợ hãi. Vào chùa, ta thấy không khí nghiêm trang, lòng ta cảm thấy thật dễ chịu, như vơi đi bao nỗi ưu phiền…

 

Cũng thế, khi ta ngồi niệm Phật bình thường, lòng ta cảm thấy không có gì khác lạ. Đôi khi chúng ta có niệm xem thường. Một món ăn dù thật ngon miệng, nhưng ngày nào cũng tái diễn món ăn đó, thế thì, thử hỏi món ăn đó, có còn ngon miệng nữa hay không? Hay là khi nhìn thấy ta phát ớn lạnh! Sự tu hành, tuy mục đích là ở nơi tâm, nhưng chúng ta chưa có được: “Tùy kỳ tâm tịnh, tức Phật độ tịnh”. Nếu được thế, thì còn gì phải luận bàn niệm hay không niệm. Và không cảnh nào là không phải cõi Tịnh độ. Chúng ta chưa được như vậy, nên cần phải bày ra hình thức. Hình thức trang nghiêm thanh tịnh, cũng làm cho tâm hồn chúng ta cảm thấy ấm áp và thích tu hơn.

 

Hình thức là phương tiện. Khi tu ta rất cần đến những phương tiện tốt. Trong buổi thắp nến niệm Phật, cách ngồi của đại chúng nhìn thấy cũng thật trang nghiêm. Ta cần duy trì và sắp xếp chỗ ngồi như thế. Trở lại điều thắc mắc trên, niệm Phật được rồi, còn thắp nến làm chi? 

 

Xin thưa, trong nhà Phật rất chú trọng đến ánh sáng. Vì ánh sáng là tượng trưng cho trí huệ. Mà trí huệ rất quan trọng trong việc tu hành. Dù chúng ta tu bất cứ pháp môn nào, nếu không có trí huệ chỉ đạo, thì coi như sự tu hành của chúng ta sẽ không bao giờ đạt được kết quả tốt đẹp. Chẳng những thế, mà nó còn rất nguy hại. Vì thiếu trí huệ soi sáng, nên dễ bị lầm lạc, rơi vào con đường tà ngoại. Đó là một hậu quả rất nguy hiểm cho người tu.

 

Thực tế, là khi ta niệm Phật, nếu không có trí huệ soi sáng từng câu hiệu Phật, thì làm sao ta biết được vọng niệm. Cho nên trong đạo Phật Định và Huệ phải đi đôi với nhau. Cả hai không thể thiếu một. Cho nên, khi thắp sáng ngọn đèn trước mặt ta, để chúng ta thấy rõ sự tượng trưng đó. Sở dĩ ngọn đèn cháy sáng là do ngọn đèn không bị chao động. Vì không bị chao động, nên phát ra ánh sáng. Đó là tượng trưng cho định và huệ. Thế nên, khi niệm Phật, ta phải giữ tâm ta được an định và sáng suốt từng câu hiệu Phật như ngọn đèn đang cháy sáng. Đó là một biểu trưng mà chúng tôi mượn ngọn đèn để nói lên ý nghĩa thiết thiệt đó. Ngoài sự tạo khung cảnh mới lạ và ấm cúng ra, nó còn nói lên cái ý nghĩa thâm sâu đặc thù đó. Mà cái ý nghĩa nầy mới là cái chủ tâm của chúng tôi bày ra. Đó là nói qua về khung cảnh và ý nghĩa cho quý liên hữu rõ, giờ đây, chúng tôi nói đến cách thức hành trì.

 

Về cách ngồi, chúng ta ngồi thành 4 hàng. Hai hàng ngồi đối diện với nhau. Và trước mặt mỗi người là một cây đèn cầy. Mỗi đầu hàng, từ bàn Phật chính nhìn ra là có một thầy ngồi làm chủ trì. Mỗi bên, niệm 5 câu hiệu Phật. Đại chúng bên hàng A hòa âm niệm lớn tiếng, niệm theo nhịp mõ đều đều không nhanh, không chậm. Trong khi đó vị Duy na khi đại chúng bên A niệm đủ số 5 câu, thì đánh một tiếng chuông báo hiệu cho biết là đến phiên bên B đồng niệm. Lúc đầu, thì dùng mõ và chuông, sau đó không cần dùng mõ và chuông nữa. Cứ niệm Phật như thế cho đến nửa tiếng đồng hồ. Sau đó, đồng đứng lên để chuẩn bị đi kinh hành. Khi đi, bắt đầu đi từng hàng một. Hàng thứ nhứt đi trước, rồi tới hàng thứ hai v.v... Kinh hành xong, đại chúng trở về vị trí cũ rồi ngồi xuống niệm thánh hiệu Quan Âm. Kế tiếp, đồng tụng một bài sám phát nguyện (hoặc có thể bài sám khác tùy chọn) và sau đó sẽ hát những bài hát đạo. Cuối cùng là hồi hướng.

Điều quan trọng trong lúc niệm Phật thắp nến nầy, mỗi người nên tự nhắm mắt lại để nhiếp tâm theo dõi từng câu hiệu Phật. Nếu khi niệm, tâm ta khởi vọng động bất an, liền khi đó, nên mở mắt ra nhìn thẳng vào ngọn đèn đang cháy sáng và theo dõi hơi thở, tức thời tâm ta sẽ được an định lại. Tuyệt đối chúng ta không nhìn chung quanh và người đối diện. Khi một bên niệm , thì một bên nhiếp tâm lắng nghe rõ âm thanh của đại chúng niệm. Ta thầm tỉnh lặng, nhân tiếng ngoài nghe lại tiếng lòng ta, phải nhớ : tâm và tiếng hiệp khắn nhau, không được xen hở, phóng nghĩ. Khi tâm phóng nghĩ loạn động, ta liền dùng chánh niệm soi sáng liền như ngọn đèn đang cháy sáng trước mắt ta. Nhờ thế, mà tâm ta dễ được an định. Niệm Phật theo cách thức nầy, ta nhờ ngoại cảnh đánh thức ta. Nhứt là nhờ vào âm thanh niệm Phật to tiếng của đại chúng. Đó là một năng lượng có tác dụng đánh thức lòng ta rất lớn. Một năng lượng tỏa ra bao trùm thật ấm áp, Nhờ vào năng lượng ấm áp đó mà ta cảm thấy rất an tâm. Tâm an là một hạnh phúc rất lớn lao mà bạc tiền không thể nào mua được.

 

Nghe Chuông 

 

Nghe tiếng chuông lòng nhẹ vơi

Trí huệ phát lòng thảnh thơi

Tình thương trải khắp muôn nơi

Về thực tại dứt khổ đời.

 

Lắng nghe là một nguyên tắc mà ta cần phải chú ý thực tập. Trong khóa tu, tiếng chuông rất quan trọng. Chúng ta cần phải thực tập nghe chuông. Lâu nay, chúng ta có thói quen nghe và chạy theo thanh trần. Chúng ta săn đuổi chạy theo tiếng như người mất hồn. Vì vậy mà tâm ta luôn bị xáo trộn bất an. Tiếng chuông trong khóa tu là một cơ hội tốt để cho ta thực tập chánh niệm.

 

Mỗi khi nghe tiếng chuông, ta ngưng ngay mọi công việc, mọi suy tư, mọi nói năng để trở về với hơi thở chánh niệm. Ta hít hơi vô và thở ra 3 lần. Khi hít vô ta cho hơi thở dài, nhẹ và sâu. Thở rất tự nhiên. Và khi hít vô ta cho chữ Nam kéo dài đi theo hơi thở và khi thở ra, ta cho chữ Mô cũng dài theo hơi thở. Mỗi lần hít vô và thở ra, ta có thể ngừng lại 1 giây, rồi thở tiếp tục.Thở đều không nhanh và không chậm. Tới chữ A Di Đà Phật cũng thế. Cứ thế ta hít thở 3 lần. Cho đến khi bặt dứt âm thanh tiếng ngân của chuông. Mỗi lần thực tập, ta có thể thỉnh chuông như thế 3 lần. Cứ mỗi lần, đều thực tập hơi thở như thế. Khi thực tập thuần thục rồi, bất cứ tiếng động nào tạo nên âm thanh, ta cũng có thể thật hành như vậy. Điều nầy, rất có lợi cho sự thực tập chánh niệm.

Sau đó, ta có thể thầm niệm bài kệ trên. Điều nầy, thực tập buổi đầu hơi khó cho chúng ta, vì chúng ta chưa quen. Nhưng chúng ta cố gắng bền chí thực tập, thì chắc chắn sẽ không còn khó khăn nữa. Hãy cứ thực tập đi, rồi chúng ta sẽ thấy hiệu quả của sự an lạc.

 

 Khi nghe tiếng chuông, tuyệt đối chúng ta hãy để tâm chúng ta thật nhẹ vơi, lòng không một chút cáu bợn phiền não. Khi tâm ta nhẹ thoát như thế, thì ngay đó là ta đã có trí huệ sáng ngời rồi. Trí huệ phát hiện là vì tâm lặng. Bấy giờ lòng ta mới cảm thấy an vui và tươi mát. Nhìn ai cũng thấy thương được. Dĩ nhiên, chữ “thương” trong ý nghĩa trong sáng, có trí huệ chiếu soi. Như thế, thì còn gì khổ nữa đâu. Sở dĩ ta khổ là vì tâm ta vọng động, suy nghĩ lung tung, thương, ghét, phải, trái… đủ thứ. Chúng hành hạ thân tâm ta không yên. Chúng làm cho ta đau khổ quá nhiều rồi!

 

Lý thuyết hay không bằng thật hành. Chúng ta cứ thật hành ngay đừng chần chờ gì nữa. Khi nghe tiếng chuông thỉnh lên, dù bất cứ ở đâu, tất cả đều phải giữ yên lặng. Lập tức ta hãy trở về quê hương tâm linh của ta ngay. Vì nơi đó có đầy đủ hoa trái hạnh phúc. Như thế, thì ta còn chần chờ gì nữa mà không mạnh dạn trở về. Mong tất cả hãy trở về thực sự ngay trong từng giây phút.

 

Chắp Tay

 

Sen búp xin tặng người

Một vị Phật tương lai

 (Thiền sư Nhất Hạnh)

Xin nhớ Phật mỗi ngày

Sẽ dứt nỗi khổ ngay.

 

Chắp tay là một lối chào nhau của người con Phật. Lối chào nầy thật đẹp. Sự lễ nghi chào hỏi, tùy theo tập tục của mỗi quốc gia và tôn giáo mà có khác nhau. Riêng về Phật giáo, nhứt là những người tu theo pháp môn Tịnh độ, ngoài sự chào nhau bằng cách chắp tay, họ còn niệm câu A Di Đà Phật nữa. Đây là một sự thức nhắc lẫn nhau để mỗi người nhớ lại tâm nguyện của mình. Lúc nào cũng không quên vị Giáo Chủ mà trong tương lai mình sẽ gặp lại Ngài. Đồng thời, cũng đánh thức tâm thiện của mỗi người, vì mỗi người đều sẵn có tánh Phật.

 

Thuở xưa, Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, đi đâu gặp ai, Ngài cũng bái lạy và nói câu: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ là Phật”. Mỗi người ai cũng sẵn có Phật nhân, chỉ cần chịu khó nhìn lại và cố gắng tu hành dứt trừ hết vô minh phiền não, thì sẽ đạt được Phật quả. Đó là một hạnh nguyện của Bồ tát luôn thức nhắc cho mọi người nhớ lại ông Phật của chính mình. Vì quên Phật của mình, nên chúng ta mãi đi trong luân hồi chịu khổ. Việc làm nầy của Ngài, dù bị người ta mắng nhiếc đánh đập, nhưng Ngài vẫn không thối chí nản lòng. Đây là một hạnh nguyện đáng kính và đáng cho chúng ta noi gương theo.

Ngày nay, khi gặp nhau, chúng ta chắp tay chào, đâu có ai chưởi bới đánh đập mình. Thế mà chúng ta còn ít khi chắp tay chào. Giả sử bị người chưởi đánh ta thì sao? Chắc là ta đánh chưởi lại, làm sao ta an nhẫn cho được!

Chúng tôi xin đề nghị quý liên hữu trong đạo tràng chúng ta, mỗi khi gặp nhau, chúng ta nên bắt chước Ngài Thường Bất Khinh mà chào nhau bằng cách chắp tay xá và niệm A Di Đà Phật. Khi chào nhau, chúng ta phải thật tâm cung kính, chớ không nên làm cho có lệ, theo kiểu giả dối bề ngoài, trả nợ quỷ thần. Điều nầy, không ai bắt buộc ta phải làm. Ta làm, vì ta ý thức được cái hay, cái đẹp, phát xuất từ tâm ta, nên khi chào nhau cần phải có cung cách và vui vẻ. Mỗi người nên cố gắng thực tập cho mình có thói quen tốt nầy. Đồng thời khi chắp tay, ta nên nhớ là chắp tay lên ngang ngực, không được chắp thấp lắm hoặc cao lắm.

 

Nhân đây, chúng tôi cũng xin nói thêm về cách chào của người Phật tử đối với chư Tăng, Ni. Khi chào chư Tôn Đức Tăng Ni, chúng ta không nên chào một tay. Trong trường hợp, nếu tay ta đang bận xách đồ không thể để xuống được, thì ta chỉ nên cúi đầu chào. Có người vì chưa hiểu, nên khi chào lại khoanh tay cúi đầu, hoặc chỉ gật đầu. Chào như thế không đúng cách mà phải chắp tay xá chào. Nếu trên tay ta đang cầm quyển kinh, thì tuyệt đối không được cầm Kinh xá chào. Ta chỉ nên cúi đầu chào thôi. Vì thị Kinh như thị Phật, cầm kinh xá chào là mang tội.

 

Lễ nghi tuy là hình thức bề ngoài, nhưng nó cũng biểu lộ tấm lòng cung kính và phép lịch sự của chúng ta. Điều mà chúng ta cũng cần nên nhớ là khi chào nhau, mỗi người nên chắp hai bàn tay lại theo kiểu hình hoa sen búp.

 

Trai Đường

Bước chân vào trai đường

Buông xả mọi vấn vương

Nhẹ nhàng trong chánh niệm

Trân kính thọ cúng dường.

 

Trai đường, quá đường hay ngũ quán đường, tên gọi tuy khác, nhưng đều có chung một ý nghĩa là nhà thọ trai. Khi vào trai đường ta cần phải giữ yên lặng. Vì nơi đây là chỗ của người xuất gia thọ thực. Những người thọ bát hay dự khóa tu dài hoặc ngắn hạn, đều là tập tu theo công hạnh của người xuất gia. Cho nên mọi việc làm ở trai đường cần phải giữ trang nghiêm. Khi mọi người bước chân vào trai đường, cũng như bước chân vào điện Phật, cần phải buông xả mọi ưu phiền. Những gì rối rắm trong lòng nên gỡ bỏ để bên ngoài. Vì nếu ta mang nó theo vào trai đường, đến lúc ngồi ăn, ta chỉ ăn toàn phiền não, chớ không phải ăn thức ăn.

Ăn nhai cơm cũng là một phép thực tập rất sâu sắc. Trong khi ăn, ta phải giữ chánh niệm và thiết lập cho thân và tâm ở ngay trong giây phút hiện tại. Ăn như thế là ta mới thực sự có mặt tiếp xúc được thức ăn và năng lượng của những người chung quanh. Khi ăn, điều tối kỵ nhứt là để tâm buông lung, nghĩ ngợi, lo lắng đủ thứ. Phải luôn nhớ nghĩ đến năm phép quán tưởng mà ta mới vừa đọc qua.

Khi đứng xếp hàng lấy cơm, ta cũng phải giữ cho có trật tự và yên lặng. Mọi việc, ta phải theo sự sắp xếp của Ban hành đường. Ban hành đường, tuy được chúng cử làm theo phận sự của mình, nhưng khi làm cũng phải gìn giữ oai nghi tế hạnh. Nói năng hay dọn ăn, đều phải nhẹ nhàng và luôn giữ chánh niệm.

 

Lấy cơm xong, ta đi nhẹ nhàng chậm rãi vào chỗ ngồi. Khi kéo ghế, ta nên để ý giở ghế lên, đừng kéo ghế gây tiếng ồn làm cho người khác khó chịu. Ngồi vào ghế xong, khi nghe tiếng khánh ta nên nhiếp tâm, lập tức theo dõi hơi thở và nhớ Phật.

 

Ta phải học thuộc lòng nghi thức quá đường. Bài Kinh cúng dường và những bài kệ, câu chú, tất cả đều phải học thuộc. (Nếu vị nào chưa thuộc, thì cố gắng học, trường hợp những vị trọng tuổi không thuộc lòng, thì nên coi theo bổn mà đọc tụng. Nhưng tốt nhứt là nên học thuộc lòng thì hay hơn). Cách thức bưng bát, cắm muỗng vào bát, tay bắt ấn v.v… ta đều phải thực tập cho nhuần nhuyễn. Mỗi khóa tu, đều có một buổi thực tập về nghi thức nầy. Tuy nhiên, Nếu vị nào sau khi thực tập còn chưa rõ, hoặc còn bỡ ngỡ, thì nhờ chúng trưởng hoặc quý vị trong Ban nghi lễ chỉ giúp giùm. Xin quý vị đừng ngần ngại. Nhứt là đối với những vị mới gia nhập vào đạo tràng hoặc mới dự khóa tu. Điều gì chưa rõ, cứ tự nhiên hỏi. Vì nơi đây là môi trường chúng ta cần học hỏi giúp đỡ lẫn nhau.

 

 Khi nhai cơm ta thầm nhớ đến bài kệ:

 

Cơm đưa vào miệng

Phật hiệu theo liền

Từng miếng nhai lâu

Bể sầu tát cạn.

 

Khi ăn, ta không nên ăn nhanh quá, ăn như thế rất có hại cho bao tử. Cũng không nên ăn lâu quá để đại chúng chờ đợi mang tội. Thời gian ăn tối đa là nửa giờ.

 

Ăn xong, khi tráng bát uống nước, ta thầm nhớ bài kệ:

 

Một ngụm nước trà

Lòng ta tươi mát

Nước làm đã khát

Ta “Biết” rõ ràng.

 

Khi đứng lên, ta nhớ phải nhấc ghế cho thật nhẹ nhàng và rồi đứng cho ngay hàng để chuẩn bị đi kinh hành. Khi đi, ta chỉ nhiếp tâm niệm Phật, mắt ngó về phía trước, không được ngó hai bên hoặc dòm người nầy người kia. Như thế, sẽ mất oai nghi và coi không được. Khi đi, ta cũng nên chú ý người đi trước mình để giữ khoảng cách cho đều nhau, đừng đi sát cũng đừng thưa lắm. Các tu sinh phải cẩn thận và chú ý điểm nầy. Sự tu hành cần phải mót phước từ những cái nhỏ nhặt. Tuyệt đối không nên khinh suất.

 

Thiền Hành

Bước đi trong tỉnh lặng

Mỗi bước nhịp thở đều

Tâm an nhiên tự tại

Mầu nhiệm biết bao nhiêu.

 

Thiền hành còn gọi là thiền đi. Đi là một động tác vận động rất tốt cho cơ thể. Ngày nay, người ta khuyến khích và cổ động cho phương pháp đi bộ nầy. Đi bộ được coi là một bộ môn thể dục rất tốt cho sức khỏe, nhứt là đối với những người trọng tuổi cần phải tập đi thiền nhiều lần trong ngày. Ở đây, chúng ta đi thiền, ngoài việc vận động cơ thể ra, nó còn là một cách thực tập thiền rất dễ chịu và an lạc.

 

Thiền hành khác với kinh hành. Thiền hành là ta đi trong tĩnh lặng và sáng suốt. Không niệm Phật ra tiếng như kinh hành. Khi đi, ta giữ mỗi bước đi thật đều đặn, không cần đi nhanh lắm. Đi một cách thoải mái và tự nhiên. Phải đi trong tư thế vững chãi và thảnh thơi. Đi theo nhịp thở đều. Mỗi bước chân ta đi là một chữ của câu hiệu Phật. Như bước đầu là chữ Nam, bước kế là chữ Mô. Cứ như thế mà tiếp tục. Tâm ta gắn liền từng chữ của câu hiệu Phật theo mỗi nhịp bước chân. Không phải đợi đến khi thiền hành, ta mới thực tập như thế. Trong đạo tràng, nhứt là trong những ngày tu học thọ bát, ta phải cố gắng thực tập cho mình có những bước chân đi vững chãi và thảnh thơi như thế.

 

Khi di chuyển đi đâu, dù chỉ vài ba thước, ta cũng phải tập đi thiền hay đi trong tịnh độ. Phương pháp tập đi thiền nầy, giúp cho ta có được một nội lực thật an bình và hạnh phúc hằng ngày. Hãy cố gắng thực tập ngay đi, thì chúng ta sẽ thấy sự hiệu nghiệm của nó. Đã lâu rồi, chúng ta thật sự chưa biết đi những bước đi hạnh phúc. Chúng ta đi trong phiền muộn, đi với những nỗi lo âu sợ hãi. Đi như một con ma đói đang bị hành hạ từng bước nặng trĩu khổ đau. Bây giờ, ta nhứt định không còn những bước đi sầu khổ, tiêu cực, héo mòn đó nữa. Đi không mong tới và cũng không có dự án, tính toán trong đầu. Chính những thứ mong mỏi, dự án tính toán đã làm cho ta nhức đầu đau khổ nhiều rồi. Ta hãy mạnh dạn quăng hết những gánh nặng lo âu, tính toán đó, để cho những bước chân đi của ta thật sự thành những dấu ấn an lạc, vững chãi và thảnh thơi trên mặt đất.

Nghe Pháp

Thân người không dễ được

Phật pháp không dễ nghe

Cả hai nay đều được

Phải trân quý lắng nghe.

 

Giáo pháp của Phật thật là thậm thâm vi diệu. Những lời của Phật nói ra đều là những lời vàng ngọc. Tùy theo căn cơ trình độ của người nghe mà Phật nói có sai khác. Tuy nhiên, dù có sai khác cao thấp, đốn tiệm...khác nhau, nhưng tất cả đều có cùng một vị, đó là vị giải thoát. Như nước biển tuy nhiều, nhưng có cùng một vị, đó là vị mặn. Giáo pháp của Phật nói ra khác nào như một đám mưa, tùy theo mỗi loại cây cỏ lớn nhỏ không đồng mà chúng hấp thụ nước mưa có sai khác. Dù có sai khác, nhưng tất cả cũng đều được lợi ích.

 

Hôm nay, ta được cơ duyên thù thắng là được thân người và được nghe pháp. Điều nầy, nếu đời trước, ta kém tu, thì hôm nay làm sao ta có được thiện duyên như thế nầy. Đây là một căn lành phước báo rất lớn mà do ta đã khéo gieo trồng tu tạo trong nhiều đời. Biết thế, thì ta không thể cô phụ lại căn lành đời trước của ta. Nghĩa là, chúng ta cần phải cố gắng tu tạo phước đức nhiều hơn nữa.

 

Như chúng ta đều biết: Văn, tư, tu là ba món huệ học mà chúng ta cần phải trau dồi. Nghe pháp thuộc về văn huệ. Nói văn huệ là trong khi nghe, chúng ta phải dùng trí huệ để nghe. Có dùng trí huệ, chúng ta mới có thể biện biệt được lẽ chánh tà, chân ngụy. Sau khi nghe, ta cần phải tư duy cho chín chắn. Tư duy là thiền quán. Người tu học Phật mà thiếu thiền quán, thì chẳng khác nào như người đầu bếp nấu ăn mà không có muối. Như thế, thì bảo thức ăn làm sao ngon được? Sau khi thiền quán kỹ càng rồi, chúng ta liền ứng dụng. Ứng dụng là thật hành những gì mà ta đã nghe và học hỏi. Có thế, thì mới thực sự có lợi ích thiết thật trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đạo Phật không phải là đạo lý thuyết suông hay giáo điều mà đạo Phật rất chú trọng ở nơi thật hành. Nhưng sự thật hành phải có trí huệ soi sáng.

 

Thế nên khi nghe pháp, ta nên có tâm niệm như người đang khát nước cần uống. Ta không thể khinh thường. Phải lắng nghe cho thật kỹ, những gì mà chư Tôn Đức Tăng Ni giảng dạy. Tuyệt đối không được nói chuyện. Vì nói chuyện sẽ gây ra động chúng làm cho người khác bị xao lãng. Mình đã tán tâm dao động, còn làm cho người khác cũng tán tâm dao động theo. Như thế, thì thật là mang tội rất lớn. Và khi có việc đi ra, ta phải di chuyển thật nhẹ nhàng. Tuyệt đối là phải tắt máy điện thoại di động. Nếu không, thì chính ta đã gây ra làm tác hại đến bài pháp thoại rất lớn và sự lãnh hội tiếp thu của ta và người cũng không có được bao nhiêu. Ta nên cẩn thận và chú ý rất nhiều về điểm nầy.

 

Ngủ nghỉ

 

Khi tôi nằm xuống nghỉ

Buông thả miệng mỉm cười

Việc qua rồi chẳng nhớ

An giấc mộng vui tươi.

 

Một con thú khi bị thương tích, nó liền tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn nghỉ ngơi để tịnh dưỡng chữa lành lại vết thương. Một cái máy khi hoạt động lâu, tất nhiên, người ta cần phải cho nó tạm ngừng để cho nguội máy. Đó là người khéo biết bảo trì để sử dụng được bền lâu. Cũng thế, thân thể người ta cũng chỉ là một bộ máy, nhưng là một bộ máy sự cấu tạo của nó rất tinh vi. Bởi thế, nên thân thân thể người ta còn gọi là cơ thể. Cơ là máy móc. Đã là bộ máy cũng như muôn ngàn bộ máy khác. Song có điều bộ máy của con người nó có sự sống, nên người ta gọi là sinh lý. Còn máy móc, thì gọi là vật lý. Dù sinh lý hay vật lý, tất nhiên, nó cũng cần phải có được sự nghỉ ngơi.

 

Đối với con người ngủ nghỉ rất là cần thiết cho sự sống. Nó là một luật tắc tự nhiên. Nhưng sự ngủ nghỉ ít nhiều, còn tùy thuộc vào sức khỏe của mỗi người. Đối với người trọng tuổi cần nghỉ ngơi nhiều hơn. Vì trọng tuổi dỗ giấc ngủ rất khó hơn hồi còn trẻ nhiều. Nhưng khi nghỉ ngơi, ta cũng cần phải biết phương pháp. Thân thể ta cần phải buông thư. Buông thư cũng là một phương cách hành thiền làm cho các cơ bắp ta được giãn ra. Sự căng thẳng của hệ thần kinh và bắp thịt hay dễ gây ra cho ta có những bực bội, cau có khó chịu. Vì thế, ta cần phải thực tập thiền buông thư, mỗi lần ít nhứt cũng nửa giờ đồng hồ. Buông thư là ta nằm với tư thế thả lỏng thân thể. Tâm ta không suy nghĩ tính toán chuyện quá khứ hay tương lai. Ta chỉ nằm thoải mái thảnh thơi. Ta không cần bận tâm đến bất cứ chuyện gì. Vì thời gian nầy là thời gian của ta. Ta cần phải có chủ quyền. Nếu cần, ta niệm Phật theo hơi thở. Khi nằm cũng để cho thân tâm ta hợp nhứt.

 

Trong khóa tu, sự ngủ nghỉ rất là cần thiết. Vì nếu mất ngủ, tất nhiên là chúng ta sẽ không đủ sức khỏe để tu học cùng đại chúng. Vì thế, vào những giờ ngủ nghỉ ta cần phải tôn trọng giờ giấc. Nếu như ta không ngủ được, thì ta không nên gây tiếng động làm cho người khác giật mình khó ngủ. Khi nghe kẻng đổ báo hiệu đã đến giờ chỉ tịnh, thì mọi người tuyệt đối không nên nói chuyện. Tất cả cần phải gìn giữ phòng ngủ thật yên lặng. Đó là ta khéo bảo vệ sức khỏe cho ta cũng như cho tất cả mọi người. Có thế, thì sự tu học của chúng ta mới đạt được kết quả tốt đẹp.

 

Thức dậy

 

Thức dậy lòng thư thả

Buông xả mọi ưu phiền

Nhìn mọi người tươi mát

Bằng ánh mắt dịu hiền.

 

Khi nghe kẻng, chúng ta nên thức giấc ngay. Thời gian dự tu là thời gian mà chúng ta tập sinh hoạt đúng theo quy chế của thiền môn. Từ sự ngủ nghỉ cho đến khi thức dậy v.v… nhứt nhứt đều phải sống cho có quy củ. Tất cả đều không giống sự sinh hoạt ở ngoài đời. Suốt thời gian dự tu, tất cả đều tập sống theo phẩm hạnh của người xuất gia. Và tất cả đều khép mình trong thanh quy thiền môn. Vì thế khi thức giấc trước khi đi vệ sinh cá nhân, ta nên thầm nhớ bài kệ trên. Điều quan trọng mà chúng tôi cũng xin khuyến nhắc quý liên hữu cao niên, khi quý vị thức giấc không nên đi liền, mà phải ngồi dậy cho tỉnh táo, ít nhứt phải là 2 phút đồng hồ, rồi sau đó mới đi. Vì trọng tuổi máu huyết của chúng ta lưu thông rất chậm, khi đang nằm thức dậy đi liền, thì lượng máu sẽ không về nảo bộ kịp. Do đó, dễ gây ra tình trạng xây xẳm chóng mặt ngất xỉu ngã té. Từ đó có thể gây ra tai biến mạch máu nảo hoặc nhồi máu cơ tim mà có thể mạng vong. Cho nên, quý liên hữu tuổi cao có bệnh áp huyết cao, nên lưu tâm cẩn thận vấn đề nầy. Đó là nói về phần thể chất mà các bác sỹ thường khuyên chúng ta như thế. Còn phần tinh thần thì sao?

 

Khi thức dậy, thì lòng ta nên thư thả và buông xả hết mọi ưu phiền. Nhìn thấy ai ta cũng cảm thấy vui tươi. Và ta nguyện từ sáng cho đến tối, trọn ngày lòng ta luôn tươi mát dịu hiền. Phiền não đến ta quyết không dung chứa, phải xua đuổi nó ra tức khắc. Như xua đuổi tống cổ kẻ bất lương ra khỏi nhà của chúng ta. Nuôi dưỡng phiền não trong lòng có khác nào như nuôi dưỡng kẻ trộm trong nhà. Và tệ hại hơn nữa như lời Phật dạy là nuôi dưỡng rắn độc. Và như thế, chắc chắn là chúng nó sẽ phá hại, giết chết đời ta. Như khi chúng ta nổi giận lên, buồn bực ai đó, thì chúng ta sẽ mất ăn mất ngủ. Buồn phiền là những thứ độc tố rất nguy hiểm. Nó giết hại ta chết dần chết mòn. Người nào khó tánh chứa chấp phiền não nhiều, hay giận dai, thì người đó lại càng thêm khổ đau nhiều. Thật chẳng có ích lợi gì!

 

Lúc nào ta cũng nghĩ đến sự vô thường, thời gian qua nhanh như tên bắn, cái chết sẽ đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Sớm thấy còn, chiều lại mất. Cuộc đời ngẫm lại như một giấc chiêm bao mà ta đã thấy khi hôm. Kiếp người ngắn ngủi như con phù du sớm sanh chiều chết. Nghĩ thế, ta không nên buồn phiền chấp trước một ai. Mọi việc ta nên buông xả hết. Có buông xả lòng ta mới an vui thanh thoát nhẹ nhàng. Ai có gây ra làm cho ta khó chịu, ta cũng nên tha thứ bỏ qua. Ta nên nhớ đến hơi thở để mà chăm sóc cho nó. Ta biết chắc rằng, một ngày nào đó, nó cũng giã từ ta. Sống một ngày cho có giá trị một ngày. Sống trong an lạc hỷ xả, dù ta có nhắm mắt cũng vui. Ta hãy biết thương lấy ta và cố gắng tập sống như thế. Ta hãy lợi dụng thời gian 7 ngày nầy, để dồn hết tâm tư vào việc tu học. Ta biết rõ cuộc đời là giả tạm. Không có gì để cho ta phải bận tâm. Vì tất cả cuối cùng rồi ta cũng phải buông bỏ hết. Ta hãy mạnh dạn phát nguyện:

 

Xin nguyện sống trọn vẹn

Mắt thương nhìn cuộc đời. (Thích Nhất Hạnh)

 

Sức khỏe

 

Sức khỏe khéo giữ gìn

Ăn uống hợp vệ sinh

Siêng năng thường thể dục

Thân khỏe tâm an bình.

 

Trong thời gian dự tu, vấn đề ăn uống ngủ nghỉ thật tối hệ trọng cho sức khỏe. Nếu chúng ta dùng những thực phẩm mà nó không mấy thích hợp cho cơ thể, thì ta sẽ dễ gây ra bệnh hoạn. Nhứt là mùa lạnh, sự ăn uống của những người trọng tuổi cần phải thận trọng nhiều hơn. Thức ăn nào lạ bụng thì ta không nên dùng. Khi ăn, ta chỉ dùng vừa chừng và những thứ mà ta đã quen dùng. Như thế, thì có thể ít gây ra bệnh hoạn. Điều nầy, tùy theo cơ thể mạnh yếu của mỗi người mà thọ dụng, kiêng cử. Tuy thời gian dự tu của chúng ta rất ngắn, nhưng nếu chúng ta xem thường sự ăn uống và ngủ nghỉ, thì cũng dễ gây ra tai hại và sự tu học của chúng ta khó được trọn vẹn. Thế nên, chúng ta cần phải quan tâm giữ gìn cẩn thận. Đó là điều mà chúng tôi xin thành thật thức nhắc.

 

Khi đang tu học, nếu người nào không may xảy ra bệnh nhẹ hay nặng, lập tức hãy cho người bạn mình biết, hoặc là báo cáo cho chúng trưởng của khóa tu biết. Chúng trưởng và Ban chăm sóc sức khỏe (Tri bệnh) cũng nên lưu ý quan tâm đến những liên hữu trọng tuổi hay đau yếu. Điều tốt nhứt là những người bạn đồng tu cùng phòng nên để ý và tương trợ cho nhau, mỗi khi có người bệnh. Nếu là bệnh nhẹ, thì chúng trưởng hay chúng phó, nên mời Ban chăm sóc sức khỏe đến trợ giúp ngay. Và nếu bệnh nặng, thì hãy cấp báo cho Ban quản chúng biết, để tùy trường hợp mà hành động thích nghi kịp thời.

 

Sức khỏe là vàng. Chương trình của khóa tu, mỗi sáng sớm đều có tập thể dục. Tập thể dục là một phương pháp vận động bằng những động tác thật nhẹ nhàng rất thích hợp cho người trọng tuổi. Muốn cho gân cốt được dẻo dai, thì chúng ta phải thường xuyên tập thể dục. Khi tập, sẽ có người phụ trách hướng dẫn. Các tu sinh dù trẻ hay già, tất cả đều không thể bỏ qua chương trình nầy. Nếu vị nào không tập, thì đó là một thiệt thòi cho mình rất lớn. Trong Nội Quy bắt buộc mọi người phải tập. Ngoại trừ những vị bị bệnh hay có lý do đặc biệt khác. Còn lại, tất cả đều phải tuân hành. Xin tất cả hãy quan tâm đến bản thân mình mà giữ gìn cẩn thận. Có thế, thì khóa tu của chúng ta mới thật vui và mới đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.

 

 

 

Nhà Bếp

 

Xắt gọt nấu xào chiên

Tâm loạn tưởng đảo điên

Miệng nói chuyện xằng xiên

Chuốc khổ lụy ưu phiền.

 

Trong khóa tu dù thời gian ngắn hay dài, Ban trù đường cũng rất là cực nhọc. Sức khỏe của đại chúng có được lành mạnh hay không, phần lớn cũng nhờ Ban nầy. Cho nên trong những giờ thọ thực, mỗi người cần phải nghĩ đến công lao của quý vị đó. Dù rằng, quý vị đó đã phát thiện tâm lo cho đại chúng. Dĩ nhiên là quý vị sẽ có phước đức rất nhiều. Tuy nhiên, điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây, là khi làm công việc, quý vị trong ban trù đường, mỗi người nên nhiếp tâm niệm Phật. Không nên để tâm buông lung mặc cho nó rong chạy thế nào cũng được. Dù quý vị không tu học cùng với đại chúng, nhưng khi hành sự mà quý vị tự biết thúc liểm thân tâm, khép mình theo quy luật của khóa tu, thì đó là một phước đức rất lớn lao. Vì khi tâm ta loạn tưởng, tất nhiên, là ta không gìn giữ ý nghiệp. Mà ý nghiệp là chủ động của sự tạo nghiệp. Một khi ý nghiệp buông lung phóng dật, thì phát ra lời nói cũng không mấy nhã nhặn. Từ đó, sẽ gây ra có lắm chuyện thị phi phiền phức. Thế là tình bạn đạo sẽ mất vui. Từ sự mất vui đó, việc làm của ta cũng không có phước. Chẳng những không có phước mà đôi khi còn chuốc thêm tội lỗi nữa.

 

Muốn cho phước trí được lưỡng toàn, thì cách hay nhứt là khi làm mỗi người nên tự quán chiếu lại tâm mình. Mà quán chiếu là ta có chánh niệm. Có chánh niệm là khi ta nói và làm, đều có sự kiểm soát thật kỹ lưỡng của tâm. Do đó, ta có thể tránh được những chuyện không hay xảy ra. Tránh nhân, thì không có quả. Không phải khi làm, chúng ta không nói, nhưng chúng ta chỉ nói những điều cần thiết. Chúng ta càng bớt nói càng tốt. Tâm niệm rằng, chúng ta là những người đang ở trong khóa tu. Dù quý vị phát tâm tốt đến làm công quả lo cho đại chúng, điều đó rất là quý giá, thật đáng tán thán khích lệ, nhưng xin quý vị cũng nên nghĩ đến cho mình mà lo tự tu. Chỉ cần bớt nói chuyện ồn là ta cũng đóng góp một phần lớn trang nghiêm cho khóa tu rồi. Ngoài khóa tu ra, khi làm việc ở nhà trù, mong sao quý vị cũng vẫn giữ như thế. Được vậy, thì lợi lạc biết bao! Thật vui lắm thay!

Khi làm, mỗi người nên thầm nhớ đến bài kệ:

Xắt gọt nấu xào chiên

Hơi thở nhớ bền kiên

Tới lui thường niệm Phật

Lòng tươi mát dịu hiền.

 

Thường chúng ta hay có quan niệm là ở nhà bếp dơ dáy không thanh tịnh. Theo tôi, thì không phải thế đâu. Cái dơ dáy bên ngoài không đáng kể, vì chúng ta có thể dùng nước, xà phòng hay thuốc tẩy, ta cũng có thể rửa sạch được. Điều quan trọng là cái cấu nhiễm trong lòng ta. Sự cấu nhiễm đó, ta cần phải lo ý thức mà tẩy trừ. Dùng nước chánh pháp mà tẩy trừ. Cụ thể nhứt là phải dùng sáu chữ Di Đà mà ngày đêm lo tẩy sạch. Dù cảnh bên ngoài không được trang nghiêm thanh tịnh, mà lòng ta thanh tịnh an vui, thì sẽ biến cảnh đó cũng an vui thanh tịnh. Rõ ràng là cảnh tùy tâm chuyển. Chúng ta nên biến nhà bếp thành đạo tràng. Đừng nghĩ nhà bếp là chỗ dơ dáy, rồi ta tha hồ nói chuyện mà gây ra lắm điều phiền phức. Nếu tâm mình thanh tịnh, thì ở nơi nào lại không thanh tịnh. Chúng ta nên nhớ, cửa chùa còn gọi là cửa thiền. Mà thiền, thì nơi nào cũng thanh tịnh cả. Nếu tâm ta ồn ào, lộn xộn, vọng tưởng, đảo điên, thì dù ở trên điện Phật ta cũng vẫn thấy ồn ào, không thanh tịnh. Do đó, là Phật tử khi đến chùa, ta nên làm cho ngôi chùa nơi nào cũng thanh tịnh cả.

 

 Được thế, chính ta có phước lớn mà mọi người cũng được an vui tốt đẹp. Mong sao quý vị trong Ban trù đường hay những vị đến công quả phụ giúp những công việc ở nhà bếp, mỗi người đều có tấm lòng tươi mát dịu hiền cả. Và lòng tươi mát dịu hiền nầy, mong sao quý vị sẽ mang nó theo suốt cả cuộc đời.

 

Rửa Bát

 

Rửa bát thật nhẹ nhàng

Trao nhau niềm an lạc

Tẩy sạch cáu bợn nhơ

Dứt hết mọi buộc ràng.

 

Rửa bát là một trong những việc làm hằng ngày của chúng ta. Thay vì ta rửa bát, thì người khác lại xắt gọt hay dọn thức ăn v.v…Trong khóa tu, ta chia công việc ra để mỗi người cùng làm. Tổ Bách Trượng nói: Một ngày không làm, một ngày không ăn. (Nhứt nhựt bất tác, nhứt nhựt bất thực). Điều quan trọng không phải là ở nơi công việc làm nặng, nhẹ, mà quan trọng là ở nơi khi ta làm công việc đó. Dù việc rất nhẹ, nhưng nếu ta làm bằng cái tâm so đo tính toán hơn thiệt, thì việc làm đó cũng trở nên nặng nhọc. Vì ta làm trong ý niệm nặng nhọc, tức làm trong phiền não nặng trĩu. Làm như thế, thì thật là đau khổ và tội nghiệp cho ta quá !

 

Thế thì, tại sao ta không làm bằng cái tâm hoan hỷ. Muốn có tâm hoan hỷ, ta cần phải thắp sáng chánh niệm lên. Hãy để cho mặt trời chánh niệm soi sáng vào việc làm của ta. Khi có chánh niệm, thì mọi bóng tối phiền não sẽ không còn. Thế là ta thật sự vui vẻ với công việc làm của ta. Ta có niềm vui, ta cũng muốn san sẻ niềm vui đó đến cho mọi người. Mình vui, người vui, công việc đều vui. Làm như thế, có gì mệt nhọc và còn gì thích thú cho bằng! Làm đâu tâm ta ở đó, đó là người khéo tu trong mọi việc làm.

 

Như vậy, việc rửa bát hay làm công việc gì khác, giá trị cũng như ta đang ngồi thiền. Hãy tập cho ta có một việc làm như thế. Trong khóa tu, mỗi người nên cố gắng thực tập. Việc làm nào cũng đưa ta đến chỗ an lạc và giải thoát. Rửa bát cũng là nguồn vui để ta trân quý nâng niu từng cái bát. Như Thiền Sư Nhất Hạnh đã nói: “Một hôm trong khi rửa bát, tôi có cảm tưởng rằng cử chỉ của tôi khi rửa cái bát cũng trịnh trọng và thiêng liêng như thể cử chỉ tôi tắm cho một đức Phật sơ sinh. Đức Phật sơ sinh nghe tôi nói như thế chắc là mừng cho tôi và không trách tôi đã dám so sánh Ngài với một cái bát”. (Nhất Hạnh, Trái Tim Mặt Trời, trang 31)

 

Rửa bát với cung cách trịnh trọng như thế, thì thử hỏi còn niềm an lạc hạnh phúc nào hơn!

Vệ Sinh

Ai ơi! Xin nhớ sạch xanh

Về chùa tu học chung quanh giữ gìn

Nơi nào cũng hợp vệ sinh

Cùng nhau gìn giữ đậm tình bạn sen.

 

Theo quyển Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học Nhà Xuất Bản Đà Nẵng 2003, định nghĩa và giải thích hai chữ vệ sinh như sau:

1. Vệ sinh là những biện pháp phòng bệnh, giữ gìn và tăng cường sức khỏe (nói khái quát). Phép vệ sinh. Ăn ở hợp vệ sinh. Vệ sinh ăn uống. Vệ sinh lao động. Giữ vệ sinh chung.

2. (Kng; thường dùng có kèm ý phủ định, kết hợp hạn chế). Hợp vệ sinh (thường nói về mặt sạch sẽ) Nhà cửa chật chội, bẩn thỉu, thiếu vệ sinh.Bát đĩa không được vệ sinh lắm. Làm vệ sinh nhà cửa (quét dọn cho sạch sẽ).

3. đg. (dùng làm hạn chế trong một tổ hợp). Đại tiện (lối nói kiêng tránh). Đi vệ sinh. Nhà vệ sinh. Giấy vệ sinh.

 

Qua định nghĩa và các giải thích trên, ta thấy nghĩa của hai chữ vệ sinh rất rộng. Phàm làm việc gì cũng phải giữ cho sạch sẽ. Nhất là những nơi cần thiết thường xuyên sinh hoạt đông người, chúng ta cần phải cẩn thận giữ gìn cho sạch sẽ. Người xưa nói: “Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”. Khi tu học ở đạo tràng ta cần phải gìn giữ và bảo vệ môi trường chung quanh chùa cho sạch sẽ. Sự bảo vệ môi trường chung quanh, là ý thức trách nhiệm chung của mỗi người. Người có ý thức, không nên xả rác hoặc quăng ném rác rến một cách bừa bãi. Khi thấy những đồ vật phế thải dơ bẩn, ta phải lượm nó đem bỏ vào thùng rác. Đó là ta khéo biết giữ gìn vệ sinh chung.

 

Trong những khóa tu học, đạo tràng đều có cử ra một Ban Vệ Sinh. Ban nầy có nhiệm vụ là quan sát và làm sạch những nơi công cộng như : phòng vệ sinh (toilet), phòng tắm, phòng giặt v.v... Nhất là các phòng vệ sinh cần phải giữ gìn cho sạch sẽ. Nơi đây, không riêng gì Ban Vệ Sinh mà mỗi người cần phải tự ý thức giữ gìn. Ta nên biết rằng, sự sống không phải chỉ có ăn, mặc, ở, làm việc, ngủ nghỉ ... không thôi, mà còn phải nhờ đến những thứ khác nữa, nhứt là vấn đề môi sinh. Vì không khí đóng một vai trò rất quan yếu cho sự sống. Thử hỏi không có không khí thì làm sao ta hít thở để sống? Do đó, chúng ta cần phải giữ không khí môi trường chung quanh cho sạch xanh và mát mẻ. Có thế, thì mới đem lại sức khỏe cho mọi người. Đừng nghĩ rằng, mình vứt rác bừa bãi ra ngoài đường mà không ảnh hưởng gì đến mình. Nghĩ thế là sai lầm. Vì tất cả cảnh vật chung quanh đều liên quan mật thiết đến sự sống của ta cả. Vì lẽ đó, nên bảo vệ môi trường chung quanh cũng chính là bảo vệ sự sống của chính mình.

 

Ban vệ sinh có bổn phận quan sát và khuyến khích mọi người phải nên ý thức gìn giữ vệ sinh chung. Bằng cách là làm sạch những nơi công cộng chung quanh chùa. Đó là điều mà Ban Vệ Sinh và mọi người tu học cần phải lưu ý.

 

Ngoài ra, những vị đặc trách làm việc ở khu nhà bếp cũng phải hết sức cẩn thận lưu ý đến vấn đề vệ sinh. Vì nơi đây, là nơi cung cấp thực phẩm cho các khóa tu học cũng như cho những kỳ đại lễ. Đồng thời cũng là nơi cung cấp thức ăn hằng ngày và mỗi chủ nhật hằng tuần cho khách thập phương. Do đó, vấn đề kiểm soát bảo quản thực phẩm cho hợp vệ sinh là một vấn đề tối ư quan thiết. Nếu thực phẩm và việc làm có hợp vệ sinh, thì mới đem lại sức khỏe tốt cho mọi người. Do đó, nên Ban Trai Soạn và Ban Trù Đường phải quan tâm hướng dẫn những vị phụ giúp công việc ở trong nhà bếp. Nên tâm niệm khắc ghi câu châm ngôn: “Gọn, sạch, ngăn nắp, bảo vệ, gìn giữ mọi thứ cho hợp vệ sinh”. Có thế, thì mới đem lại lợi ích chung cho mọi người và cụ thể nhất là cho các khóa tu học vậy.

 

Tảo Địa

Sân chùa quét lá

Một dạ tín thành

Mọi việc an lành

Nhớ câu Phật hiệu.

 

Mỗi khóa tu học, đều có cử ra một Ban Tảo Địa. Ban nầy có nhiệm vụ là làm sạch chung quanh sân chùa. Thường lệ, cứ sau giờ tiểu thực sáng, đều có giờ chấp tác công cộng. Đây là giờ đã quy định cho tất cả các ban đều phải làm việc theo nhiệm vụ của mình. Do đó, nên ban nầy phải nhổ cỏ và quét dọn các nơi cho gọn gàng và sạch sẽ. Trong thiền môn có bài kệ:

 

Thường tảo già lam địa

Thời thời phước huệ sanh

Tuy vô nhơn khách chí

Diệc hữu Thánh nhơn hành

 

Tạm dịch:

 

Siêng năng quét dọn sân chùa

Phước tăng huệ sáng luôn luôn an lành

Dù cho không khách viếng thăm

Lúc nào cũng có Thánh hiền đi qua.

 

Ý của bài kệ không phải chỉ nói ở nơi phần quét dọn bên ngoài không thôi, mà còn nói lên cái yếu lý của sự tu hành quét dọn bên trong nữa. Nghĩa là khi cầm chổi quét rác, ta phải nghĩ trong tâm ta cũng có nhiều thứ phiền não rác rến dơ bẩn. Rác ở bên ngoài dơ bẩn, thì rác trong tâm ta cũng cấu uế không khác. Do đó, ta cần phải quét cho sạch hết những thứ rác rến bên ngoài lẫn bên trong. Có thế, thì phước huệ mới phát sanh. Vì phiền não không có thì tánh giác hay Bồ đề liền hiện khởi.

 

Sự tu hành dẹp trừ phiền não, đâu cần ai biết cho mình, chỉ mình tự biết là được rồi. Cũng vậy, dù không có khách đến viếng thăm chùa, nhưng vẫn có các bậc Hiền Thánh đi qua. Phiền não là dụ cho khách trần, nếu khi không có khách trần phiền não, thì tánh giác tức biểu hiện cho Thánh nhơn xuất hiện. Đó là ý của bài kệ dạy chúng ta phải thật hành cả hai mặt Sự và Lý. Sự là quét bên ngoài; Lý là quét bên trong. Dĩ nhiên, quét rác rến bên ngoài bao giờ cũng dễ quét rác rến phiền não tham, sân, si... hơn bên trong. Nhưng người Phật tử cần phải hiểu và hội thông giữa sự và lý. Và quét rác bên trong mới là điều quan trọng.

 

Do đó, chúng ta cần phải cố gắng quét rác phiền não bên trong. Có thế thì mới được lợi lạc cho sự tu hành của chúng ta. Chớ nếu chỉ biết quét rác bên ngoài không thôi, mà trong tâm không quét, thì biết đến bao giờ ta mới được giác ngộ giải thoát. Người biết tu hành khác hơn người đời là ở chỗ đó. Người đời, họ chỉ biết lo làm sạch ở bên ngoài, còn phiền não nhiễm ô bên trong, thì họ không bao giờ đá động để ý tới. Là người tu hành Phật Tổ dạy chúng ta phải khéo áp dụng cả hai: Sự và Lý phải viên dung.

 

Tôi lo quét lá sân lòng

Tôi không quét lá bao đồng thế gian

Lá lòng còn quá ngổn ngang

Ngày đêm lo quét mới an tấm lòng

Bao giờ hết lá thong dong

Chỉ còn sân trống mới hòng thảnh thơi

Bấy giờ mới thật vui chơi

Bấy giờ mới thật thảnh thơi an nhàn.

 

Tóm lại, quý vị trong Ban Tảo Địa, mỗi khi cầm chổi quét rác, ta nên khởi nghĩ cần phải quét sạch hết cả rác rến bên ngoài cũng như những thứ rác rến phiền não trong tâm ta. Có thường xuyên quét như vậy, thì sự tu hành của ta mới có tiến bộ và mới thực sự có lợi lạc vậy.

 

 

Lời Khuyên Chung

Huyễn Thân

Thân như bọt nước họp rồi tan

Chìm nổi lênh đênh khóc khổ than!

Mấy kẻ nhận ra mình bọt nước

Bao người biết rõ cảnh hoa tàn

Hơn thua phải trái tranh nhau mãi

Cấu xé bon chen lệ ướt tràn

Nầy hởi ai ơi! Mau tỉnh giác

Chóng lo niệm Phật vãng Tây Phang.

Chúng ta thật có duyên lành với nhau trong nhiều đời, nên nay mới được hội tụ trong một đạo tràng để cùng tu cùng học. Hơn thế nữa, lại có một nhân duyên Tịnh độ rất lớn. Nếu không trồng sâu nhân lành Tịnh độ, thì ngày hôm nay chắc chắn là chúng ta sẽ không gặp nhau trong đạo tràng Quang Minh nầy. Nghĩ đến Tịnh nhân đời trước mà ta càng cố gắng tài bồi thêm Tịnh nhân đời nầy càng ngày càng thêm sâu dầy và vững chắc. Nghĩa là càng lúc phát triển càng mạnh.

Nghĩ đến đời người sống chết vô thường trong nháy mắt. Thấy đó rồi mất đó. Khác nào như hạt sương trên đầu ngọn cỏ, nó tan biến bất thường. Sống ngày nay, ai dám bảo đảm được ngày mai. Chúng ta nên nhớ:

Dép dưới giường lên giường vội biệt

Sống ngày nay dễ biết được ngày mai

Mạng người hô hấp kinh thay

Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau.

Thật vậy, sự sống chết của chúng ta chỉ trong tích tắc hơi thở. Nếu khi thở ra mà không hít vô được, nó ngừng ngang đó thì sao? Thì bạn bè sẽ đến chia buồn, phúng điếu trợ niệm, cho chúng ta rồi!. Tổ Quy Sơn nói: “Sanh già bệnh chết không hẹn cùng người, sớm còn tối mất chợt qua đời khác”. Nghĩa là chỉ trong một sát na thôi là ta đã lìa đời! Nhứt là đối với những người trọng tuổi, nay yếu mai đau. Tuổi già như cây thiếu rễ cái. Chỉ cần một cơn gió nhẹ, cũng đủ làm ngã cây rồi. Sự ra đi của liên hữu Tịnh Hội Tâm Lạc, là tiếng chuông thức nhắc chúng ta rất lớn. Liên hữu ra đi không ai có thể ngờ trước được. Hôm qua còn gặp gỡ nói chuyện với mọi người, hôm nay trở thành người thiên cổ. Đời người sống bảy, tám mươi năm, quay đầu nhìn lại in như giấc mộng. Nhắm mắt xuôi tay, tất cả để lại cho đời. Quả thật đời người như bọt nước. “Bọt tan bể khổ bèo đầu bến mê”. Biết thế, nhớ lời Phật Tổ khuyên dạy mà ta chóng lo thức tỉnh tu hành. Hiện chúng ta cũng có chút ít duyên lành nên mới gặp được Phật pháp. Đó là một căn lành và cũng là một phúc duyên hy hữu của chúng ta!

Đạo tràng của chúng ta nhìn lại tóc bạc nhiều hơn tóc xanh. Mỗi người đều nhận những “ lá thơ vô thường” gởi đến tới tắp đều đều. Tóc bạc, da nhăn, răng rụng, tai lảng, mắt mờ, lưng mỏi, tứ chi uể oải, đau nhức, nay bệnh mai đau v.v... Đó là những lá thơ vô thường, thường xuyên cảnh giác chúng ta. Nó báo hiệu hối thúc chúng ta phải luôn ý thức lo tu, không được thờ ơ xao lãng. Hằng ngày, chúng ta cần chuyên tâm niệm Phật. Quý liên hữu niệm Phật công cứ hằng ngày, đó là điều rất tốt cho tích lũy nghiệp. Nhưng còn cận tử nghiệp thì sao? Chúng ta có nghĩ đến cận tử nghiệp hay không? Cận tử nghiệp rất quan trọng khi cái chết đến với chúng ta. Vì tử thần gọi ta đi bất cứ lúc nào. Như vậy, chúng ta cũng phải cần chuẩn bị sẵn sàng. Chuẩn bị bằng cách nào? Cách tốt nhứt là Phật Tổ dạy ta luôn niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi, bất cứ ở đâu, nơi nào, ta cũng luôn để tâm nhớ Phật. Được thế, giả sử ta có ngã ra chết, bất đắc kỳ tử, thì ta cũng không còn lo sợ cận tử nghiệp xấu ác nữa. Nghĩa là, ta không còn sợ “cận tử nghiệp” dẫn ta đi vào con đường đau khổ nữa.

Mỗi lần khóa tu mở ra, được quý liên hữu gần xa hưởng ứng về đạo tràng tu học, dù là dự tu toàn thời, bán thời hay tùy thời gian thuận tiện, tất cả đều có chung một tinh thần ý thức đến sự tu hành rất cao. Điều đó, chúng tôi rất vui mừng. Điều đáng mừng và cảm động nhứt của chúng tôi là khi nhìn thấy quý liên hữu trọng tuổi, có vị tuổi trên tám mươi, thế mà vẫn ghi tên tham dự không bỏ lỡ một khóa tu nào. Không phải dự tu bán thời mà là suốt thời gian 7 ngày. Dù biết trước rằng, chỗ nghỉ ngơi rất là chật chội và thiếu mọi tiện nghi. Nhứt là khóa tu được tổ chức lại rơi vào mùa đông lạnh buốt, như khóa tu hiện nay. Thế mà, quý liên hữu vẫn bất chấp mọi khó khăn, gian lao, mệt nhọc, quyết một lòng đến đạo tràng để dự tu. Đó là một nghĩa cử, một tinh thần ham tu hiếu học thật cao độ. Thật là đáng quý kính biết bao! Quả xứng đáng làm gương cho những người tuổi trẻ.

Sự có mặt đông đủ của quý vị trong khóa tu, nói lên một tinh thần tương thân hòa ái, trong chiều hướng vươn lên tìm lẽ sống đích thực an vui thanh thoát. Đồng thời, đó cũng còn là một khích lệ lớn lao cho chúng tôi trong trách nhiệm đãi lao Hòa Thượng và Thầy Trưởng Ban để hướng dẫn. Mong sao với tinh thần tu học và sự sinh hoạt của đạo tràng mỗi ngày mỗi thăng tiến. Đó cũng là điều mong mỏi của Hòa Thượng Liên Trưởng hằng quan tâm chiếu cố.

Điều quan yếu mà chúng tôi muốn chia sẻ tâm tình cùng quý vị, trong lúc dự tu, dù nhân duyên đến đạo tràng dự tu có sai biệt, nhưng tất cả hãy dồn hết mọi nỗ lực vào việc niệm Phật và hành trì đúng theo thời khóa. Nhứt là mỗi người cần phải giữ tâm cho thanh tịnh. Vì cơ hội tốt không phải lúc nào cũng đến với chúng ta. Mỗi người tự ý thức và nỗ lực lo cho mình, đó là quý vị đã trực tiếp đóng góp cho khóa tu nói riêng và đạo tràng nói chung, một cách tích cực trên đà thăng tiến. Mong sao mỗi người nhớ đến cẩm nang nầy mà hành trì giữ đúng theo, thì đó là quý vị đã tặng cho chúng tôi một món quà vô cùng quý giá.

Kính chúc toàn thể thăng tiến mãi trên bước đường tu niệm. Và luôn để tâm cùng nhau xây dựng đạo tràng ngày càng phát triển lớn mạnh.

Sen vàng nở rộ nơi đây

Đồng tu đồng học sum vầy bên nhau

Ngàn xưa mãi đến ngàn sau

Di Đà luôn nhớ phẩm cao liên đài

Vô thường khó hẹn ngày mai

Nay còn hơi thở chẳng nài nhọc thân

Bạn sen dù ở xa gần

Đạo tràng mở khóa ta cần về tu

Việc đời rối rắm lu bu

Kiếp người ngắn ngủi phù du khó bền

Cùng nhau tay nắm đi lên

Về miền Cực lạc an bền lập thân.

Tịnh Lạc Niệm Phật Đường

Soạn lại xong ngày 21 tháng 7 năm 2011

Nhằm ngày 21 tháng 6 năm Tân Mão.

Thích Phước Thái

 

Mục Lục

Lời đầu sách

Vài nét quá trình sinh hoạt đạo tràng Quang Minh

I. Một Đạo Tràng Lý Tưởng

- Thế nào là đạo tràng?

II. Dựa Trên Mô Thức Nào để Xây Dựng Đạo Tràng

III. Những Yếu Tố Căn Bản Xây Dựng Đạo Tràng Hiện Tại.

  1. Nội Quy.
  2. Tình Thương ChânThật.
  3. Khung Cảnh Tươi Mát Thanh Nhã.
  4. Lắng Nghe, Hiểu và Cảm Thông.
  5. Dùng Lời Ái Ngữ Khi Giao Tiếp.
  6. Chào Nhau Trong Niềm Trân Kính.
  7. Giữ Nụ Cười Theo Bước Chân Đi.
  8. San Sẻ Công Việc.
  9. Tình Bạn Sen.

IV. Những Nét Sinh Hoạt Trong Thâm Tình Bạn Sen.

  1. Thăm Viếng.
  2. Hướng Dẫn Các Bạn Sen Mới.
  3. Sinh NHật.
  4. Chúc Thọ.
  5. Hộ Niệm.
    1. Các Khóa Tu.
  6. Những Khóa Lễ Đặc Biệt.
  7. Văn Nghệ.
  8. Sinh Hoạt Ngoài Trời.
  9. Khu Nhà Bếp.

V. Kiên Nhẫn.

VI. Bất Thối Chuyển.

VII. Đối Chiếu Sự Dị Đồng Giữa Ta Bà Và Cực Lạc

1. Khác nhau về Danh Xưng và Cảnh Vật.

 a. Khác nhau về danh xưng.

 b. Khác nhau về cảnh vật.

- Đất báu.

- Ao báu.

- Cây báu.

- Lầu báu.

- Tòa sen báu.

 2. Khác Nhau Về Đời Sống Của Nhân Dân.

 a. Khác nhau về thai sanh.

 b. Khác nhau về thân thể.

 3. Khác Nhau về Phần Thọ Dụng.

 a. Ăn mặc tùy ý thích.

 b. Tiêu hóa tự nhiên.

 c. Điều kiện tất yếu để được vãng sanh.

 4. Khác Nhau về Tâm Tánh Và Thần Thông.

 a. Tâm tánh thuần thiện.

 b. Thần thông tự tại.

 5. Khác Nhau Về Công Việc Thường Ngày.

 a. Cúng dường chư Phật.

 b. Thọ thực kinh hành và tịnh niệm.

 6. Khác Nhau về Đức Vị

 a. Nhứt sanh bổ xứ.

 b. Thắng duyên kỳ diệu.

Cẩm Nang Tu Tập

Lời đầu tập

Đạo tràng 

Thọ giới 

Chánh niệm 

Bớt nói chuyện 

Vào điện Phật 

Lễ bái trì danh

Kinh hành – niệm Phật 

Thắp nến niệm Phật 

Nghe chuông 

Chắp tay 

Trai đường 

Thiền hành 

Nghe pháp 

Ngủ nghỉ 

Thức dậy 

Sức khỏe 

Nhà bếp 

Rửa bát

Vệ sinh

Tảo địa. 

Lời khuyên chung 

 

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ ba đường

Nếu có ngườì thấy nghe

Đều phát lòng Bồ Đề

Hết một báo thân này

Sanh qua cõi Cực Lạc

Nam mô A Di Đà Phật

DEDICATION OF MERIT

May the merit and virtue

accrued from this work

adorn Amitabha Buddha’s Pure Land,

repay the four great kindnesses above,

and relieve the suffering of

those on the three paths below.

May those who see or hear of these efforts

generate Bodhi-mind,

spend their lives devoted to the Buddha Dharma,

and finally be reborn together in

the Land of Ultimate Bliss.

Homage to Amita Buddha!

NAMO AMITABHA

 

*****

 

Published by:

Quang Minh Temple

18 Burke St, Braybrook,Victoria 3019 Australia

Tel: 61 3 9312 5729

Fax: 61 3 9311 0278

Email: thichphuocthai@gmail.com

Website: http://www.quangminh.org.au

National Library of Australia Cataloguing-in Publication entry:

ISBN 978-0-9803726-0

MỘT ĐẠO TRÀNG LÝ TƯỞNG

Thích Phước Thái @2011

First edition 2011

500 copies

******************************************

Editor: Thích Phước Thái

Proof Reader: Thích Phước Viên

Cover Designer : Thích Phước Quảng

Book Designer: Hồ Sĩ Trung

 

***

Chân thành cảm tạ Thầy Phước Thái & Thầy Phước Viên đã gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử tập sách này (T.Nguyên Tạng, 1-6-2014)

 

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567