Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Duy Viên

21/07/201207:45(Xem: 8373)
03. Duy Viên

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
có so sánh với tiếng Nhật

III. Những bản văn dịch (từ tiếng Nhật sang tiếng Đức)

3. Duy Viên

3.1 Thán Dị Sao

3.1.1 Lời nói đầu

Nếu tôi thuật lại với tính cách giới hạn của quá khứ và hiện tại thì tôi chỉ có thể gióng lên một phần về tín tâm mà Ngài Thân Loan đã nói ra từ chính cửa miệng của Ngài và được truyền lại. Bởi vì tôi nghĩ rằng những kẻ hậu học sẽ có sự nghi ngờ và nếu không có cơ duyên tốt thì sẽ không gặp được những người trí thức thì khó mà vào được một cửa và sẽ hiểu sai về tha lực. Do vậy, tôi tóm lược lại ngắn gọn những ngôn từ của Ngài Thân Loan, giống như tiếng nói của Ngài còn vọng lại nơi tai của tôi, để tạo nên niềm tin cho những người cùng chí hướng khỏi sự nghi ngờ.

(Bản dịch phần trên nầy dựa theo câu văn tiếng Đức “buch der Klage ueber die Haeresien” của Christian Steineck, có đối chiếu với bản tiếng Nhật Tannisho của Yuien. Phần phía dưới của mỗi chương, dịch thoát từ tiếng Nhật sang tiếng Việt tác phẩm “Tannisho o ikikata” của Yamagaki Tyoomyoo).

3.1.2 Chương mở đầu

Lắng đọng tâm tư lại trong hiện tại để suy nghĩ về Ngài Thân Loan Thánh Nhơn lúc còn tại thế, với tín tâm được trực tiếp truyền lại từ Ngài Thân Loan Thánh Nhơn, thì đa phần đã có nhiều sự sai biệt, nên phải than lên như vậy.

Với việc như thế; ngày sau nầy chẳng phải chẳng có sự hỗn loạn và những nghi ngờ giữa những người thuộc Chân Tông Niệm Phật sao? Đây là điều phải lo lắng vậy.

Với thân mệnh nầy, đã có nhân duyên, mà nếu chẳng được hướng dẫn bởi Thầy mình thì làm sao có thể sống với thế giới quảng đại của Đức Phật A Di Đà được (con đường của bổn nguyện tha lực). Tự mình hiểu rõ được lời dạy ấy, nên đã lấy lời dạy kia làm kim chỉ nam cho việc sống trong thế giới của Đức Phật A Di Đà. Từ đó, ngày nay nói lại những lời dạy của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn, qua nơi tai của chính tôi nghe còn sót lại những điều quan trọng, nên nghĩ rằng phải viết tóm lược để lại ngày sau.

Bởi vì tôi nghĩ rằng: dẫu sao cũng có thể giải tỏa được ít nhiều những nghi ngờ của những vị đồng tu đang cùng sống và thực hành trong thế giới rộng rãi của Đức Phật A Di Đà.

3.1.3 Chương thứ nhất (dịch từ tiếng Đức có đối chiếu với tiếng Nhật)

Trong khi ở tâm thức bừng tỉnh, khi chúng ta tin vào việc niệm Phật để được vãng sanh qua sự cứu giúp bất tư nghì về lời thệ nguyện của Đức Di Đà, thì chúng ta đều hiểu rằng: qua sự lợi ích của việc bất xả ấy và qua bổn nguyện của Đức Di Đà không kể đến già trẻ và thiện ác. Điều cần yếu chỉ là niềm tin và mục đích của niềm tin ấy là cứu giúp cuộc đời và làm giảm thiểu những tội ác sâu xa cũng như những phiền não đang đốt cháy chúng sanh. Nếu tin tưởng vào bổn nguyện đó thì chẳng cần cái tốt khác được, vì cái thiện chẳng có; qua sự niệm Phật, cái ác cũng chẳng còn. Những việc xấu ác kia qua bổn nguyện của Đức Di Đà sẽ chẳng bị ảnh hưởng.

3.1.4 Chương thứ nhất (Dịch thoát từ bản tiếng Nhật)

Không cần nói đến tuổi tác, thiện ác khi cứu độ.

Hoàn toàn sẽ được hạnh phúc, nếu chúng ta nương theo sự rộng lớn của thế giới và qua lời thệ nguyện cứu khổ nhân gian sẽ được an ổn. Với thế giới tự nhiên, tin rằng sự vãng sanh về Tịnh Độ, khi phát ra việc xưng danh hiệu của Đức Phật A Di Đà thì việc cứu giúp con người của chúng ta sẽ được thành tựu.

Đối với lời dạy của Đức A Di Đà (Túc nguyện) chẳng kể đến tuổi tác của con người và ngay đến cả việc lành dữ. Bởi vì nếu có niềm tin chân thật sâu xa nơi Đức A Di Đà mới là điều vô cùng quan trọng. Vì sao vậy? Túc nguyện của Đức A Di Đà là nguyện cứu chúng ta ra khỏi những sự trói buộc của phiền não và dục vọng cũng như ra khỏi những tội lỗi mà chúng sanh đang sống nơi ấy.

Đồng thời với những ai sống theo lời dạy nầy cũng chẳng cần phải thực hiện theo điều lành. Vì sao vậy? Vì những việc lành ấy đã vượt qua khỏi, do sống theo lời dạy niệm Phật của Đức Phật A Di Đà.

Lại nữa, Đức A Di Đà Như Lai khi cứu khổ những việc to lớn, cũng chẳng để ý đến những việc ác. Chẳng nên suy nghĩ về điều nầy. Lý do là tất cả những sự lành dữ đã vượt qua khỏi tất cả so với thế giới sâu xa rộng rãi của Đức Phật A Di Đà. Điều ấy đã hòa tan vào thế giới mà Ngài Thân Loan đã tin tưởng.

3.1.5 Chương thứ hai (Dịch từ tiếng Đức)

Quí vị đã trải qua hơn 10 tỉnh lỵ với sự nguy hiểm đến tánh mạng, để tìm đến thăm tôi và tìm hỏi về việc vãng sanh về Cực Lạc. Đó là một lỗi lầm về niềm tin. Tôi chẳng còn biết cái gì khác hơn con đường vãng sanh qua sự niệm Phật; hay hiểu biết về những văn tự khác nữa. Nếu là như thế thì nên tìm đến Nara và núi Tỷ Duệ; vì nơi ấy có nhiều học giả hướng dẫn về việc quan yếu của việc vãng sanh. Còn đối với Thân Loan nầy chỉ có tin vào sự niệm Phật A Di Đà, không còn lý do nào khác nữa. Như tôi đã tin tưởng vào Thầy tôi là Ngài Pháp Nhiên và Ngài đã dạy rằng: hãy chỉ tin đức A Di Đà và con sẽ được cứu khỏi.

Có thể niệm Phật là hạt nhân để ươm trồng nơi Tịnh Độ, cũng có thể là việc làm để rơi vào địa ngục. Hãy nên rõ biết những điều nầy. Tôi cũng đã chẳng tin rằng nơi chính tôi được cứu bởi Pháp Nhiên Thánh Nhân qua việc thực hành việc niệm Phật mà bị rơi vào địa ngục; với tôi qua việc làm của chính tôi để thành Phật nhưng qua sự niệm Phật ấy nơi địa ngục thì tôi chắc chắn phải trải qua việc sai quấy ấy. Thế nhưng là con người như tôi, với việc ấy chẳng thể bất cứ cái gì tốt phải làm trọn thì việc ở địa ngục dầu sao đi nữa cũng là việc đương nhiên. Nếu qua bổn nguyện của đức A Di Đà mà đức Thích Tôn đã chẳng dạy một lời trống rỗng thì lời dạy của đức Phật cũng đúng; như vậy thì Thiện Đạo chẳng sai về hư ngôn nầy. Trong trường hợp đúng với lời bàn của Thiện Đạo thì nó cũng chẳng khác với giáo lý của Pháp Nhiên. Nếu lời dạy của Pháp Nhiên là chân thật thì với tôi Thân Loan có thể nói chẳng là sự thật chăng? nếu là vậy thì nói ngắn gọn với niềm tin của tôi đã gặp. Từ đó hãy suy nghĩ là việc nầy còn giữ lại nơi quí vị, hay là quí vị gìn giữ sự niệm Phật và tin tưởng vào đó; hoặc là từ bỏ nó…

3.1.6 Chương thứ 2 (dịch thoát từ tiếng Nhật)

Nơi địa ngục là nhà của tôi với tội sâu dầy. Tất cả mọi người trải qua 10 tỉnh như: Thường Lục, Hạ Tổng, Tương Mô, Y Đậu, Viễn Giang, Tam Hà, Vĩ Trương, Y Thế, Cận Giang, Sơn Thành không lo ngại đến thân mạng tìm đến thăm tôi với tâm nguyện chỉ muốn hỏi về phương pháp cứu khổ chân thành.

Tuy nhiên với tôi, Thân Loan nầy chỉ tin theo lời dạy của Đức A Di Đà, chỉ niệm Phật từ tâm nầy; ngoài ra chẳng rõ biết một phương pháp nào khác nữa. Nếu muốn nghe về việc nầy thì quả là điều nhầm lẫn lớn. Nếu có những câu hỏi như vậy thì nên gặp những vị học giả nổi tiếng tại Nara và Tỷ Duệ Sơn để hỏi, tìm sự cứu khổ và nghe họ thì tốt hơn.

Đối với Thân Loan nầy đã thường nói: “chỉ có việc sanh về thế giới vĩ đại của Đức A Di Đà Phật.” Tôi chỉ một lòng tin nơi lời dạy của Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân, ngoài ra chẳng có lý do nào khác cả. Kết quả lời dạy của Đức Di Đà là chẳng có tự ngã, chỉ riêng tôi là con đường được cứu sao? Hay là vĩnh viễn chẳng cứu cảnh giới nào cả. Hay vào nơi địa ngục tôi cũng chẳng biết gì cả, cho nên từ đó với Pháp Nhiên Thượng Nhân đã đăm chiêu là sanh về thế giới của Phật A Di Đà và dẫu cho niệm Phật mà có rơi vào địa ngục đi nữa thì với tôi là kẻ hậu bối hoàn toàn chẳng lo, con đường chỉ có một mà thôi.

Vì sao thế? Ngoài lời dạy của Đức Phật A Di Đà về kẻ có thể trở thành Phật mà nếu kẻ ấy bị rơi vào địa ngục thì qua lời dạy của đức Phật A Di Đà sẽ hối hận rằng: “đã xong! Hãy mặc nhiên” thế nhưng dẫu cho có dạy như thế nào đi chăng nữa, với việc tu hành ấy cũng chẳng thể thành Phật được. Bởi vì với tôi là kẻ chẳng hoàn toàn không có tự ngã. Nguyên nơi địa ngục ấy, chính do việc làm của tôi mà phải vào sống nơi nhà ấy. Việc cứu giúp của Đức Phật A Di Đà cho con người do lời thệ nguyện cứu giúp nhân gian. Nếu bổn nguyện ấy là chính, thì qua lời dạy ấy đức Thích Tôn chẳng nói lời hư ngụy. Nếu lời dạy của Thích Tôn là đúng, thì Ngài Thiện Đạo (613-681) là Đại Thành Giả về Tịnh Độ của Trung Quốc cũng đã nói rằng: lời dạy của Đức Phật A Di Đà chẳng phải là hư dối. Nếu sự giải thích về Phật Pháp của Ngài Thiện Đạo là đúng thì Ngài Pháp Nhiên (1133-1212) cả cuộc đời của mình đã chỉ nguỡng vọng Ngài Thiện Đạo, chẳng phải là như vậy sao? Lại nữa, nếu Ngài pháp Nhiên nói những lời chân thật thì so với Pháp Nhiên, Thân Loan cũng nói lời chẳng hư dối vậy.

Cuối cùng đối với lời dạy của đức Phật A Di Đà là niềm tin thể hiện nơi tự thân của tôi, chính là điều mà hơn thế nữa, tôi phải sống từ niềm tin giống như qua lời dạy của Phật A Di Đà hay sao? Hoặc giả đối với việc ấy tôi chẳng tùy thuận, là điều chẳng hiểu được. Hay là phải vứt bỏ lời dạy kia? tất cả mọi người hãy tự mình quyết định điều ấy. Như vậy, đây mới chính là điều ngưỡng vọng của Thân Loan.

3.1.7 Chương thứ 3 (dịch từ tiếng Đức)

Dĩ nhiên là người lành sẽ được vãng sanh và ngay cả người ác cũng như vậy. Người ta thường nói rằng: “ngay cả người ác cũng được vãng sanh huống gì là người làm lành”. Điều nầy đã cho thấy rõ rằng sự tương phản, thế nhưng với cái nghĩa của bổn nguyện, giải thoát qua tha lực. Bởi vì với con người, tạo ra hành động tốt bởi chính mình, nó chẳng nghĩ đến tha lực và điều nầy không phải là bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Nếu người ta xây dựng niềm tin nơi tự lực và tin tưởng vào tha lực thì người ấy sẽ sanh vào Tịnh Độ. Bởi vì Đức A Di Đà thấy với cả tình thương, rằng chúng ta, những người đầy phiền não chẳng thể tự rời khỏi vòng sanh tử nên Ngài đã phát nguyện với bổn ý rằng: ngay cả người ác cũng có thể thành Phật được. Qua sự trợ lực của tha lực thì cái ác kia cũng là cái thánh nhân để được vãng sanh bởi vì với lời dạy rằng: khi người lành được sanh về Tịnh Độ thì ngay cả người ác cũng vậy.

3.1.8 Chương thứ 3 (dịch thoát từ tiếng Nhật)

Cứu độ chẳng phân biệt người nào, người được gọi là người lành nghĩa là kẻ được đức Phật A Di Đà cứu độ, mà ngay cả người xấu ác như tôi vẫn được đức Phật A Di Đà thật tâm cứu khỏi cái khổ cũng là việc đương nhiên. Ở đây người đời thường bảo: “kẻ tạo ác với đầy đủ cả phiền não cũng được đức Phật A Di Đà cứu độ; cho nên người lành được cứu là chuyện đương nhiên rồi”.

Như vậy thì tương ưng với sự suy nghĩ nầy và sẽ hợp với đạo lý; nhưng trên thực tế thì Đức Phật A Di Đà cứu tất cả mọi người; qua lời nguyện cứu sanh mệnh. Đặc biệt nếu theo tinh thần của bổn nguyện là giải phóng con người ra khỏi sự nghèo khổ thì phải nói là điều kỳ dị. Vì sao vậy? vì chính tự mình làm những việc lành (thiện căn) và tích chứa, với người thiện ấy nghĩ rằng do sự tự giác có thể thành Phật được. Còn với lực cứu độ (bổn nguyện lực) của Đức Phật A Di Đà hoàn toàn chẳng để ý đến; như vậy với kẻ nghèo hèn kia, tinh thần của tha lực bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà hoàn toàn chẳng ảnh hưởng đến họ.

Tuy nhiên với người làm lành, và ngay cả người tự lực, với chính cái lực của chính mình do tâm tự giác to lớn ấy, và nếu tâm kia chẳng cần nhờ sự quảng đại của Đức Phật Di Đà để được sanh về thế giới của Phật thì chắc hẳn sẽ phá tan cuộc đời u ám ấy, và sẽ được sanh về thế giới chân thật sáng sủa kia.

Sanh về đó với đầy cả dục vọng và chính mình không thể dứt trừ được sự mê lầm. Nhìn thấy tâm hồn khốn khổ của nhân gian, đức Phật A Di Đà thương cảm, đã phát nguyện cứu độ chúng sanh, ngay cả với người ác cũng được cứu giúp là mục đích chính và dùng cái lực của Đức Phật A Di Đà (tha lực) để cả người ác ấy cũng phải do bổn nguyện của Đức Phật đầy đủ điều kiện để được vãng sanh.

Như vậy chúng ta phải nói rằng bởi vì cứu độ người lành, cho nên với tự ngã của con người nghèo khốn vẫn được cứu như thường. (Lời nói nầy ngay cả ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân cũng đã nói như vậy).

3.1.9 Chương thứ 4 (dịch từ tiếng Đức)

Từ bi và Thánh đạo có sự sai khác giữa con đường Thánh và Tịnh Độ. Với từ bi của Thánh đạo là thể hiện sự tin tưởng vào căn bản của thế giới tự lực nầy; thế nhưng điều ấy chẳng thể được; thật tế phải để tâm cứu giúp như thế nào, còn Từ Bi của Tịnh Độ là qua sự niệm Phật có thể thành Phật một cách mau chóng. Với tâm đại từ, đại bi, làm cho chúng sanh được lợi ích và chắc chắn sẽ mang đến được. Như quí vị biết chúng ta sống trong thế giới nầy giống nhau, dẫu cho chúng ta có bao nhiêu cố gắng theo sau lời nguyện ước để được cứu giúp; ngược lại với tình thương ấy của chúng ta chỉ có một nửa. Cho nên nếu riêng chỉ việc niệm Phật đầy nơi tâm thức thì tình thương ấy sẽ trọn vẹn.

3.1.10 Chương thứ 4 (dịch thoát từ tiếng Nhật)

Chẳng thể cứu độ con người cũng giống nhau, cũng có người hay thường nghĩ rằng: Từ Bi là căn bản của Phật Pháp nhưng từ bi ấy lại có 2 cách. Dẫu thế nào đi chăng nữa thì khả năng của tự lực để thể hiện sự chân thật qua việc nỗ lực đối với Phật Pháp qua tình thương đối với con người thì với cái khổ ấy con người muốn tạo ra hạnh phúc chân thật. Thế nhưng với chúng ta là một con người trong thế gian nầy với cái dục nguyên vẹn của con người mà tạo ra được hạnh phúc thì là vấn đề chẳng thể được, chỉ có tính cách giới hạn mà thôi.

Mặc khác với người sống, cuộc đời được hướng dẫn qua lời thệ nguyện chân thật của Đức Phật A Di Đà thì sẽ vượt lên trên sự mê mờ; với tha lực ấy ta sẽ sống tỉnh thức từng bước đi, thỉnh thoảng nghe lời dạy của đức Phật A Di Đà, ta xưng tụng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật từ cửa miệng để cảm tạ sự cứu độ ấy. Chẳng phải là tự lực của ta mà ta phải luôn nhớ rằng sống cuộc đời hạnh phúc ấy là do lực của Phật Pháp và là sự chân thật to lớn. Chỉ lấy làm tiếc rằng với con người, vì là kẻ chẳng hoàn toàn; cho nên với thân nầy phải nghĩ rằng: “tôi nguyện chừa! chẳng sáng sủa gì”. Nếu người ấy suy nghĩ như vậy thì việc cứu độ cũng khó được. Bởi vì sự suy nghĩ ấy chẳng triệt để.

Đồng thời qua sự tin thuận về lời dạy của Đức Phật A Di Đà, chúng ta niệm Nam mô A Di Đà Phật, với lực từ bi to lớn của đức Phật A Di Đà thì chẳng gì có thể sánh bằng cả. Đó là sự ngưỡng vọng của Thân Loan Thánh Nhơn.

3.1.11 Chương thứ năm (dịch từ tiếng Đức)

Tôi (Thân Loan) chẳng có phút giây nào niệm Phật vì sự hiếu dưỡng đối với cha mẹ cả, hơn thế nữa vì tất cả các loài hữu tình đời đời đều là cha mẹ anh em; cho nên với họ phải tuần tự cứu họ trong cuộc đời tới sẽ thành Phật.

Với việc làm thiện chúng ta mong mỏi đem tự lực của mình để tạo ra công đức mà hồi hướng niệm Phật cho cha mẹ. Thế nhưng với tự lực kia chẳng có thể, chỉ khi nào chúng ta thay đổi con đường giải thoát bằng tự lực ấy thì mới có thể mau giác ngộ hơn. Giữa những loài trong sáu đường và bốn loại, vì nghiệp khổ còn đeo đuổi mà dùng phương tiện thần thông để độ cho những người hữu duyên.

3.1.12 Chương thứ năm (dịch thoát từ tiếng Nhật)

Niệm Phật chẳng có phương pháp chẳng phải là cách để tỉnh ngộ. Với Thân Loan nầy vì hạnh phúc cho cha mẹ, sau khi những người nầy đã mất, chỉ một lần thôi, từ cửa miệng nầy vẫn chưa niệm được câu Nam mô A Di Đà để cúng dường.

Với lý do ấy tất cả chúng sanh đều có sự liên hệ; những ai sanh ra trong đời nầy đều thay đổi khi sanh và khi chết. Khi làm cha mẹ, khi làm con cái, khi làm anh em. Với tâm nguyện nầy khi tôi lâm chung, tin tưởng và làm theo sự tự giác to lớn kia để trở thành Phật và bởi vì với sự cứu độ con người của Đức Phật cho tất cả đều bình đẳng; cho nên quyết định rằng cha mẹ tôi cũng sẽ được cứu độ.

Nếu tự tôi xưng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật bằng sự tự lực của chính mình qua hành vi ấy thì với công đức niệm Phật kia có thể cũng cứu được cha mẹ tôi không ? tuy nhiên niệm Phật là do từ lực của đức Phật A Di Đà khiến tôi niệm, chứ chẳng phải là do hành vi lành của tự mình tích chứa được. Điều nầy chẳng thể được là vậy,

Đồng thời tự lực của mình phải xa lìa quan niệm về sinh mạng, quan niệm về cha mẹ có tính cách lấy tự kỷ làm trung tâm, thì sẽ đạt được trí tuệ chân thật của Phật. Những người bị rơi vào sự luân hồi khổ sở trong thế giới mê mờ của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh thì với trí tuệ to lớn ấy cùng với nhân duyên sâu dày đã làm cho những chúng sanh kia thoát ra khỏi cái khổ và được tự tại. Điều nầy chính Thân Loan Thánh Nhơn đã ngưỡng vọng.

3.1.13 Chương thứ sáu (dịch từ tiếng Đức)

Chẳng có một ý nghĩa nào cả, nếu những người chuyên tu niệm Phật luận tranh luận với nhau họ là đệ tử của tôi hay đệ tử của người khác. Bởi vì nếu tôi dùng đến tự lực của một người để niệm Phật, thì có thể hắn ta là học trò của tôi, điều ấy quả là khờ dại (vì tôi không có người đệ tử nào cả). Con người khi gặp nhau vì do nghiệp duyên mang đến và duyên kia giã từ họ, nếu nghiệp kia đã xa lìa. Do vậy chẳng thể nói rằng: “Ai đã thay đổi Thầy mình và niệm Phật với người khác thì chẳng thể vãng sanh”. Điều nầy chẳng thể nói được. Chúng ta chỉ có thể tin tưởng nơi Đức Như Lai như lấy một vật và trả lại vật đó. Tôi nhấn mạnh rằng: Điều ấy chẳng có thể. Ai với sự tự nhiên của vật ấy quá tin tưởng, nên hiểu rằng, nơi ấy hắn ta nên tạ ân Phật và cũng vậy, nơi ấy hắn ta có bổn phận với Thầy mình.

3.1.14 Chương thứ sáu (dịch từ tiếng Nhật)

Chẳng có cái gì là vật riêng của con người.

Nếu con người thuận tin theo lời dạy của Đức Phật A Di Đà và từ tâm kia vừa niệm Nam Mô A Di Đà Phật chung với những người trong ấy và nếu chấp trước rằng: người ấy là đệ tử của tôi, người nầy là đệ tử của người kia và khởi lên sự tranh luận giữa đệ tử nầy và đệ tử khác. Như vậy cả một sự sai lầm. Đó chính là việc riêng của con người vậy.

Với Thân Loan nầy; người nào nghĩ rằng: “đệ tử của tôi, thì chẳng có một người nào cả. Vì sao vậy? Vì nếu dùng tự lực qua lời dạy của Phật A Di Đà để có được nhiều người niệm Phật. Nếu được như vậy thì có thể gọi đây là đệ tử. Tuy nhiên những người nhờ sống dưới sự giáo dưỡng của Đức Phật A Di Đà, họ là đệ tử của mình sao? Những việc như vậy, chẳng phải là điều khờ khạo sao? chắc là như vậy”!

Với chúng ta, với người kia còn nhân duyên thì cùng nhau tiến bước và nếu duyên kia chẳng còn nữa thì đi đường khác vậy. Chẳng thế thì: “bỏ Thầy mình rồi tin tưởng nơi lời dạy của người khác. Nếu niệm Phật như vậy thì chẳng được cứu độ”. Đây là điều hoàn toàn kỳ lạ, lời dạy ấy ở phía sau lại cắt đứt đi. Những người như vậy có niềm tin với riêng mình rằng đức Phật Di Đà giúp cho mình được tỏ ngộ, nhưng đó chỉ là sự thay đổi mà thôi, phải nghĩ như vậy. Việc ấy hẳn nhiên đã gặp phải.

Chúng ta phải vượt lên khỏi cái tự kỷ có tính cách trung tâm ấy. Nếu ai thành tựu với việc tự nhiên ấy thì chính tự họ nhận được ân huệ qua lời dạy của đức Phật, có cảm giác vui mừng. Lại nữa với sự dạy dỗ truyền đạt một cách rõ ràng của vị Thầy cũng là một việc tự nhiên cần nên biết. Điều ấy Thân Loan Thánh Nhơn đã ngưỡng vọng.

3.1.15 Chương thứ bảy (dịch từ tiếng Đức)

Niệm Phật là một con đường vô ngại.

Nếu ai tin tưởng như vậy thì với người thực hành tín tâm ấy sẽ chẳng có chướng ngại, với Thiên Thần, Địa Kỳ cũng đều kính phục, cả ma giới và ngoại đạo cũng không làm trở ngại. Cả nghiệp báo và tội ác cũng không cảm được. Những việc thiện kia cũng chẳng đến nữa. Bởi vì niệm Phật là một con đường vô ngại.

3.1.16 Chương thứ bảy (dịch từ tiếng Nhật)

Con người sống trong sự chẳng lo âu.

Sống chân thật với đức Phật A Di Đà. Nếu người nào xưng danh Nam mô A Di Đà Phật một cách hoan hỷ từ tâm mình và sống với chính điều ấy thì cái khổ của con người trên đời nầy, cái buồn lo sẽ chẳng còn nữa. Đó là những người sống với thế giới thật, đã vươn cao. Điều ấy gọi là một con đường chẳng có chướng ngại. Vì sao vậy? Với những người sống như thế thì ngay cả trời đất cũng tôn kính những người sống như vậy. Sự tồn tại của ma sẽ thay đổi qua những người sống với lời dạy ấy. Cảnh sống ấy của họ, tà ma sẽ chẳng hại được. Lại nữa với những người có cảnh sống như thế thì chẳng còn nhận tội báo của việc lành hay dữ nữa. Cho nên chẳng cần phải cứu độ. Dẫu cho việc ác, việc thiện của chúng ta, con đường cứu độ chẳng còn liên hệ gì nữa cả. Vì sao vậy? Vì việc ác đã bỏ, việc lành đã siêng năng thì chẳng cần cứu nữa. Đó chẳng phải là thế giới của đức Phật A Di Đà sao?

3.1.17 Chương thứ tám (dịch từ tiếng Đức)

Đối với hành giả niệm Phật chẳng phải làm, chẳng là việc thiện.

Nếu cái gì đó chúng ta chẳng qua việc làm thì chúng ta gọi là chẳng thực hành và một việc làm tốt, chúng ta cũng chẳng làm thiện thì chúng ta cũng gọi là chẳng tốt. Nếu niệm Phật với tha lực và không còn tự lực nữa thì đó chính là hành giả chẳng làm và cũng chẳng thiện đối với niềm tin.

3.1.18 Chương thứ tám (dịch từ tiếng Nhật)

Niệm Phật đối với tôi chẳng phải là căn lành.

Nếu thuận tin theo lời dạy của Đức Phật A Di Đà, với kẻ sống và niệm Nam Mô A Di Đà, xưng danh hiệu ấy hoan hỷ thì việc niệm Phật ấy chẳng phải là điều trở thành vị Phật của chính mình. Đồng thời để trở thành Phật, đó cũng chẳng phải là hành vi của tự thân nữa. Thành Phật là do vì việc lành cũng chẳng phải là việc làm của tự thân, cũng chẳng phải là việc làm lành, mà từ Đức Phật A Di Đà đã đưa cho ta đến. Đó chính là ân huệ vậy.

Khi ta đến được là do ân đức chân thật của đức Phật A Di Đà Như Lai và ngay cả những hành vi chẳng hoàn hảo của tự thân của chúng ta, hoàn toàn lìa khỏi. Tin theo lời dạy ấy, chỉ xưng tán và với ta, chẳng có hành vi nào là của mình và ngay cả cái lành riêng cũng chẳng có.

Chỉ duy nhất, nếu niệm A Di Đà Phật hoàn toàn với cái ta không còn thì đó chính là việc làm của tha lực và đó cũng chính là tính chất của việc lành thuộc tha lực vậy.

3.1.19 Chương thứ chín (dịch từ tiếng Đức)

Khi tôi hỏi Ngài Thân Loan rằng: “nếu chính con nói về niệm Phật thì ngay chính con đã chìm vào trong niềm vui ấy và con có thể nhảy múa được và lại chẳng muốn mau sanh về Tịnh Độ. Việc ấy có thể chăng?” Ngài trả lời rằng: “với Thân Loan nầy cũng có tình trạng tâm thức như con, Duy Viên Phòng cũng vậy. Nhưng nếu ta suy nghĩ kỹ về việc nầy thì ta tin rằng khác hơn thế nữa, việc vãng sanh là chuyện chắc thật; nếu chính chúng ta chẳng vui về điều ấy; nơi mà niềm vui đến tận cả trời đất đi nữa. Bởi vì do những việc ấy nên tâm chúng ta phiền não không khởi lên được niềm vui. Nếu ngay cả đức Phật biết được và vì đó mà nói về sự đầy phiền não của kẻ phàm phu thì sẽ cố vượt khỏi nhờ bi nguyện của tha lực, có thể giải thoát khỏi nhờ tha lực kia, và điều nầy được làm cho chúng ta và vì vậy chúng ta có thể tin chắc vào điều nầy; xa hơn nữa phiền não và khổ đau vẫn tiếp tục làm chỗ nương tựa, mà chúng ta chẳng mau ra khỏi để đến Tịnh Độ và rồi thì bởi một căn bệnh nhỏ của sự phiền não trong tâm uy hiếp đến sự chết. Nó sẽ vây quanh ta kể cả những việc cũ, nơi ngôi nhà khổ đau kia; nơi đó chúng ta đã sống lâu dài, đi và trở lại, chẳng muốn từ bỏ và cũng chẳng muốn được lên nơi Tịnh Độ; nơi đó chúng ta đã chẳng hề có mặt. Như thế chúng ta cũng vẫn còn muốn trói buộc nơi những sự hưng thạnh xưa cũ của thế giới phiền não nầy. Nếu nghiệp duyên đã hết ở cõi Ta Bà nầy, chẳng còn lực nào nữa thì chúng ta phải đi đến một thế giới khác. Đức A Di Đà nhìn ta với tấm lòng đại bi đại nguyện, mà chúng ta chẳng muốn mau vãng sanh. Cho nên các ngươi nên dựa vào ngay lòng từ ấy và lời thệ nguyện to lớn kia để cảm nhận cũng như tin tưởng, thì việc vãng sanh của các ngươi sẽ chắn chắn. Khi mà tâm các ngươi vượt qua sự hỷ lạc và các ngươi mong muốn mau được vãng sanh thì những phiền não kia sẽ dứt trừ; bởi vì điều ấy có thể là vì những việc không ổn.”

3.1.20 Chương thứ chín (dịch thoát từ tiếng Nhật)

Sự mừng vui của con người hãy mau xa rời.

Bởi vì khi nghe về sự chân thật của đức Phật A Di Đà và dẫu cho có niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật thì việc cứu độ qua sự vui mừng nhảy múa ấy dường như chẳng còn mong nữa. Lại nữa việc mong mỏi trở về thế giới nhanh chóng cũng không muốn. Việc nầy chẳng biết thực tế như thế nào? Chúng ta thử tìm hiểu việc nầy.

“Tôi với Thân Loan nầy điều hoài nghi vẫn còn mang theo, còn con! Duy Viên Phòng cũng mong theo giống hệt như vậy. Nếu suy nghĩ thật là kỹ thì từ xa xưa kia, vui sống thực tế với niềm vui nhảy múa ấy, đã chìm dần vào cuộc sống hằng ngày; cho nên ta đã chẳng vui. Việc cứu độ chẳng phải sai, nên lưu ý về điều nầy.”

Từ trước đến nay qua lời dạy chân thật phải vui một cách sâu xa. Điều nầy đối với việc chẳng vui thì cái gì là chân thật và lầm lẫn. Cái gì cũng chẳng biết; chỉ sống trong sự mê mờ. Điều nầy là do tâm ta bị nhiễm ô chăng? đồng thời với đức Phật A Di Đà nhìn thấy trạng thái hiện thật của con người chúng ta (ở đây tồn tại vô số phiền não, tiếp tục bủa vây đốt cháy thân tâm nầy) như vậy cho nên nếu nhìn thử qua lời dạy của đức Phật A Di Đà thì với lòng từ bi sâu xa qua lời thệ nguyện (bổn nguyện); chính Ngài đã vì chúng ta, hãy nên biết, hãy nên nghĩ về việc nầy.

Lại nữa chúng ta chẳng mau mau muốn đến thế giới của Phật, dẫu cho bị một ít bệnh đi nữa, chẳng phải không chết sao? với tâm suy nghĩ nhỏ hẹp và với thân mệnh thì chấp trước vào đó từ ngày xưa cho đến tận ngày nay, mê mờ trong thế giới não phiền mà chẳng xả bỏ ngôi nhà xưa cũ được, ngay bây giờ chẳng sanh về thế giới của Phật và dầu cho có nói cách nói tốt đẹp thế nào đi chăng nữa thì một lòng hướng đến đó để đi cũng chẳng muộn.

Qua sự thật thể hiện như vậy với tôi, tấm thân nầy, phiền não đầy thân, phải tự rõ biết sự mê mờ của tự kỷ và dẫu cho có mang theo sự chấp trước sâu xa trong một đời nầy như vậy và dẫu cho mong rằng danh tiếng còn lại trong đời nầy đi nữa, thì kết cuộc cũng phải xa lìa thôi. Tuy vậy sự hướng dẫn chân thật của đức Phật A Di Đà khi mà giúp cho chúng ta những hành giả của Chân Tông có thể rời khỏi để sanh về thì ngay nơi thế giới tự nhiên ấy, chúng ta sẽ có thể sanh về được nơi thế giới của đức Phật vậy. Nếu muốn sớm sanh về cõi Phật từng ngày với những người vô tâm thì đặc biệt đức Phật A Di Đà sẽ tạo ra cơ hội để thành tựu.

Như trên! Ta còn chìm nơi ngũ dục, ngày ngày bị chìm đắm thì sự thật đối với con người, việc đầu tiên là cứu vớt đối tượng ấy, niệm ân lòng từ bi của đức Phật A Di Đà đã thành tựu bổn nguyện để cho chúng ta từ đó sống theo tâm thức kia và trở về với cái chết ấy.

Nếu gặp được lời dạy của đức Phật A Di Đà mà khởi lên niềm vui mừng nhảy múa và nếu ta nghĩ rằng một ngày nào đó chẳng xa muốn sanh về thế giới của Phật thì chính tự mình, tâm ta sẽ giao động và sẽ cắt đứt tất cả sự mê hoặc của con người, là những điều mà đã nghi ngờ kia”. Đây là sự khát ngưỡng của Thân Loan Thánh Nhân.

3.1.21 Chương thứ mười (dịch từ tiếng Đức)

Ngài đã dạy rằng “Niệm Phật có nghĩa, mà chúng ta không cần tạo thành nghĩa. Bởi vì điều ấy chẳng thể xưng, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn được.”

Lời đầu của phần sau đây:Từ thời đầu tiên xa xưa khi Thầy còn sống, đã có chung một niềm tin về nước tương lai qua sự tin tưởng và mong muốn ngay đến được Kyoto để dạy dỗ. Thế nhưng trong thời gian ngắn, bởi vì số lượng của người già lẫn trẻ đi theo môn niệm Phật nầy đã tăng trưởng vô số, cho nên đã được dạy cho nhiều việc; gồm những gì mà trong lời dạy của Ngài Thân Loan chẳng chứa đựng và khác với ý nghĩa trên. Dưới đây tôi (Duy Viên) sẽ giải rõ từng điều khác nhau nầy.

3.1.22 Chương thứ mười (dịch từ tiếng Nhật)

Vượt qua khỏi trí tánh chân thật của con người.

Sự chân thật của đức A Di Đà Phật là đạo lý chẳng thể giải bày bằng sự hiểu biết của chính mình cũng như kinh nghiệm để lý giải. Vì sao vậy? Sự chân thật của đức Phật A Di Đà nghĩa là vì con người lấy sự hơn thua của tự ngã và lý tánh làm trung tâm để giải thích, mà việc nầy dùng trí để suy nghĩ cũng chẳng thể được. Bởi vì đó chính là tha lực của sự chân thật vĩ đại của đức Phật A Di Đà. Thân Loan Thánh Nhơn đã ngưỡng vọng về việc nầy (đây là lời nói của Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhơn).

Nếu suy nghĩ kỹ khi Thân Loan Thánh Nhơn còn tại thế, kể từ địa phương Kanto đến Kyoto thì mang theo những điều phức tạp, chẳng nghe theo lời dạy nào của Thân Loan Thánh Nhơn để phát lòng tin tưởng và ngay cả bây giờ có nhiều người già lẫn trẻ lấy lời dạy của đức Phật A Di Đà làm kim chỉ nam để học. Tuy nhiên trong ấy chẳng phải là lời dạy của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn, hầu như là sự suy nghĩ trái ngược lại. Gần đây cũng có nhiều người giải thích, cũng có người nghe theo tôi (Duy Viên) việc nầy chẳng đúng với lời dạy ấy. Cho nên đây là lý do muốn làm sáng tỏ vậy.

(Dịch xong những chương trên vào ngày 28.4.2011 tại chùa Trúc Lâm Chicago Hoa Kỳ, nhân những ngày khóa tu học và triển lãm Phật Ngọc tại đây)

3.1.23 Chương thứ mười một (dịch từ tiếng Đức)

Nghĩa khác của điều thứ nhất bên trên.

Khi niệm Phật mà câu văn chẳng thông suốt, với một câu hỏi là: “Việc niệm Phật ấy tin vào sự thệ nguyện bất tư nghì hay tin vào danh hiệu bất tư nghì? Cả hai sự bất tư nghì ấy không rõ ràng thì điều nầy chính là việc nên nghĩ đến.

Căn cứ vào sự bất tư nghì của thệ nguyện thì dễ dàng khi xưng danh hiệu và nếu xướng lên danh tự qua lời thệ ước thì tin rằng với sự bất tư nghì về Đại Bi Đại Nguyện của đức Di Đà có thể cứu ra khỏi sự sanh tử. Còn nếu nói niệm Phật là nhờ ánh sáng của Như Lai thì ít ra ánh sáng ấy chiếu cùng khắp, tương ưng với bổn nguyện để được sanh về thật báo độ. Nếu chúng ta luôn tin tưởng ở tâm rằng đó là sự bất tư nghì của lời thệ nguyện nầy, thì bất tư nghì của danh hiệu cũng đã đầy đủ. Sự bất tư nghì của sự thệ nguyện và danh hiệu là một, chứ không phải hai và chẳng còn điều gì khác biệt nữa.

Cả hai việc thiện ác được cứu để vãng sanh thì cả hai dạng thức ấy chẳng phải bất tư nghì theo lời thệ nguyện mà sự niệm Phật ấy do tự thực hành nơi tâm thức và qua nghiệp để được vãng sanh. Đây chính là một việc làm tự lực. Người nầy không tin vào sự bất tư nghì của danh hiệu Phật. Tuy rằng không tin tưởng như vậy, nhưng kẻ ấy cũng được sanh về nơi biên địa đãi mạn của nghi thành thai cung và kết quả tùy theo nguyện ấy mà được sanh về báo độ. Đây chính là sự bất tư nghì của danh hiệu. Bởi vì đây cũng chính là sự bất tư nghì của lời thệ nguyện. Cả hai đều là một, không gì khác.

3.1.24 Chương thứ mười một (dịch từ tiếng Nhật)

Từ việc thuận tin theo lời dạy, niệm Phật để được sanh về.

Những người không đọc chữ được, nhưng thấy và tin lời dạy của đức Phật A Di Đà thì được hỏi rằng: “Ông, bà trên thực tế (Ngài) cứu hết tất cả mọi người, thì đây là do tin theo lời thệ nguyện của đức A Di Đà Như Lai, hay là do sự lợi ích từ tâm mà niệm Phật và do sự tốt đẹp ấy mới niệm Phật ?”. Cả hai việc ấy khác nhau nhưng chẳng dạy rõ, người khác chẳng hiểu khác hơn được và việc nầy phải được hiểu rõ ràng hơn.

Đức A Di Đà Như Lai chẳng bỏ sót một người nào cả. Vì lòng từ bi vô hạn, bất cứ ai niệm đến danh hiệu A Di Đà Phật thì được sanh về. Khi niệm danh hiệu nầy, qua lời dạy ấy, người niệm Phật tin tưởng và bởi vì qua lời thệ nguyện, chắc chắn được cứu vớt và căn cứ vào đó để được sanh, nên việc niệm Phật trở thành sự tự nhiên. Tất cả đều do năng lực của Đức A Di Đà Như Lai vậy. Hơn thế nữa, qua việc tin tưởng lời thệ nguyện của đức A Di Đà Như Lai để được sanh về, thì danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật cũng là một sự bổ sung tự nhiên và từ tâm ấy việc niệm Phật được thể hiện.

Như vậy thì, nếu qua lời thệ nguyện của đức A Di Đà Như Lai, cùng với tha lực của Nam Mô A Di Đà Phật là một, chắc hẳn không phải là sự khác biệt đồng thời, với ánh quang minh chiếu dọi thuần túy đến người niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tự lực của chính mình được tăng thêm và ánh sáng của tự thân càng tăng trưởng thêm nữa.

Kẻ làm lành được cứu, ngược lại kẻ tạo ác, gây chướng ngại cũng cứu, thì quả thật cái vô hạn của từ bi và trí tuệ của Đức Phật A Di Đà Như Lai thật không thể tin cho cùng, mà chính năng lực của tự thân cũng có thể cứu thế giới nầy nữa. Đồng thời, những người như vậy niệm Phật, dẫu sao đi nữa sự niệm Phật ấy chính là tự lực của họ và với những người nầy qua lời thệ nguyện của đức A Di Đà Như Lai, họ không tin vào năng lực danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật kia.

Tuy vậy, dẫu cho có không tin đi nữa, những người như vậy, cũng sanh về được cảnh giới giác ngộ và đến biên địa, giải đãi của Tịnh Độ kia. Chẳng phải chỉ tin tự lực của chính mình, nên đi vào thai cung và đóng lại ở đó và chìm vào thế giới bên ngoài, rồi vãng sanh về thế giới mờ ảo khác. Ở tại nơi đó một thời gian lâu dài. Những người với lòng tự tin nơi mình quá nhiều ấy cũng theo với lời nguyện từ bi của Đức A Di Đà Như Lai, sẽ được cứu vớt. Đây chính là ánh quang minh chân thật của Đức A Di Đà Như Lai vậy. Những ai tôn trọng về danh hiệu thì được cứu tế giống nhau của đức A Di Đà Như Lai. Đó chính là sự thệ nguyện bất tư nghì vậy. Cả hai điều nầy không lìa nhau, chỉ là một việc. Đây chính là lòng từ bi và trí tuệ của đức A Di Đà Như Lai vậy.

3.1.25 Điều thứ 12 (dịch từ tiếng Đức)

(nghĩa khác của điều thứ 2 bên trên)

Với những người chẳng học và đọc chữ được về kinh điển thì không dễ gì vãng sanh được. Ở đây sẽ bổ sung ý nghĩa của những việc chẳng đầy đủ nầy.

Tất cả những lời dạy chân chánh đã được giải thích về sự chân thật của tha lực, để được thành Phật thì phải có lòng tin nơi bổn nguyện của sự niệm Phật. Ngoài ra còn phải học thêm việc gì nữa cho lý do vãng sanh về cõi Tịnh Độ được? Ai trong điều nầy mà còn một chút nghi ngờ, thì kẻ ấy cần phải nghiên cứu kỹ hơn để hiểu được ý nghĩa của bổn nguyện, thì xưng danh hiệu dễ dàng hơn, so với người có học vấn mà thực hành Thánh đạo môn. Thật là điều đáng tiếc cho những ai đọc, nghiên cứu; nhưng trong tâm không thật sự hiểu ý nghĩa của nó.

Việc thực tập dễ được gọi như vậy; bởi vì danh hiệu ấy được chọn như thế để những kẻ không biết chữ cũng có thể niệm dễ dàng, mà đối với những người nầy không hề biết đến kinh sách cũng như luận giải. Những người theo Thánh Đạo Môn hay lấy việc nghiên cứu làm việc chính. Đây là một việc làm khó. Ngoài ra trong một văn bản có ghi rằng: "Ai thực hiện nghiên cứu trong tư tưởng sai lầm, đối với người ấy không chắc, làm thể nào để vãng sanh về Tịnh Độ được".

Lúc bấy giờ người chuyên tu niệm Phật và người tu theo Thánh Đạo Môn đã tranh luận với nhau về pháp ấy là: “Tông của tôi mới là thông dụng, còn tông kia không đúng”. Họ đã trở thành địch thủ với nhau về pháp ấy, đã đánh động về sự báng pháp. Thế nhưng không có nghĩa là hủy báng pháp của chính mình. Trong khi đó những người của tông khác thì bảo rằng: “Niệm Phật chỉ là việc làm cho những người không còn giá trị nữa. Đó là một tông phái với giáo lý nông cạn.” Rồi tự mãn cho rằng: “Chúng ta đối với những kẻ phàm phu hạ căn, một câu văn cũng chẳng hiểu, mà chỉ có lòng tin. Nếu chúng ta tin như thế, thì với những người thượng căn sẽ không tán thành. Vì vậy chúng ta nên vì pháp tối thượng thừa nầy. Ví dụ như tự muốn loại bỏ giải pháp ấy ra, thì chúng ta sẽ chẳng ở một vị trí, cả ta lẫn họ, rời khỏi được sự sống chết. Đây chính là bổn ý của chư Phật. Vì vậy chẳng nên lấy đá chặn đường” không để ý đến những người kia, thì ai là đối thủ. Người trí nên lánh xa.

Qua sự tranh luận như vậy, sự phiền não lại nổi lên, kẻ trí thì xa rời câu văn chứng cứ, như cố Thánh Nhơn (Thân Loan) đã nói rằng: “với pháp này có chúng sanh đã tin tưởng và cũng có chúng sanh tin vào đó chẳng lầm. Đức Phật đã từng dạy và qua giáo lý ấy chúng ta đã tin tưởng rồi làm cho người khác cùng tin. Qua lời Phật dạy ấy, việc vãng sanh là một việc nhất định. Nếu lại chẳng có người phỉ báng về lời dạy và cứ tin như thế thì bao nhiêu người đã rơi rụng. Cũng chẳng nên nói rằng: ta nhất định muốn nghe được quở trách việc nầy, mà điều ấy chỉ do nơi đức Phật. Điều là ở Đức Phật, trong tâm Ngài đã biết trước là có người tin và không tin, rồi hủy báng, rồi có kẻ nghi ngờ. Nói như vậy để thấy rằng chẳng vì thế mà chối từ giáo lý ấy”.

Ngày nay người học theo câu văn đã chấm dứt. Thế nhưng cũng có người đang hướng về những luận nghị vấn đáp, rồi thì với học vấn ấy, nhận ra bổn ý của Như Lai cũng như rõ biết được bi nguyện to lớn kia. Đây chính là bổn phận của những học giả, phải chỉ cho họ việc rời khỏi luân hồi để sanh về cảnh giới Phật, mà theo bổn nguyện chẳng có sự khác biệt giữa tốt và xấu, sạch và dơ, vượt qua khỏi tất cả. Thật là một điều đáng lo sợ và đáng tiếc rằng có một ai đó có thể phản bội tâm của vị Thầy đã viên tịch của chúng ta và như vậy đã sai với bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà.

3.1.26 Chương thứ 12 (dịch từ tiếng Nhật)

Tín tâm và học vấn khác nhau.

Những kinh điển của Đức Phật dạy cũng như những chú thích và sách tham khảo chẳng đọc và có người cũng cho rằng những người không học Phật Pháp thì không được cứu. Thế nhưng đây chính là một sự sai lầm. Qua những kinh văn đây đó, ta biết một cách rõ ràng qua lời dạy của Đức A Di Đà Như Lai là tất cả nếu tin theo bổn nguyện của Di Đà Như Lai và nếu niệm Nam Mô A Di Đà Phật, trên thực tế ta sẽ được tiếp độ. Ngoài ra dẫu cho có trình độ học vấn đến đâu đi nữa thì sự học ấy có thể chắc chắn cứu chúng ta chăng?

Không cần để ý đến điều ấy, với người mê mà học, chỉ nên học rõ biết lời dạy của Di Đà Như Lai. Đồng thời so với những kẻ hết lòng học hỏi, tham khảo, chú thích kinh điển mà chẳng lãnh hội được ý nghĩa chân thật của kinh điển thì cũng chỉ là người ngu muội mà thôi.

Với những người chẳng đọc được sách, chẳng học tập cũng như chẳng rõ biết về sự chú thích cũng như những kinh điển, thì với những người nầy gọi họ một cách chẳng cần suy nghĩ là người niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Dẫu cho bất kỳ ai hay bất cứ nơi nào, hay học bất cứ cái gì ở đâu thì điều dễ dàng ấy là sự thực tiễn của thế giới A Di Đà Như Lai.

Bởi vì lấy trung tâm của sự học vấn để học Phật, chính là con đường sai quấy, với Thánh Đạo môn mà những người tự lực để được Phật đạo, thì đây là sự khó khăn trên đường đạo. Đây gọi là khó hành đạo. Với học vấn, chỉ muốn cho mình nổi danh và tiền bạc vào tay để sinh sống là sự suy nghĩ sai lầm. Kết quả khi hết đời nầy trải qua đời khác, bao giờ mới sanh về cõi Tịnh Độ được? Qua những sách vở mà Thân Loan Thánh Nhơn viết để lại là những bằng chứng vậy.

Dạo nầy với những người chuyên tu niệm Phật để được sống theo lời dạy của Di Đà Như Lai đã tranh luận với những người sống theo cảnh dùng tự lực theo Thánh Đạo Môn và cho rằng: lời dạy của tôi mới là hay, còn lời dạy của anh thật là yếu kém. Lần lượt tranh luận và trở thành đối địch nhau. Đồng thời cũng có những lời dạy cần thiết đã xuất hiện. Thế nhưng nếu suy nghĩ cho kỹ với chính mình, tự phá bỏ lời dạy và lời dạy cần thiết không cần đến nữa chăng? Ví dụ như tôi nương theo lời dạy về niệm Phật và những người khác thì sống theo cách khác và dẫu cho có nói rằng: “Niệm Phật là điều chẳng thích nghi. Đây chính là điều để cho những người có trình độ thấp” chắc chắn không phải là không có sự tranh luận. Cho đến khi nào mà con người như tôi còn trói chặt bởi phiền não và tự ngã; với chữ nghĩa chẳng đọc, học vấn chẳng có, khi nghe đến A Di Đà Như Lai và theo sự hướng dẫn của lời dạy ấy thì được cứu thoát. Tin theo rồi bước theo con đường nầy, chẳng còn con đường nào khác nữa.

Đồng thời giống như việc sai trái của anh và dẫu cho lời dạy ấy là cấp thấp đi nữa, mà chúng tôi vì đó chẳng theo sự hướng dẫn bên trên. Ví dụ như ngoài lời dạy về A Di Đà Như Lai có lời dạy khác đi nữa thì với năng lực của tôi cũng như tư chất của tôi không thích hợp. Với lời dạy kia sẽ khó sống theo được. Với tôi và anh, cả hai chúng ta đều muốn giải phóng cuộc sống khổ sở nầy và được cứu giúp một cách bình đẳng thì đây chính là bổn ý của Như Lai đúng với chân lý vậy. Xin mọi người hãy đừng nghi ngờ gì về lời dạy của tôi nữa. Nếu nói lời ưu tú như vậy từ tâm, thì ai đó với niềm tin, có còn nghi ngại chăng?

Khi chúng ta tranh luận hay nghị luận về những lời dạy thì mọi người từ đó sẽ phát sinh ra những cảm tình hay những sự não phiền. Điều nầy không thể tránh khỏi. Do vậy, người trí nên xa rời sự tranh luận và tôn trọng lời nói của Tiên Sư, mà Ngài Thân Loan Thánh Nhân đã được ngưỡng vọng như là lời nói của Đức Thế Tôn rằng: “Có người tin theo lời dạy nầy, lại nầy nữa cũng có người nghĩ xấu ác về lời dạy nầy”.

Với tôi tin sâu vào lời dạy của Di Đà Như Lai, nương vào đó để sống; nhưng thỉnh thoảng với lời dạy của Di Đà Như Lai vẫn có những người khác nói xấu. Do vậy mà ta có thể xác nhận rằng: lời dạy của Đức Thế Tôn là đứng đắn.

Như vậy nếu lời dạy của Đức Thế Tôn là đúng thì chúng ta có thể nghĩ rằng sự cứu độ cho chúng ta, xác nhận cũng là một sự thật. Có cái gì đó sai trái mà kẻ xấu miệng không phải là hoàn toàn không có. Dẫu cho có người tin đi nữa, mà người nói xấu đó không có, thì sự việc sẽ như thế nào? Như vậy phải hiểu rõ.

Thế nhưng dẫu cho nói như vậy, mà chắc rằng người nói ác khẩu không phải là không có. Nếu từ trước Phật Đà đã dạy cho những lời chính đáng để hoằng truyền, thì có cả người tin và người không tin đã được thấy rõ. Nếu nói bởi vì người ác khẩu nghi ngờ về Phật pháp, cho nên không phải là chẳng nói ra điều nầy.

Con người ngày nay, những kẻ có học, đối với những người ác khẩu, bảo họ phải dừng lại, mà họ chỉ cố gắng qua sự vấn đáp và nghị luận suông hay sao? Với những kẻ có học thì biết rằng sẽ tiến tới sự chân thật của Phật Đà và rõ rằng Đức A Di Đà Như Lai cứu độ một cách rộng rãi, không có tính cách giới hạn. Kẻ nghèo nàn như tôi không được cứu chăng và đối với lời thệ nguyện cứu tế của Di Đà Như Lai cũng có người nghi ngờ thì với lời thệ nguyện của đức Di Đà Như Lai, với bổn nguyện ấy, kẻ lành cũng như người dữ, kẻ thanh tịnh cũng như người sống trong phiền não, chẳng phân biệt một ai, tất cả đều được cứu vớt. Nếu việc nầy mà nghe nói được, thì điều ấy, chính là những học giả vậy.

Tuy vậy, từ tâm ngay thẳng, đối với người niệm Phật, thì tâm của đức A Di Đà Như Lai hay nói với người có học, thật sự nhập vào nơi tín tâm, cũng phải lưu ý. Phật Pháp phòng ngừa ác ma và ngăn cản những kẻ thù nghịch với Phật. Nếu thấy tự thân của chính mỗi người mà có lòng tin tưởng nơi đức A Di Đà Như Lai chẳng đầy đủ, thì điều nầy, có lẽ làm mê hoặc người khác vậy. Đây cũng chính là cái tâm của tiên Sư, phải cần lưu ý đến.

Đây chính là bổn tâm của đức A Di Đà Như Lai, đưa lưng ra để cứu giúp con người vậy.

3.1.27 Chương thứ 13 (dịch từ tiếng Đức)

(Nghĩa khác của chương 3 ở trên)

Sự bất khả tư nghì về bổn nguyện của Đức Di Đà đã chứng minh, thế nhưng với những kẻ không tạo ra việc ác thì được nương vào bổn nguyện, tuy vậy vẫn không vãng sanh được. Việc nầy là sự nghi ngờ nơi bổn nguyện. Bởi vì sự lành dữ ấy liên hệ với túc nghiệp của bao đời trước.

Nếu chúng ta gặp điều tốt, nghĩa là do túc nghiệp tốt mà thành tựu. Nếu ta gặp việc xấu, tức do chúng ta đã tạo ra ác nghiệp ở đời trước. Có lần cố Thánh Nhơn (Thân Loan) đã dạy rằng: “Các người nên biết! chẳng có tội nào cả và chúng cũng chẳng ảnh hưởng đến những túc nghiệp, dẫu cho nhỏ như hạt bụi trên đầu con thỏ hay trên lông con cừu”.

Lại có lúc hỏi tôi rằng: “Yuenbo! Ngươi có tin rằng điều ấy ta nói ra chăng?” và tôi trả lời “có” thì Ngài tiếp: “Như vậy thì Ông không làm theo lời ta chứ?” Bởi vì tôi đã lại đồng tình và Ngài nói tiếp: “Nếu như vậy thì hãy giết 1000 người và nhứt định ngươi sẽ vãng sanh được”. Tôi trả lời rằng: “Chính con, theo lời dạy của Ngài cũng không thể giết người khác được. Lúc ấy Ngài Thân Loan tiếp nói: “Vậy sao con có thể nói trái lại lời ta. Như con thấy: nếu chúng ta tin tưởng tâm của chúng ta trong mọi việc, thì chúng ta có thể giết cả 1000 người, khi một ai nói với chúng ta rằng: chúng ta hãy giết những người ấy để chúng ta được vãng sanh.

Trên thực tế thì chẳng một ai có thể làm một điều gì mà không tương ưng với kết quả của một vài nghiệp duyên cả. Điều nầy cũng chẳng phải là nếu chúng ta không giết ai; bởi vì tâm của chúng ta tốt. Cũng có thể xảy ra là có người nào đó muốn làm việc lành và sau đó giết chết cả hằng trăm hằng ngàn người.”

Điều nầy Ngài dạy và chứng minh rằng: chúng ta chưa hiểu được, lời thệ nguyện bất tư nghì, qua đó cứu chúng ta và nếu chúng ta nghĩ rằng: qua sự suy nghĩ tốt thì sẽ tương ưng với việc tốt và ở trong một tấm lòng xấu.

Có lần, có một người tà kiến, ông ta đã suy nghĩ và cầu cứu theo lời thệ nguyện cứu độ của Đức A Di Đà, qua những việc làm ác và ông ta nói rằng những việc làm ấy là cái nhân để sanh về Tịnh Độ. Khi Ngài Thân Loan nghe được việc ấy và việc nầy tiếp tục loan truyền, để việc nầy được chấm dứt, Ngài viết một lá thơ rằng: “Người ta chẳng nên vui với chất độc, bởi vì đó chỉ là chất thuốc”. Ngài muốn trừ khử tà chấp kia. Với việc nầy cũng chẳng có nghĩa rằng những việc làm ác cản trở việc sanh về Tịnh Độ. Chúng ta chỉ có thể tin rằng khi nào chúng ta trì giới, trì luật theo bổn nguyện thì mới có thể xa rời sự sanh tử được. Khi đó chúng ta mới hãnh diện rằng chính chúng ta tự thân đã thực hành theo bổn nguyện của đức A Di Đà. Tuy nhiên với một việc ác không tồn tại trong chúng ta là chẳng thể được.

Tiếp đó Thánh Nhơn dạy rằng: “Bất kỳ người nào đi qua thế giới nầy, trên biển trên sông, dùng lưới hay cần câu để câu cá, hoặc săn bắn chim, heo rừng để buôn bán, đổi chác. Họ phải sống theo nghiệp ấy. Ngược lại bây giờ cũng có người ở đời sau nầy chỉ chuyên tu niệm Phật, hoặc giả ở những đạo tràng ấy chẳng cho kẻ kia vào; thì hóa ra những đạo tràng ấy chỉ là những hình tướng bên ngoài có vẻ hiền lành siêng năng; nhưng bên trong chỉ là hư ngụy. Ngay cả những tội lỗi dựa theo lời thệ nguyện của Đức Di Đà; nhưng cũng tùy theo túc duyên mà thọ nhận. Do vậy chúng ta phải vượt qua khỏi việc lành lẫn việc dữ cũng như những nghiệp báo ấy, thì đây chính là nương theo tha lực của bổn nguyện vậy.

Theo Duy Tín sao thì: “mỗi người trong chúng ta đều rõ biết năng lực của đức A Di Đà và còn tin rằng Ngài cũng chẳng thể thay thế tội nghiệp của chúng ta”. Với một tấm lòng và qua lời thệ nguyện và tha lực ấy sẽ quyết định cho tín tâm kia.

Nếu chúng ta chỉ tin tưởng vào bổn nguyện và sau đó chúng ta được tiêu trừ những nghiệp xấu ác cũng như đoạn lìa những phiền não thì phải hiểu một cách chính xác là với bổn nguyện ấy không cần phải tin vào. Phiền não nếu chẳng đoạn mà được thành Phật thì vị Phật ấy qua năm kiếp tư duy bởi lời thệ nguyện cũng chẳng phải là điều cần thiết. Trên thực tế với những người yếu kém hay nương vào bổn nguyện, ngay cả chính họ đầy tội lỗi và khổ đau. Điều ấy chẳng thể nói chính họ lại hãnh diện về lời thệ nguyện kia sao? điều tệ hại là chẳng thực hành hay ngược lại những điều nói ra ấy chẳng phải là điều của con trẻ sao.

3.1.28 Chương thứ 13 (dịch từ tiếng Nhật)

Tìm ra những hành vi cội rễ chính mình.

Dẫu cho đức A Di Đà Như Lai có lòng từ bi quảng đại qua lời thệ nguyện đi nữa, thì cũng chẳng phải là dang tay ra để cứu độ tất cả những người ác. Điều tối thiểu là kẻ ác ấy phải hồi tâm. Cũng có người nghi ngờ về lời dạy và sự thệ nguyện của Đức A Di Đà Như Lai và suy nghĩ rằng lành hay dữ chỉ có trong đời nầy.

Họ ngộ nhận rằng do tâm tạo ra những hành vi thiện ác, mà hành vi ấy của con người là do con người đã tạo nghiệp ra trong quá khứ, có liên hệ trước sau với bây giờ. Điều nầy phải rõ biết vậy.

Tâm ta thỉnh thoảng vẫn khởi lên những việc tốt và bởi vì nghiệp ấy đã tích chứa từ trong quá khứ xa xôi kia, ngược lại, những việc ác muốn làm, đây chính cũng là do nghiệp đời trước còn đọng lại, cho nên Ngài Thân Loan mới bảo rằng: lông con thỏ và lông con dê bị dính lên đó một chút bụi thì cũng do nhân duyên đời trước liên hệ, phải hiểu điều nầy vậy.

Lại có lúc Ngài Thân Loan bảo rằng: “Duy Viên Phòng đó sao! Con có nghe ta nói chăng? có tin điều ấy chăng? Và trả lời rằng: “dạ, con nghe” Lại nói thêm một lần nữa rằng: Vậy sao? Nếu là vậy thì từ nay lời nói của ta không dối chứ? Sau khi hiểu rồi thì: “Nếu như vậy hãy bảo người khác giết một ngàn người đi. Nếu được như vậy thì con chắc chắn sẽ được vãng sanh”.

Lúc ấy tôi trả lời rằng: “Dẫu cho có người kính ngưỡng vọng Thánh Nhơn bao nhiêu đi nữa, nhưng con làm sao giết một ngàn người được, một người cũng chẳng thể giết được nữa. “Nếu là vậy, thì tại sao lời của ta nói ngươi không cho là giả.” Việc nầy không thể phán đoán riêng lẽ được. Với con người của chúng ta, do nơi tự tâm của mỗi người dẫu cho là việc làm lành hay việc ác mà tự tại được; và nếu bảo giết một người để được vãng sanh mà anh cũng không thể giết được. Điều ấy chẳng phải do tâm của anh lành, mà do cái nguyên nhân nào chẳng hỗ trợ cho việc giết hại kia. Đó là do tấm lòng từ của chính mình nên chẳng sát hại vậy. Ngược lại, dẫu cho phải giết thì tùy theo nhân duyên mà giết một trăm hay một ngàn người”.

Với tâm của tôi thì thiện là thiện, ác là ác và khi phê bình về lành dữ, dầu cho cả việc thiện lẫn việc ác đều được cứu độ mà chẳng rõ thì đây là sự giáo huấn vậy.

Ngoài ra thuở Ngài Thân Loan còn tại thế đã có người hiểu sai về việc niệm Phật qua lời thệ nguyện của Đức A Di Đà Như Lai cứu vớt nhân gian kể cả người ác. Căn cứ theo lời nguyện ấy, thỉnh thoảng có người thích việc làm ác và mong cứu cả nguyên nhân. Nên cũng có lúc thoảng qua nghe lời nói của những người chẳng hiểu như vậy. Cho nên qua một lá thư Ngài Thân Loan dạy rằng: dẫu có nói rằng: độc tố làm tiêu đi, có loại thuốc; nhưng bảo rằng thích chất độc ấy thì không nên”. Nếu có những suy nghĩ sai quấy như vậy thì hãy dừng ngay lại. Chẳng phải là hoàn toàn bảo vệ để cứu độ việc ác, mà ở đây có ý là giữ gìn giới luật một cách nghiêm mật. Nếu tin tưởng vào lời thệ nguyện của đức A Di Đà Như Lai thì chúng ta phải làm sao để có thể vượt qua khổ não sanh tử kia. Giống như chúng ta bị cột chặt bởi phiền não, trói thân buồn tủi, lại gặp được lời thệ nguyện rộng lớn của đức Di Đà Như Lai thì đầu tiên là sự khổ não ấy không còn nữa.

Tuy nói như vậy với thân nầy chẳng phải là tạo nên bởi ác nghiệp và dẫu cho có tự nghĩ rằng do mình tạo ra đi nữa; đoan chắc rằng chẳng phải là do chính mình làm. Lại nữa kẻ đặt lưới nơi sông, nơi biển, câu cá làm kế sanh nhai và cũng có người tìm bắt những loài chim chóc thú rừng để sát hại; rồi buôn bán, cày cấy để sinh sống v.v… tất cả đều là những con người giống nhau; nhưng khi nghiệp duyên đặc biệt đã kéo đến thì những ác nghiệp ấy vẫn tự đến và tuy con người tồn tại trong nguy cơ ấy, nhưng họ hoàn toàn có vẻ mặt chẳng liên hệ gì với việc kia, chỉ nghĩ đến việc giác ngộ. Ngoài ra cũng có người hiền lành, tỏ ra là con người có đạo đức, chỉ chuyên tâm nghe dạy về việc niệm Phật nhưng với người niệm Phật ấy chỉ là bề ngoài và khi vào đạo tràng nghe pháp ấy, hầu như là hoàn toàn ngụy thiện mà thôi. Họ bảo “hãy vào đạo tràng đi” chỉ là một cái cớ. Chúng ta phải nói rằng những người như vậy sống xa với sự chân thật của Đức Di Đà Như Lai.

Với những người như vậy, chỉ lộ diện hiền từ ở bề ngoài, tỏ vẻ hiền lành; nhưng trên thực tế, họ khác hẳn bên trong tâm họ là sự hư ngụy. Những người như vậy phải nói là có tâm không chân thật.

Khi nói về Di Đà Như Lai thì ngọt ngào; nhưng tạo nên tội lỗi là những người hiểu sai lầm. Với những tội ác như vậy tất cả đều do cái nghiệp ở đời trước đã tạo; cho nên với chúng ta tất cả những hành vi lành dữ là nghiệp huân tập vậy. Với nghiệp đã tạo và đức Di Đà Như Lai dạy cho chúng ta sự tin thuận về việc cứu vớt chúng ta qua khỏi nghiệp ấy, đây chính là sự phát sanh tín tâm về tha lực.

Trong Duy Tín Sao Thầy Thánh Giác đã viết rằng: “anh nghĩ như thế nào về cái lực của Đức Di Đà Như Lai? Những tội nặng sâu dày của chính anh, Ngài có cứu được chăng?”

Không phải là khoa trương sự cứu độ của đức Di Đà Như Lai, mà chính từ lời dạy ấy, con người ở trong thế giới nầy tiếp tục xuất hiện để sống như vậy.

Nếu tội và ác của chúng ta sau khi đã tiêu tan hết tất cả những phiền não và tin vào lời dạy của Đức Di Đà Như Lai thì nghĩ rằng đây không phải là sự khoa trương về lời dạy của đức Di Đà Như Lai và nếu tội và ác kia tiêu trừ, thì người ấy chính là Phật. Những vị Phật như thế là từ con người mà đức Di Đà Như Lai đã vì sự khổ não của con người mà cứu giúp. Sự tinh tấn sẽ không còn ý nghĩa nữa. Đây chính là sự sai lầm khi tạo thành sự ngọt ngào qua lời dạy của đức Di Đà Như Lai. Với những người có tâm nói tội và ác, phiền não làm chướng ngại thì tâm ấy càng lung lay hơn nữa.

Như trên khi tâm bị dao động và khi con người phê phán, thật ra không thể nói là do lời dạy ngọt ngào của đức Di Đà Như Lai, mà kết quả là dẫu cho cái ác nào đi chăng nữa thì với lời dạy ngọt ngào của đức Di Đà Như Lai nói là ác, cũng chẳng phải với những cái ác ấy mà Ngài nói ngọt ngào là không ác chăng ? Như vậy thì đối với việc thiện, đức Di Đà Như Lai thẳng thắn chân thật làm cho con người có lòng tin, thuận theo đó mà tin. Điều phê bình là chính mỗi người phải tự kiểm điểm về nội tâm không đầy đủ của mình. Đây chẳng phải là sự suy nghĩ ấu trĩ chăng?

(Dịch xong phần trên vào ngày 16.4.2011 tại Thiền Viện Chánh Pháp Oklahoma, Hoa Kỳ)

3.1.29 Chương thứ 14 (dịch từ tiếng Đức)

(Nghĩa khác của điều thứ tư bên trên)

Chúng ta tin rằng một niệm làm tiêu đi những tội nặng của tám mươi ức kiếp, điều nầy được hiểu rằng những người bị tội thập ác ngũ nghịch mà qua ngày chẳng niệm Phật đến khi mạng chung, đầu tiên gặp được Thiện Tri Thức, với một niệm ấy làm tiêu diệt tội trong tám mươi ức kiếp. Với mười niệm làm tiêu được trọng tội của tám trăm ức kiếp để được vãng sanh, điều nầy có thể nói là gồm thập ác, ngũ nghịch kể cả nặng hay nhẹ trong một niệm và mười niệm ấy chăng? Sự diệt tội ấy là một sự lợi ích, nhưng với cái nhìn nầy không đủ làm cho ta có lòng tin.

Ngoài ra do ánh quang minh của Di Đà chiếu rọi, một niệm phát khởi vững chắc như kim cang thì chắc chắn sẽ nhập vào chánh định tụ. Đến khi mạng chung những phiền não, ác chướng ấy sẽ chuyển đổi và sẽ chứng được vô sanh nhẫn. Nếu không có lòng bi nguyện, chiếu sáng đến tội nhân, thì làm sao chúng ta có thể giải thoát được sự sanh tử. Điều nầy chúng ta nên nghĩ rằng tất cả những sự niệm Phật suốt cả đời người là để báo đáp ân đức Đại Bi của Như Lai.

Tin rằng với việc niệm Phật ấy các tội sẽ tiêu, khi tội tiêu rồi thì việc vãng sanh sẽ đạt được. Ngoài ra việc nầy cũng cần thiết cho đến khi mạng chung mà không rời sự niệm Phật thì cuối cùng với trí tuệ ấy với sự niệm Phật không thối chuyển ấy sẽ được vãng sanh. Tùy theo nghiệp báo giới hạn, mà sẽ gặp việc bất tư nghì. Lại nữa những bịnh não đau đớn, mà chẳng trụ được ở chánh niệm thì cũng không niệm Phật được. Vậy thì khoảng thời gian ấy làm sao tội tiêu được? Có phải rằng tội không tiêu thì việc vãng sanh chẳng được chăng? Với lời nguyện nhiếp thủ bất xả thì chúng ta sẽ được bất tư nghì. Mặc dầu chúng ta đang bị tội nghiệp hay chẳng niệm Phật được vẫn có thể vãng sanh, trong khi gần ngày chúng ta chứng đắc thì chúng ta nên làm, bởi vì chúng ta đã đến gần với Phật Di Đà và với ân ấy nên báo tạ. Với ý nguyện, tội diệt qua sự niệm Phật, với tâm tự lực và với bổn ý của người lâm chung chánh niệm thì không cần tương ưng với tín tâm tha lực kia.

3.1.30 Chương thứ 14: Niệm Phật theo lối tính đếm (dịch từ tiếng Nhật)

Người ta thỉnh thoảng vẫn hay nói về tám mươi ức kiếp qua việc xưng danh niệm Phật. Điều đáng phải được nói ở đây là bao nhiêu tội nặng chồng chất trải qua thời gian lâu dài, tin rằng sẽ được tiêu trừ.

Thế nhưng việc ấy là thế nào? Thập ácấy gồm: sát, đạo, dâm, ác khẩu, nói lưỡi hai chiều, nói chuyện không có, nói lời hư ngụy… cùng với tội ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ, sát hại những người tu hành và làm thân Phật ra máu cũng như tạo sự rối loạn về sự hòa hợp của những người đồng tu, mà bình thường những người ác ấy chẳng xưng danh hiệu Phật, cho đến khi gần lúc lâm chung, lại được gặp gỡ Thiện Trí Thức (vị đạo sư hay kẻ dẫn dường) dạy cho nghe, chỉ một lần niệm Phật thôi, là tội lỗi trong thời gian dài tám mươi ức kiếp ấy sẽ được tiêu diệt. Nếu niệm Phật mười lần như vậy thì sẽ tăng lên gấp mười, nghĩa là tám trăm ức kiếp. Dẫu cho tội ấy nhiều không thể đếm biết được. Đây chính là căn cứ theo kinh nói về cái đức để được sanh về Tịnh Độ.

Theo thuyết nầy thì những người thuộc thập ác thì có tội tám mươi ức kiếp. Về tội thập ác và ngũ nghịch có thể so sánh để biết về việc tội nặng nhẹ khác nhau. Nương vào một tiếng niệm Phật để tội trong tám mươi ức kiếp được tiêu diệt. Mười tiếng niệm Phật thì tội sẽ tiêu trong tám trăm ức kiếp. Đây chính là chỗ lợi ích về việc tội được tiêu diệt. Tuy vậy điều quan trọng là, để tội được tiêu diệt, phải qua việc xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Với sự chân thật của A Di Đà Như Lai chúng ta có tín tâm để sống nơi thế giới nầy là việc hoàn toàn sẽ biến đổi khác.

Vì sao vậy? Với ánh sáng trí tuệ của đức A Di Đà Như Lai, chiếu khắp đến thân thể của chúng ta lúc chúng ta vui tin theo thì không một lực gì có thể phá hoại được. Theo như ngôn từ diễn tả là đá kim cương ấy chính là tín tâm mà Đức A Di Đà Như Lai đã sắc phong cho ta. Vì vậy với chúng ta, đức A Di Đà Như Lai sẽ giúp cho chúng ta sanh về cảnh giới Tịnh Độ là điều không sai được; bởi vì đó chính là điều cứu hộ không thể sai. Đến lúc lâm chung những phiền não đang đợi chờ ta, nhờ sự cứu giúp ấy mà các chướng nạn, ác chướng kia là cái nhơn để như thế được sanh về Tịnh Độ. Tiếp đó là sẽ được giác ngộ thành Phật một cách bình đẳng, không có sự sai biệt nào khác. Điều ấy chính là trí tánh của chúng ta cũng như những kinh nghiệm lý luận bình thường phải được vượt qua khỏi để trả về với thế giới bất khả tư nghì. Đây chính là uy lực phi thường cũng như lòng từ bi và trí tuệ của đức A Di Đà Như Lai vậy. Nếu không có sự hướng dẫn ấy thì với phước mỏng là phàm phu chúng ta làm sao có thể vượt ra khỏi thế giới khổ não nầy được. Suy nghĩ như thế rồi, hãy cố gắng xưng danh hiệu Phật và với trí tuệ chân thật của đức A Di Đà Như Lai chúng ta phải cảm tạ thâm ân ấy vô cùng.

Với câu Nam Mô A Di Đà Phật, chỉ cần niệm lên và với chừng ấy ta tin rằng tội kia sẽ tiêu diệt. Tự chính tự lực của mình làm tiêu tội của chính mình khi nỗ lực thực hiện. Còn A Di Đà Như Lai giúp cho ta là tha lực, khi ta niệm Phật sẽ được sanh về thế giới của Phật là điều hoàn toàn không sai.

Với sự niệm Phật mà tội được tiêu thì có thể nói việc tiếp tục xưng danh hiệu niệm Phật ở thế giới kia; với tâm nghèo nàn của chúng ta cả đời dẫu cho có suy nghĩ về việc làm ấy vì tất cả cũng chỉ là cội rễ của việc ngã dục; cho nên phải bị lưu chuyển mê hoặc, là nguyên nhân chính vậy. Đồng thời, nếu chúng ta cố gắng niệm Phật cho đến khi chết thì kế tiếp tội và ác kia sẽ tiêu để được sanh về cõi Tịnh Độ đầu tiên vậy.

Tuy nhiên cuộc đời của con người đã được quyết định bởi nhân duyên của kiếp trước và bởi vì chúng ta với tự lực chẳng rõ hết được với hạng ấy; nên phải vượt qua như thế nào cũng chẳng thể rõ biết hết. Lại nữa, bệnh khổ và những bệnh khổ nạn ấy, cho đến lúc chết muốn cho không bị rơi vào chỗ đọa lạc, khi lâm chung cũng chẳng thể niệm Phật được, thì lúc ấy những tội đã phạm làm thế nào được dứt hẳn đây? Nếu tâm ấy chẳng tiêu thì không thể sanh về cõi Tịnh Độ chăng? Với chúng ta là kẻ phàm phu không từ bỏ được thì nên nương về bổn nguyện của đức A Di Đà Như Lai để được sanh về nơi ấy. Nếu chẳng phát tâm xưng danh hiệu Phật cho đến khi lâm chung thì cuối cùng chúng ta vẫn có thể sanh về cảnh Tịnh Độ.

Lại nữa, khi mạng chung mà một lòng niệm Phật thì cửa giác ngộ sẽ mở và sẽ được gần Phật, tiến thẳng đến Đức A Di Đà Như Lai và ta có thể nghĩ rằng dưới ánh quang minh của Đức A Di Đà Như Lai, phải cảm tạ ân đức của Ngài. Một lòng nên niệm danh hiệu Phật.

Việc vãng sanh về Tịnh Độ khi lâm chung lúc niệm danh hiệu Phật thì tội và ác sẽ tiêu diệt theo câu văn, thì đây chính là tâm nguyện của tự lực. Với người như thế phải phát ra lời thệ nguyện thanh tịnh trước khi chết. Còn với kẻ khiếm khuyết phải có tín tâm đối với tha lực để được sanh về với lòng từ bi và trí tuệ của đức A Di Đà Như Lai. Dẫu sao đi nữa, thì với tự lực vẫn có thể thành Phật thì đáng gọi là tự lực của người vãng sanh vậy.

(Dịch xong đoạn trên vào ngày 14.04.2011 tại thiền viện Chánh Pháp – Oklahoma Hoa Kỳ)

3.1.31 Chương thứ 15 (dịch từ tiếng Đức)

Nghĩa khác của điều thứ 5 ở trên.

Cho rằng với bản thân đầy dẫy sự phiền não có thể đạt đến sự giác ngộ. Nhưng điều nầy không đúng với cái nhìn chân thật.

Tức thân thành Phật là bổn ý của chân tông mật giáo với sự chứng quả gồm tam mật hành nghiệp. Sáu căn thanh tịnh và dựa theo chỗ nói của Pháp Hoa Nhứt Thừa. Công đức ấy được thể nghiệm qua bốn hạnh an lạc. Những điều nầy thuộc về những sự khó thực hành của những bậc thượng căn, để thành tựu quan niệm qua sự giác ngộ. Theo tông chỉ của Tịnh Độ Tông về tha lực ở đời sau để khai mở sự tỏ ngộ, thì tín tâm là sự quyết định cho việc nầy. Điều nầy đối với người hạ căn dễ làm và với pháp thì không phân biệt giữa thiện và ác. Bởi vì điều ấy ngay cả ngày nay cũng chẳng thể đoạn trừ được những phiền não và ác chướng chắc hẳn một điều là những Tăng lữ của Chân Ngôn, Pháp Hoa sẽ làm tịnh hóa để được giác ngộ ở kiếp kế tiếp. Ngay cả những người mà không có trí tuệ lớn và những người thiếu giữ giới cũng như hành trì thì có thể lên chiếc thuyền hạnh nguyện của đức Di Đà để vượt qua biển khổ của sự sanh tử. Khi nào vượt qua được bên kia bờ thì những phiền não hắc ám ấy sớm tịnh hóa. Ánh sáng giác ngộ sáng tỏa như mặt trăng kia sẽ tỏa chiếu mọi nơi. Ánh sáng ấy sáng ngời chiếu tận mười phương vô ngại thế giới. Khi tất cả chúng sanh được lợi ích thì việc tỏ ngộ sẽ rõ ràng. Nếu con người trong đời nầy đã được tỏ rõ thì cũng giống như đức Thích Tôn đã hiện ra đủ loại ứng hóa thân như thế; gồm đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đầy đủ để thuyết pháp và làm lợi ích tất cả chúng sanh. Theo sách “Hòa Tán” (Cao Tăng Hòa Tán 77) có nói rằng:

“Với tâm kim cang kiên cố, sẽ nhiếp tâm trong chốc lát.Tâm quang của Di Đà sẽ nhiếp hộ và chúng ta sẽ được kéo ra khỏi sự sanh tử dài lâu kia”.

Khi mà tín tâm quyết định, nếu chúng ta cũng được một lần nhiếp thủ và xả bỏ thì chúng ta sẽ không trở lại trong lục đạo.

Nếu người ta hiểu sai về kinh nghiệm thì điều ấy chính là sự biểu thị của sự giác ngộ thật ra vẫn còn xa vời.

Cố Thánh Nhơn (Thân Loan) đã có lần dạy rằng: “đối với Tịnh Độ chân tông chúng ta tin tưởng về bổn nguyện trong đời nầy, để được đến cảnh giới của quốc độ giác ngộ”.

3.1.32 Chương thứ 15 (dịch từ tiếng Nhật)

Kẻ vui sống theo niềm tin, chưa phải là Phật

(bản phóng dịch chương nầy dựa theo bản tiếng Nhật của Yamazaki Ryoomyoo)

Với thân nầy dơ uế và tâm đầy phiền não khổ đau và với việc giác ngộ thành Phật để đi vào thế giới giống nhau thì điều nầy quả là một điều ngộ nhận.

Việc Thành Phật giác ngộ với thể xác nầy lấy những lời dạy trong Chân Ngôn Tông thuộc Chân Ngôn Mật Giáo thì đầu tiên phải đạt được kết quả tích chứa những hạnh lành của thân mật, khẩu mật và ý mật. Việc cảm giác và tinh thần của chúng ta được thanh tịnh theo Kinh Pháp Hoa đã dạy thì chúng ta phải sửa đổi thân, khẩu, ý và kết quả là làm những hạnh Từ Bi để tâm địa được an lạc. Đấy chính là cảm cái đức đầu tiên vậy.

Tuy vậy những việc nầy là những việc khó làm. Là người hiền, thực hiện sự chân thật ngay nơi bản tâm và những việc ấy khi thực hiện được thì việc giác ngộ có thể sanh về thế giới Tịnh Độ của đức Di Đà Như Lai. Ở nơi ấy đầu tiên mở ra sự tỏ ngộ. Chúng ta sống với lời dạy của đức Di Đà và thể hiện Phật đạo với tha lực của pháp môn Tịnh Độ. Lại nữa, điều ấy ở thế giới nầy với chúng ta là thế giới của niềm tin, mới có thể quyết định được và trở thành một thế giới như vậy.

Với tín tâm nầy, dẫu thuộc hạng người nào đi nữa, người tốt hay người xấu cũng không phân biệt, vẫn có thể sẽ được cứu độ tất cả. Đại loại là đối với cuộc đời, phiền não của tự thân và những ác chướng kia phải đoạn lìa thì mới cứu; việc ấy thật là khó.

Theo lời dạy của Chân Ngôn và Pháp Hoa, dẫu cho tôn trọng một cách thực tiễn về lời dạy của những vị Tăng thì với thân nầy có thể trở thành Phật được chăng? Lục căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thanh tịnh, là một cách nói. Mặt khác đối với vị lai cầu nguyện để được khai mở sự giác ngộ. Dẫu cho đối với việc nầy, chúng ta phải biết rằng với tấm thân nầy mà khai mở được việc giác ngộ quả là điều khó khăn.

Chung quy là chúng ta không đủ khả năng để gìn giữ giới luật. Với người không có trí tuệ thì việc tự khai mở sự giác ngộ, nếu đến được bên bờ Tịnh Độ, là thế giới chân thật, trải qua biển lớn khổ ải trong sanh tử, phải lên thuyền lớn là bổn nguyện cứu khổ chúng sanh. Đó là lời thệ nguyện sâu xa từ bi và trí tuệ của Đức Di Đà Như Lai. Dẫu cho đám mây phiền não có đen tối, vẫn được dần sáng tỏ. Lúc ấy chân lý là mặt trăng sẽ hiện rõ ra chiếu khắp thế giới. Dẫu cho tâm bị che khuất, nhưng tà ma phiền não ấy sẽ không còn. Ánh quang minh cứu độ ấy sẽ vượt qua nhiều thế giới. Tất cả những sinh mệnh được lợi ích. Lúc ấy mới bắt đầu có khả năng giác ngộ được.

Kết quả với đời nầy, người mong được khai mở sự giác ngộ giống như Đức Thế Tôn thì con người sẽ thay đổi, hình dáng thay đổi để cứu người. Còn Đức Thế Tôn đầy đủ thân thể và tinh thần với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Khi nói pháp, con người được dẫn đến sự cứu độ chăng? Nếu việc nầy có thể được thì đời nầy có thể nghĩ rằng sự khai mở giác ngộ nằm trong tầm tay.

Ngài Thân Loan Thánh Nhơn viết quyển Hòa Tán, trong ấy có nói như sau: “Chẳng có gì có thể làm tiêu tan được. Chỉ với tín tâm kiên cố như Kim Cương, chờ thời quyết định thì sự cứu tế chúng sanh của đức A Di Đà Như Lai và tâm ấy phát ra từ ánh sáng trí tuệ đối với người niệm Phật, hành giả ấy sẽ được bảo hộ qua tín tâm kia và quyết định sẽ được giải thoát vĩnh viễn ra khỏi sự mê mờ của sanh tử. Điều ấy khi tín tâm quyết định, chắc chắn một việc không sai là với người niệm Phật, Đức A Di Đà Như Lai với lòng từ bi và trí tuệ sẽ nhiếp thủ, không bỏ một ai. Với người tin niệm Phật A Di Đà Như Lai thì vĩnh viễn không bị nổi trôi trong những thế giới như: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, loài người và cõi trời, mà sẽ được thoát ra khỏi sự mê mờ dài lâu của sự sanh tử. Điều ấy chúng ta có thể nói như vậy.

Đây là việc ngộ nhận về thế giới tha lực. Từ đó suy nghĩ về việc tỏ ngộ trong đời nầy trở thành phức tạp, hỗn loạn vô cùng. Chúng ta tin tưởng sâu xa về pháp môn cứu tế chúng sanh qua lời thệ nguyện của đức A Di Đà Như Lai thì dẫu cho ở quốc độ nào, nếu chúng ta tu học một cách chánh chân, chánh danh thì sự giác ngộ sẽ khai mở. Đó chính là lời dạy của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn vậy.

3.1.33 Chương thứ 16 (dịch từ bản tiếng Đức)

(nghĩa khác của chương 6 bên trên)

Là một hành giả tín tâm tự nhiên gặp chướng duyên hoặc làm những điều xấu ác và bị khẩu luận với những người bạn đồng tu thì chắc rằng phải được hồi tâm. Với việc nầy chính là sự suy nghĩ đoạn ác tu thiện vậy.

Thế nhưng đối với người một lòng chuyên tu niệm Phật, đối với việc hồi tâm ấy chỉ có thể một lần. Sự hồi tâm kia với người cho đến bây giờ chẳng biết về tha lực bổn nguyện của Chân Tông, nhận được trí tuệ của đức A Di Đà và tự hiểu được rằng đối với tâm hằng ngày chẳng thể giữ chắc việc vãng sanh được như sự mong mỏi, thì trở lại với bản tâm và hướng về bổn nguyện để hồi tâm trở lại. Đối với tất cả những việc, nếu chúng ta phải trở về từ sáng đến tối để được vãng sanh; nếu mà mệnh người chấm dứt bởi thở ra mà chẳng hít vào được và tâm ấy chẳng hồi cũng chẳng nhu hòa nhẫn nhục để suy nghĩ trở lại khi còn sống trước khi mạng chung, thì lời nguyện nhiếp thủ bất xả ấy cũng trở thành vô nghĩa với cửa miệng thì hướng về nguyện lực, trong khi tâm thì tin rằng với lời nguyện ấy ngay cả người ác cũng cứu giúp không phân biệt qua lời nguyện, thật là bất khả tư nghì. Kẻ nào còn nghi ngờ về nguyện lực và tự tâm chẳng hướng về tha lực thì chỉ có thể sanh về biên địa của Tịnh Độ. Đây chính là lý do chướng ngại vậy.

Nếu tín tâm kiên định và phó thác việc vãng sanh cho đức Di Đà thì ta chẳng cần phải suy nghĩ gì nữa. Nếu chúng ta chỉ ngưỡng vọng về nguyện lực bởi những việc làm xấu thì tự nhiên sẽ vượt qua khỏi cái xấu và tâm nhu hòa, nhẫn nhục sẽ hiện ra. Tất cả mọi việc chúng ta chẳng cần suy tính nhiều để được vãng sanh và nơi sâu thẳm ấy nhờ ân đức của Đức A Di Đà mà ta hưởng được. Đó cũng là một việc tự nhiên vậy. Điều tự nhiên nầy bởi vì chúng ta chẳng thể mong muốn hay dự định, mà sự tự nhiên nầy lại chính là tha lực vậy. Tôi đã nghe người ta bảo rằng: với vẻ mặt hiểu biết và nói về việc tự nhiên kia rằng: Đó là điều không thể như vậy được.

3.1.34 Chương 16: Sự hồi tâm chuyển hướng của cuộc đời. (Dịch từ bản tiếng Nhật)

Sống theo lời dạy của Đức Di Đà Như Lai, với người có tín tâm phải làm cái gì đó để được vững vàng. Khi làm việc ác hay tranh luận với nhau, lúc khởi lên phiền não; chắc chắn cũng có người phải hồi tâm. Với việc nầy có người nghĩ rằng do tự lực được cứu, là do việc chính mình tự bỏ việc ác và làm việc lành.

Một lòng sống theo lời dạy của Đức Di Đà Như Lai và đối với người niệm Phật, việc hồi tâm được hiểu rằng: chỉ một lần duy nhất. Với việc hồi tâm nầy, ngày lại ngày, là những lời dạy của Đức Di Đà Như Lai vậy. Với những người không rõ được lời dạy của bổn nguyện tha lực, thì đối với lời dạy của Đức Di Đà Như Lai, cho đến bây giờ sống với tự ngã, hầu như chẳng chú ý đến hạnh phúc, với sự chi phối bởi lời dạy của A Di Đà Như Lai để sống đời hồi tâm, thì sự hồi tâm ấy, qua cách sống chính là sự chuyển đổi phương hướng vậy.

Nếu với chúng ta đối với những công việc hằng ngày, tâm ta từ sáng đến tối phản tỉnh và nếu đó là lần đầu tiên được cứu, không kể đến tự thân của ta, bởi vì chẳng biết khi nào khởi lên cái gì đó hiện thật, mà cũng chẳng phản tỉnh lại việc xấu ác kia, qua sự dạy dỗ ấy, và nếu lỡ chết đi mà chẳng làm được điều an ổn trong cuộc đời, thì đối với lời thệ nguyện cứu vớt của đức A Di Đà Như Lai sẽ trở thành điều không tưởng.

Như phía trước đã nói về cái lực cứu vớt của đức A Di Đà Như Lai. Với nội tâm, kẻ làm ác, người tội sâu cũng được cứu qua lời dạy, quả là vượt qua khỏi sự suy nghĩ của con người. Tuy nhiên trên thực tế đức A Di Đà Như Lai chắc chắn luôn cứu giúp người làm lành. Còn việc nghi ngờ về bổn nguyện thì cũng có sự khiếm khuyết khi nương vào lời dạy của đức Di Đà Như Lai. Đây có phải là việc niệm Phật có tính cách đạo đức chăng? Với người như vậy, ví dụ như giác ngộ cảnh giới, có thể được vãng sanh, thì chân thật Tịnh Độ không thể đến được, mà chỉ là phương tiện Tịnh Độ; chỉ đến được biên địa của Tịnh Độ mà thôi. Đây chính là việc phải nói là đáng buồn.

Nếu tâm mình thuận tin theo lời dạy của đức A Di Đà Như Lai, thì chắc hẳn gặp sự cứu vớt chân thật. Việc sanh về Tịnh Độ ấy chính là nhờ lực của đức A Di Đà Như Lai vậy. Với con người của chúng ta, lấy tự ngã làm trung tâm và lấy cái nầy cái kia làm thước đo tính toán. Dẫu cho chúng ta có gặp việc xấu ác, chúng ta trở thành người ác trong cõi đời và nếu hướng về đức A Di Đà Như Lai để được cứu như phàm phu của chúng ta, thì chính mình đã trở thành ưu việt (đó là đạo lý tự nhiên); sống đời tĩnh lặng đối với việc đáng nhẫn thì tâm nầy cũng sẽ chịu được.

Tổng quát thì, vì việc sanh về Tịnh Độ, nếu không có lợi khẩu chỉ với sự chiếu rọi, việc cứu vớt chúng ta của đức A Di Đà Như Lai là một ân đức sâu dày. Thường thì phải ngưỡng vọng tôn kính lời dạy ấy là điều tất yếu vậy. Nếu được như thế, kẻ niệm Phật, Nam Mô A Di Đà Phật là việc tự nhiên lưu xuất ra từ cửa miệng của mình. Việc tự nhiên nầy là cái lực. Đây chính là sự tự nhiên của thế giới chẳng tính toán như ta thường nghĩ nầy nọ. Điều nầy lại cũng có thể nói là tha lực. Đồng thời sự tự nhiên ấy có cái gì đặc biệt, hầu như là hoàn toàn riêng biệt. “Mặt hớn hở khi rõ biết đồ vật với lời hiền thục” đó là điều nghe được từ nhiều người nói, nhưng phải nói là chẳng có cái tình.

3.1.35 Chương thứ 17 (dịch từ tiếng Đức)

Nghĩa khác của điều thứ 7 bên trên

“Người vãng sanh về biên địa, cuối cùng phải rơi vào địa ngục. Những điều nầy có câu văn nào để làm chứng không ? Đối với người học trò có cái gì đó, do người khác nói, rồi truyền qua cho các bậc thức giả. Thế nhưng những Kinh luận và Chánh giáo sự thật như thế nào? đọc làm sao? Với hành giả có tín tâm yếu, nghi ngờ bổn nguyện. Sau khi xong cái tội nghi, sanh biên địa, sẽ được sanh về báo độ. Chỉ có một ít hành giả tín tâm phải trải qua hóa độ nhưng phải nói rằng cuối cùng trở về với đức A Di Đà không tính toán và sẽ không so với việc phải sa vào địa ngục. Đây phải nói là gán ghép sự hư vọng cho đức Như Lai”.

3.1.36 Chương thứ 17 (dịch từ tiếng Nhật)

Tỉnh thức nơi thế giới chân thật (Phương tiện Tịnh Độ)

Khác với người thuận tin theo lời dạy chân thật thì vãng sanh về chân thật Tịnh Độ. Còn phương tiện Tịnh Độ là người sanh về biên địa Tịnh Độ, cũng có người bảo rằng phải bị rơi vào địa ngục. Tuy nhiên, với lời dạy như vậy, một mặt, lấy căn bản sách vở nào làm cơ chuẩn như thế. Chẳng có căn cứ nào cả. Đó là điều mà cũng đã có những học giả nói như vậy. Sự thật đây là việc đáng buồn. Với lời dạy của đức A Di Đà Như Lai theo kinh điển nói đúng và những sách vở giải thích đúng thì làm sao có sự sai quấy như vậy được, chẳng nhận lãnh được sự dạy dỗ đứng đắn được của Di Đà Như Lai với những người sống không có niềm tin đầy đủ, dẫu cho có nói như thế nào đi nữa, họ cũng không thể thoát ra khỏi cách sống cá nhân tự kỷ sai quấy kia, nên không vượt qua khỏi tự ngã, nghi ngờ lời nguyện của Di Đà Như Lai; từ đó chẳng thuận tin theo được.

Tuy vậy niệm Phật là cái đức để được sanh về Tịnh Độ. Với Tịnh Độ ấy xưa nay vốn chẳng phải là chân thật Tịnh Độ thì đó xa lìa sự thật. Vì nghi ngờ Phật trí chân thật nên phải sanh về biên địa Tịnh Độ; nhưng mà người sanh về thế giới ấy chẳng phải là bị rơi vào thế giới của địa ngục. Ở thế giới ấy, vượt khỏi niềm tin nơi tự thân, tội nghi về sự chân thật để hối cải thì sẽ được sanh về Tịnh Độ chân thật. Từ đó sẽ được giác ngộ thành Phật, học hỏi nơi ấy. Từ đó chúng ta dẫu có sống ở đâu mà vẫn tiếp tục sống với tự ngã và với sự chân thật của Di Đà Như Lai không thể thuận tin theo được, thì đối với chân tông có nhiều trường hợp như vậy. Vì tín tâm của hành giả ít mà đối với nhiều người không rõ biết nên phải sanh về biên địa Tịnh Độ giả tướng. Đây chính là tâm từ bi to lớn của Phật muốn làm cho người kia rõ biết sự chân thật là điều có thể lý giải được. Đồng thời nếu nói kẻ sanh về phương tiện Tịnh Độ mà còn rơi vào địa ngục thì theo lời dạy ấy việc sanh về Tịnh Độ ấy trở thành hư vọng. Tiếp đến khi nghe lời dạy của đức A Di Đà Như Lai có người thuận tin theo và hoan hỷ với tâm niệm Phật tất cả đều được cứu vớt bình đẳng, ngay lời dạy ấy của Thế Tôn nhưng cũng trở thành hư ngụy. Nếu vậy thì những lời dạy của đức Phật sẽ trở thành một cái tội hư vọng vậy.

3.1.37 Chương thứ 18 (dịch từ tiếng Đức)

Nghĩa khác của điều thứ 8 bên trên

Về phương diện Phật Pháp, những người cúng thí đồ vật ít nhiều và cho rằng theo đó sẽ được thành vị Phật nhỏ, lớn. Điều nầy chẳng thể nói như thế, chẳng nên nói như vậy. Sẽ trở thành sự nhầm lẫn.

Đầu tiên là vị Phật ấy chẳng phải là sự phân chia lớn nhỏ. Dẫu cho khi nói đến đức giáo chủ cõi An Dưỡng Tịnh Độ (A Di Đà Phật) về thân tướng của Ngài, thì đó cũng chỉ là phương tiện báo thân mà thôi. Còn pháp tánh chứng ngộ thì không có dài ngắn; vuông, tròn. Lại chẳng có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen… thì làm sao có lớn nhỏ được, đối với việc niệm Phật sẽ được chiếu sáng như thế, bởi vì người ta có thể nói rằng “đối với niệm lớn, thì sẽ gặp Phật lớn, niệm nhỏ sẽ thấy Phật nhỏ” (ý của Kinh Đại Tập). Nếu người ta chẳng trải qua việc nầy thì đối với việc thực hành ở đây là bố thí ba la mật. Điều ấy có nghĩa là cúng dường những bảo vật trước đức Phật, hoặc chư Tăng Ni mà chẳng dùng tất cả với tín tâm, còn ngay cả nửa tờ giấy hay nửa quan tiền chẳng vì Phật Pháp mà cúng thì tín tâm kia sẽ trở thành tha lực để trợ duyên cho bổn ý của lời nguyện ấy. Tất cả đều vì Phật Pháp, nhưng trên thực tế với tâm dục của thế gian cũng giữ một vai trò đáng lo ngại với những bạn đồng tu.

3.1.38 Chương thứ 18 (dịch từ tiếng Nhật)

Vật bố thí và sự lợi ích của việc bố thí không liên hệ với nhau

Đối với Phật Pháp, nhiều người hiểu rằng bố thí nhiều sẽ trở thành vị Phật lớn, bố thí ít sẽ trở nên vị Phật nhỏ. Điều nầy trên thực tế không thể nói như vậy được.

Điều đầu tiên là: với Phật lớn hay Phật nhỏ trên tự thể mà có thể phân chia được, là một sự hiểu lầm to lớn. Đúng ra theo Kinh điển thì đức A Di Đà Như Lai, giáo chủ cõi Tịnh Độ với thân thể của Ngài thật vĩ đại (60 vạn ức), với điều nầy màu sắc cũng không, hình tướng cũng không, chân thật là thân Phật. Với chúng ta những người thế gian, đó là một phương pháp giải thích.

Trên thật tế được hiểu thân Phật không có dài, ngắn, bốn góc hay tròn trịa, lại nữa thân ấy (chân lý) chẳng có màu xanh, vàng, đỏ, trắng hay đen… do vậy làm sao có lớn nhỏ được. Từ tâm nầy nếu nhất tâm Nam Mô A Di Đà Phật, từ kinh điển chúng ta hiểu rằng chúng ta có thể thấy được hình tướng giả của đức Phật, nhưng cũng có thể nói rằng niệm Phật tiếng lớn thì có thể thấy được Phật lớn. Niệm Phật tiếng nhỏ thì sẽ thấy được Phật nhỏ. Phải nói rằng điều ấy chẳng đúng chăng?

Hoặc giả dựa theo Kinh điển để nói như vậy chăng?

Đồng thời, đối với Phật Pháp: Bố thí ấy chính là thực hành hạnh Ba La Mật; điều nầy tối quan trọng, vì hành vi của sự bố thí sẽ khẳng định về việc ấy. Tuy rằng việc quan trọng như việc mang của báu đến cúng trước Phật hay Thầy tổ và chư Tăng, nhưng đối với đức Phật chân thật thì thuận theo niềm tin của tâm. Nếu tín tâm bị khiếm khuyết thì mọi việc chẳng thể thành tựu.

Ngược lại, ví dụ như, giấy một tờ, một ít đồng tiền cũng không cúng nơi cửa Phật; nhưng lại có tâm tôn kính vị Phật chân thật và thật có tín tâm, thì với điều ấy phải nói rằng: đó chính là bổn ý của đức A Di Đà Như Lai vậy.

Như vậy việc bố thí nhiều hay ít có sự lợi ích khác nhau, là điều hiểu sai lầm. Kết cuộc, với Phật Pháp mà tự mãn, tự kỷ vật dục; còn với chân tông niệm Phật thì chi phối, thì tâm ấy chẳng đáng tôn xưng, chẳng chấp nhận được mà còn hiểu lầm nữa. Đây chẳng phải là điều chân chính của những người niệm Phật của chân tông. Chắc chắn điều ấy phải là như vậy.

3.1.39 Lời cuối (dịch từ tiếng Đức)

Những chương đã gặp trên đây là những niềm tin theo cái nhìn khác. Đối với những câu chuyện về cuộc đời của cố Thánh Nhơn (Thân Loan) khi còn Pháp Nhiên Thượng Nhơn với các đệ tử đông đảo ấy, mà người có tín tâm cũng chẳng nhiều. Giữa Thân Loan và những người đồng tu cũng có sự tương luận với nhau và cho rằng: “Thiện Tín (Thân Loan) với tín tâm ấy cũng là tín tâm của Pháp Nhiên Thượng Nhơn. Những người đệ tử khác như Thế Quan Phòng (Seikanbo) và Niệm Phật Phòng (Nembutsubo) có quan điểm khác về việc niệm Phật của những người bạn đồng tu nầy cho rằng: “Làm sao mà niềm tin của Thượng Nhơn Pháp Nhiên và của Thiện Tín Phòng là một được? “Sau đó Ngài trả lời rằng: “Khi tôi nói Trí Tuệ và Tài Năng hiểu biết của tôi to lớn như Sư Phụ thì đây chắc chắn là cái lỗi. Trong niềm tin vãng sanh về Tịnh Độ chẳng có một sự khác biệt nào, nó là một thứ chẳng gì khác” ở điều nầy có chỗ nghi ngờ để làm cho rõ ràng việc nầy khi được Thánh Nhơn chỉ rõ sự thị phi và tự tha. Nếu việc nầy rõ ràng thì đối với sự quy ngưỡng ấy nơi Pháp Nhiên Thượng Nhân được Ngài dạy rằng : “Tôi đã nhận được niềm tin nơi đức A Di Đà; ngay cả Thiện Tín Phòng (Zenshimbo) niềm tin của ông ta cũng nhận được từ đức Di Đà Như Lai. Như vậy thì tất cả đều là một, nếu ai có niềm tin khác thì kẻ ấy chẳng sanh về Tịnh Độ. Ở nơi ấy, là nơi ta sẽ đến”. Qua lời dạy nầy đồng thời với những người có khuynh hướng chuyên tu niệm Phật cũng có những điểm không đồng tình với Ngài Thân Loan.

Tôi đã viết tất cả, ngay cả những gì tôi đã từng lặp đi lặp lại. Bởi vì với tôi sinh mệnh nầy, thân thể, giống như giọt sương trên ngọn cỏ khô. Sự chối từ của những bạn đồng tu của tôi là làm mờ đi lời dạy của Thánh Nhơn (Thân Loan) về sự nghe biết. Tôi lo lắng về sự sai trái nầy có thể làm phá vỡ; nếu tôi luôn luôn khép chặt 2 con mắt của mình lại.

Nếu có người hiểu lầm về những ý nghĩa đã nêu trên thì người ấy nên cố gắng học hỏi những Thánh ngữ ấy; bởi vì đó là ý nghĩa của Sư Phụ và chính ngài Thân Loan Thánh Nhơn đã dùng đến.

Đối với Thánh Giáo nếu xem qua, thì với những lời dạy ấy có chân thật và quyền giả. Quyền ấy lấy ra từ thật và giả ấy sẵn có nơi chân. Đây chính là bổn ý của Thánh Nhơn vậy. Hãy thận trọng về lời Thánh Giáo! Hãy đừng nghĩ sai. Tôi đã nhận ra được một vài điều quan trọng và thấm nhuần những chữ viết trong sách và đã viết về những sách nầy.

Thánh nhân Thân Loan cũng đã dạy rằng: “Nếu tâm suy nghĩ đứng đắn về lời thệ nguyện về năm kiếp tư duy của đức Phật A Di Đà thì Ngài chính là riêng cho Thân Loan nầy. Như vậy với tôi phải cám ơn về lời thệ nguyện ấy. Vì Ngài đã thay tôi để cứu những người tội lỗi như tôi. “Nếu bây giờ tôi phải suy nghĩ một lần nữa về việc nầy thì đúng là Ngài đã hoàn toàn đúng với chữ của Ngài Thiện Đạo là “các vị nên biết rằng tôi vốn là hiện thân của phàm phu trong sanh tử đầy tội ác; với tội lỗi trong nhiều kiếp và đã trầm luân trong thế giới nầy, nổi trôi trong ấy, không có nhân duyên ra khỏi, do nghiệp trói buộc”. Trong một niệm, chúng ta phải có bổn phận cảm tạ thân tâm ấy. Thánh nhân đã dùng thân nầy để đến với chúng ta, giúp cho chúng ta với tấm thân đầy tội lỗi nầy; nếu không nhờ được ân đức của Như Lai mang lại thì chúng ta đã mê lầm. Bởi vì chúng ta chìm sâu vào tội lỗi, chẳng thể đo lường được. Trong việc làm ấy, con người chúng ta vẫn không bị sa thải mà tất cả ta và người, cả tốt lẫn xấu đều được gội nhuần ân đức của Như Lai chẳng để ý phân biệt.

Đối với Thánh Nhơn ngài đã dạy rằng: “Cả hai thiện và ác, tôi đều chẳng phân biệt, tôi chỉ biết rằng nơi tâm thức kia của Như Lai chứa đựng cái tốt, thì điều ấy tôi cho rằng tốt và chính tôi khi biết rằng: những gì đức Di Đà cho rằng xấu, biết rằng điều ấy thật là xấu, và trong mọi trường hợp ở trong thế giới nầy đều đầy dẫy sự rỗng không. Những kẻ phàm phu đầy dẫy phiền não ở trong thế giới vô thường của nhà lửa, đầy sân hận và khổ đau; tất cả đều trống rỗng, chẳng có gì thực tiễn như sự niệm Phật”.

Như vậy, thì cả chúng ta và những người khác cũng chỉ nói những lời trống rỗng thôi. Ngoài ra nếu trao đổi vấn đáp hoặc học về ý nghĩa của niềm tin trong sự niệm Phật, hay lấy lời của Thánh Nhơn để dẫn chứng, mà chính Ngài chẳng dạy như vậy, chỉ mong được ca ngợi hay mang đến sự chiến thắng, thì đây là việc làm mà tôi hay băn khoăn. Người ta lập tức nên suy nghĩ lại về việc nầy và nên hiểu rõ về sự chiến thắng kia. Dẫu cho tất cả chẳng phải những lời của tôi nói có thể đánh động được. Bởi vì tôi không dự vào con đường chú giải của kinh điển và văn pháp sâu cạn ấy. Ở trong ấy, tôi chỉ học được những gì tốt đẹp nơi Ngài Thân Loan, chỉ được một phần trăm, nhớ đâu tâm ghi lại như vậy. Điều buồn lo là nếu con người có phước nói về niệm Phật mà chẳng trực tiếp được tới báo độ mà chỉ được sanh về biên địa để sống, thì trong một phòng của hành giả ấy không có tín tâm trong sự tin tưởng. Tôi đã tóm lược lại trong khi nước mắt của tôi chảy dài, không thấy được gì bên ngoài cả, để viết “Thán Dị Sao” nầy và không nên cho người ngoài xem sách nầy.

Viết thêm: Tác phẩm đã được giới thiệu thuộc về Thánh Thư quan trọng trong niềm tin của chúng ta. Bất cứ trường hợp nào cũng phải vượt qua và không trao cho bất cứ ai mà không tin vào giáo lý nầy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567