Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III- Một số điều kiện hỗ trợ

25/04/201105:57(Xem: 3866)
III- Một số điều kiện hỗ trợ

THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
Thích Thông Huệ

Chương 6
KHỐI NGHI VÀ THUẬT KHAI TÂM

III- MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ :

Để công phu có kết quả và không bị sai lạc, hành giả tu Thiền công án cần có những điều kiện hỗ trợ. Sau đây là một số điều kiện trọng yếu:

1 - Ba điều kiện quyết định :

Gọi là “quyết định”, vì nếu thiếu một trong ba điều nầy, hành giả không thể thành công khi tham công án.

a- Đại tín:

Người tu Phật phải có niềm tin, nhưng tùy theo trình đôï, pháp môn mà mỗi người có niềm tin khác nhau. Lòng tin chân chánh của người tu Phật khác xa với sự mê tín; đồng thời trái ngược với nỗi nghi đối với Tam Bảo và về khả năng của bản thân, là một trong năm triền cái làm chướng ngại công phu tu hành.

Chánh tín được chia làm ba mức độ: Tin vào nhân quả tội phước, tu theo Nhân Thiên thừa là Tiểu tín, niềm tin nhỏ. Tin ở khả năng mình, khi diệt sạch kiết sử phiền não sẽ được giải thoát, nhưng bỏ ngã phàm mà vẫn còn ngã Thánh nên mới là Trung tín, niềm tin trung bình. Người tin chắc mình có bản tánh bất sanh bình đẳng cùng muôn loài muôn vật, và tất cả đều có thể tu thành Phật nếu biết đi đúng đường đúng hướng, ấy là niềm tin lớn -Đại tín.

Hành giả tham công án, trước tiên phải có Đại tín, người ấy còn phải có lòng tin tuyệt đối vào Đức Phật và vào giáo lý Ngài đã dạy, đồng thời tin vào vị Thầy hướng dẫn. Sự tin tưởng vào vị Thầy ở đây hết sức đặc biệt, dường như phó thác cả sinh mạng vào tay Thầy, nhất nhất tuân theo lời dạy của Thầy vì biết rằng nếu nghiêm ngặt thực hành theo chỉ dẫn, có ngày mình sẽ đạt kết quả mong muốn. Vai trò của vị Thầy hướng dẫn rất quan trọng, và vì thế, sự kết duyên thầy trò với một bậc Minh sư là một đại hạnh ngộ đối với hành giả. Nhà Thiền có câu “Hãy nghe đạo lý, phát tín tâm và hành trì”. Nghe đạo lý tức trực tiếp được nghe lời dạy của Thầy, không phải thông qua sách vở. Kề cận một vị Thầy giác ngộ, chúng ta được cảm nhận một từ trường rất lớn, và những câu nói của Thầy có sức chấn động mãnh liệt đến tâm thức chúng ta. Điều nầy giải thích tại sao nhiều người chỉ nghe Đức Phật thuyết pháp một lần, đã đắc Thánh quả.

b- Đại ý chí :

Hành giả phải có ý chí vững chắc như núi, bền cứng như kim cương, dù hy sinh thân mạng cũng dốc lòng đi tới. Không những cương quyết phá tan khối nghi cho xong việc đại sự của mình, hành giả còn phát đại nguyện phổ độ chúng sanh trong tam giới. Ý nghĩa hiến dâng theo Bồ-tát đạo rất vĩ đại, vì một mặt tiêu trừ bản ngã đẩy lui tập khí, mặt khác tự do tự tại cứu độ muôn loài. Sự vong ngã là vì đại cuộc, là quên mình vì người khác, có tánh cao thượng hơn nhiều so với tinh thần tiêu cực yếm thế. Vì phát đại nguyện tu Bồ-tát đạo hành Bồ-tát hạnh, nên Thiền giả phải có Đại ý chí. Đại ý chí và Đại tín có sự liên hệ hỗ tương với nhau. Nhờ có lòng tin kiên cố không lui sụt, hành giả mới có ý chí vượt qua mọi thử thách gian nan trên đường đạo. Ôâm ấp khối nghi trong tâm thức là một trận chiến khốc liệt và liên tục, nếu không có ý chí kim cương thì hành giả khó lòng tiến bước.

c - Đại nghi:

Mối nghi ở đây không tương đồng với sự nghi ngờ trong năm triền cái, cũng không mâu thuẫn với Đại tín nói trên.

Chúng ta tu, thường có những thắc mắc nhỏ: “Tu Thiền có cần ăn chay trường không? Tọa thiền là phương tiện hay cứu cánh? Tại sao một số Thiền sư không chủ trương tọa thiền?”. Đó là những tiểu nghi và khi có đáp án, hiểu ra vấn đề, được gọi là tiểu ngộ. Một số hành giả đặt vấn đề trọng đại hơn, như “Bản lai diện mục là gì? Làm thế nào thành Phật? Tại sao mình có Phật tánh mà không nhận ra?”. Giải quyết được những vấn đề trọng đại nầy là đại ngộ, và những đại nghi ấy là điều kiện tối cần của hành giả. Bởi vì khởi đại nghi là làm trổi dậy khát vọng tìm ra chân lý, khát vọng trực nhận tánh giác đang bị che lấp bởi trùng điệp những lớp bụi phiền não vô minh. Khát vọng ấy lấn át tất cả các vọng niệm, ví như mèo rình chuột, như người đi trên dây. Mèo biết chuột là một món ăn ngon nên để hết tâm lực vào việc rình từng cử động của chuột, mọi giác quan đều tập trung vào khát vọng bắt chuột. Người đang đi trên dây bắt ngang hai bờ vực, biết nếu mình sơ sẩy là tan thân mất mạng, nên chăm chú vào từng bước chân, bao nhiêu tâm trí sức lực đều dồn vào mục đích duy nhất là đến bờ bên kia an ổn.

Tổ Lâm Tế dạy: “Tình sanh trí cách, tưởng dấy thể sai”. Tình là ý thức phân biệt khi tiếp xúc với trần cảnh, trái ngược với trí là cái biết không phân biệt, nên khi xúc cảnh sinh tình thì ngay lúc ấy trí đã cách xa ngàn trùng. Tưởng là sự hiểu biết không đúng sự thật do ý thức vẽ vời, như bóng cây mà tưởng ma quỷ, mèo kêu trong đêm mà tưởng người gào... Khi tưởng dấy lên là đã sai với bản thể chân thật. Tình và tưởng làm che lấp thực tại, khiến con người không có cái thấy đơn thuần vô phân biệt mà Đức Phật gọi là Như thị tri, như thị kiến. Một bề chuyên tâm với nỗi nghi trọng đại, hành giả không dính mắc với trần cảnh bên ngoài, không khởi vọng tưởng điên đảo bên trong, ấy là đang công phu thiền định một cách đắc lực. Ở đây, chúng ta lại bắt gặp tư tưởng của Lục Tổ đã đề cập trong Pháp Bảo đàn: “Ngoại ly tướng tức thiền, nội bất loạn tức định”.

Một điều tế nhị chúng ta cần nhận định rõ: Hành giả khởi đại nghi là có khát vọng tìm ra chân lý, nhưng không phải có tâm chờ ngộ. Bởi vì, ngộ là thầm nhận tánh giác sẵn có, là nhận ra con người thật chính mình chứ không phải từ bên ngoài mà được. Nếu đem tâm chờ ngộ tức tìm cầu bên ngoài, ở một thời điểm xa xôi nào đó. Rồi khi công phu có một chút tỏ sáng, lại sanh tâm thủ đắc, sự chấp ngã càng nặng và vì thế giác ngộ càng xa thăm thẳm. Chúng ta sẽ có dịp khảo sát kỹ vấn đề nầy trong chương cuối.

2- Không cố công giải thích công án :

Một vị tăng hỏi Ngài Triệu Châu: “Vạn pháp về một, một về chỗ nào?”. Câu hỏi nầy là một công án nổi tiếng trong nhà Thiền. Ngài Triệu Châu đáp: “Khi ở Thanh Châu, ta có may một chiếc áo nặng bảy cân”. Lời đáp chẳng dính dáng gì với câu hỏi, mới nghe qua tưởng Thiền sư muốn đùa cợt, thật ra đó là lòng từ bi của Ngài nhằm cắt đứt dòng tư tưởng biện biệt. Bởi vì, khi ta suy luận lý giải về vấn đề cốt tuỷ của Đạo, thì dù vận dụng tư duy đến độ nào, ta cũng không nắm bắt được chân nghĩa của nó. Những câu hoạt ngữ của Thiền sư như vách sắt tường đồng khiến học nhơn không có chỗ bám vào; và nhờ không chỗ bám nên không sa vào mê trận của chữ nghĩa. Nhận ngay được thì tốt, không nhận thì cứ ôm mối nghi; và tuy khát khao giải tỏa mối nghi nhưng không khởi ý thức tư lường để tìm lời giải đáp. Động não suy tư là hành vi của chất xám, là món ngon của thức tâm phân biệt; nghi tình là bặt lối suy tư, là chặn đường ý thức. Lý luận làm tâm tán loạn nên càng lý luận càng xa lẽ thật; nghi tình làm dứt sạch vọng niệm, mới có cơ hội giải quyết vấn đề. Tổ Lâm Tế dạy: “Càng tìm thì càng xa, cầu thì trái, gọi đó là bí mật”. Lời dạy ngắn gọn nhưng ý nghĩa thâm trầm. Chúng ta lâu nay sống theo giả ngã và khoác lên nó bao lớp hoá trang, bao nhiêu tâm lực phí hoài để phục vụ cho nó, cuối cùng nó cũng tan hoại. Người tu là trở về nguồn cội, tìm chơn ngã nơi cái ngã giả dối kia. Nhưng khó khăn ở chỗ, nếu càng khởi niệm tìm thì Đạo càng xa, mà không tìm lại là phàm phu tục tử; cầu Đạo thì trái, mà không cầu lại sống theo bản năng. Vì khó khăn như thế nên Tổ bảo là “bí mật”. Bí mật nầy, mỗi người phải tự mình khám phá.

Bài “Trữ từ tự răn” của Tuệ Trung Thượng sĩ có đoạn:
Cầu chơn như đoạn vọng niệm
Dường la to át tiếng vang.
Bỏ phiền não giữ Niết-bàn
Như sợ bóng ra ngoài nắng.

Trong lớp, khi học sinh làm ồn, thầy giáo la to để học sinh chú ý im lặng; khi lớp đã yên, nếu thầy cứ la to mãi, hoá ra chính thầy làm ồn náo. Cũng vậy, hành giả dùng khối nghi như phương tiện đánh bạt mọi vọng niệm, không phải xem khối nghi là cứu cánh, càng không có tâm đoạn vọng cầu chơn. Bởi vì, cầu chơn như đoạn vọng niệm, giữ Niết-bàn bỏ phiền não là còn ý thức phân biệt hai bên, còn sở thủ sở đắc, tức còn xa lý Đạo; như người muốn át tiếng mà cứ la to, muốn hết bóng lại mãi đứng ngoài nắng, bao giờ mới tròn ý nguyện?

Thật ra, trong đời sống văn minh hiện đại, tri thức rất cần cho sự phát triển tinh thần và tiện ích của nhân loại, cũng cần cho bước đầu tu tập để tìm hiểu đường hướng, phương pháp công phu. Tuy nhiên, tri thức không giúp hành giả giác ngộ, đôi khi còn làm trở ngại nếu chấp vào vốn hiểu biết của mình. Động não tư duy là dùng nhơn động, nhơn sanh diệt mà tu, nên kết quả nếu có cũng còn trong sanh diệt. Hành giả tham công án, bặt hết lý giải biện luận tức tu nhơn thanh tịnh, thì lúc có kết quả sẽ là thanh tịnh không nghi. Đạo không phải là cái gì bên ngoài để ta mong mỏi suy tính. Đạo chính là con người thật của chính mình, nên muốn được thì lại mất; khi buông sạch sẽ, Đạo mới lồ lộ rỡ ràng. “Đi tay không về tay không”. Tinh thần nầy, Ngài Nam Nhạc mất tám năm mới quán triệt, mới có thể đối trước Lục Tổ trả lời câu hỏi: “Đem vật gì đến?” bằng lời đáp:

- Nói một vật tức chẳng trúng.

Người bình thường khi nghe hỏi, có thể trả lời nhiều câu khác nhau tuỳ trường hợp mình mang theo vật dụng gì đến. Chúng ta tu Thiền, được nghe giảng quá nhiều và hiểu cũng không ít, nên cũng không phải mất thời gian lâu như thế để có câu trả lời. Nhưng thật ra, người xưa ôm mối nghi, thao thức với mối nghi ấy, và lúc trả lời được tức là đã nhận ra bằng trực giác Bát-nhã. Còn chúng ta ngày nay, hiểu biết trên kinh sách bằng ý thức suy luận tư biện, thật không dính dáng. Đức Phật dạy: “Pháp lìa văn tự, chẳng thuộc nhân chẳng thuộc duyên”. “Pháp” tức chân lý tuyệt đối, là những gì Đức Phật muốn truyền đạt nhưng không thể diễn tả bằng lời. Những điều Ngài chỉ dạy cho môn đệ suốt 49 năm hoằng hoá, chỉ là nắm lá trong tay; những điều Ngài thấy được biết được như lá trong rừng. Kinh điển văn tự là chân lý chết, không phải mục đích tối hậu của đời tu; nhưng chúng ta phải nương vào kinh điển mà nhận ra thực tại phi ngôn ngữ. Nhờ kinh điển chỉ dạy đường lối công phu, nhờ công phu mà tâm sáng tỏ, khi sáng tâm liền rõ biết pháp lìa văn tự. Thuật khai tâm của các Thiền sư, theo đúng đường lối “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” giúp môn đệ không sa vào hai cực đoan: hoặc chấp vào kinh điển làm cứu cánh mà không nỗ lực công phu; hoặc bài bác kinh điển, không biết khiêm cung học thầy học bạn. Người ôm mãi chiếc bè không chịu lên bờ, cũng như người đang ở giữa dòng mà vội phá bỏ chiếc bè, cả hai đều lầm lẫn, không thể qua bờ bên kia được .

 

II- NỘI DUNG THIỀN TẬP:

1- Lộ trình tâm linh:

Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập thể.

Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Đây lại là cuộc trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đôï từ thấp đến cao(5).

Chánh niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.

Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.

2- Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:

Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Đây là một điều lầm lẫn lớn lao. Đức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ.

Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.

Tọa thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố định. Đơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Đến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Đi trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình. Đi thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.

Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.

Mặt khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt; và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.

Các huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến việc làm.

Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.

Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Đó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.

Cổ đức nói:
Phiền não khởi giai do đa sự
Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.

Con người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ thực tại. Đạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.

Thiền sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.

Khi biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Đời sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.

Một số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.

3- Một vài ngộ nhận trong công phu:

* Có người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách dụng công. Đây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Đây không những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.

* Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”. Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.

* Một số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Đây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ xứ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.

* Đức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Đấng Cứu thế bên ngoài hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Đây là điều chúng ta cần thận trọng ghi nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567