Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ chín. Phẩm thứ năm: Bố Thí Ba La Mật (Phần 2)

15/05/201317:59(Xem: 9948)
Quyển thứ chín. Phẩm thứ năm: Bố Thí Ba La Mật (Phần 2)

Kinh Bi Hoa (Lịch sử đức Phật A Di Đà và các Bồ Tát) 10 quyển

Quyển thứ chín
Phẩm thứ năm: Bố Thí Ba La Mật (Phần 2)

Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường

Nguồn: Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 3, No. 157 Bản dịch Hán văn Đời Bắc Lương, Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm Người Thiên Trúc Chứng nghĩa và nhuận văn Tỳ kheo Thích Đỗng Minh Tỳ kheo Tâm Hạnh

Thiện nam tử! Pháp môn Thanh tịnh Trợ Bồ đề của Đại Bồ Tát là những gì?
Thiện nam tử! Bố thí tức là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì giáo hóa chúng sanh.
Trì giới là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đầy đủ nguyện lành.
Nhẫn nhục là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
Tinh tấn là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì siêng năng giáo hóa các chúng sanh.
Thiền định là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì làm cho tâm được điều phục hoàn toàn.
Trí tuệ là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì có thể biết đầy đủ các phiền não.
Đa văn là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đầy đủ sự vô ngại đối với các pháp.
Nhất thiết công đức là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì làm cho tất cả chúng sanh được đầy đủ.
Trí nghiệp là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì được đầy đủ trí vô ngại.
Tu định là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì được thành tựu tất cả tâm mềm mỏng.
Tuệ nghiệp là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì xa lìa tất cả các nghi hoặc.
Tâm từ là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì tâm vô ngại đối với các chúng sanh.
Tâm Bi là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì diệt hết các khổ cho chúng sanh.
Tâm Hỷ là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì ưa thích pháp.
Tâm Xả là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì không còn yêu ghét.
Nghe pháp là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đoạn trừ năm sự ngăn che.
Xuất thế là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì xả bỏ những gì mình có.
A lan nhã là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì lìa các bận rộn.
Chuyên niệm là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì được Đà la ni.
Ghi nhớ là đúng pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì ý thức phân biệt.
Tư duy là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đối với các pháp được hiểu rõ nghĩa.
Niệm xứ là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì phân biệt hiểu rõ thân - thọ - tâm - pháp.
Chánh cần là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì chấm dứt các pháp ác, tu tập các pháp thiện.
Như ý tức là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì thân tâm nhẹ nhàng.
Các căn là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì được đầy đủ căn lành của tất cả chúng sanh.
Các lực là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì có thể phá hoại hoàn toàn các phiền não.
Các giác chi là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đối với các pháp hiểu biết đầy đủ tướng thật.
Chánh đạo là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì xa lìa tất cả các tà đạo.
Thánh đế là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì đoạn diệt tất cả các phiền não.
Bốn vô ngại biện là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì diệt trừ được các nghi hoặc cho chúng sanh.
Duyên niệm là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì được trí huệ không do nghe từ nơi người khác.
Thiện hữu là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì giúp cho thành tựu tất cả công đức.
Phát tâm là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì thành tựu không dối trá với các chúng sanh.
Dụng ý là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì phát xuất tất cả các pháp.
Chuyên tâm là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì tăng thêm pháp lành.
Tư duy pháp lành là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì được thành tựu các pháp đã nghe.
Nhiếp thủ là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì thành tựu việc giáo hóa các chúng sanh.
Hộ trì chánh pháp là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì làm cho hạt giống Tam bảo không bị chấm dứt.
Thiện nguyện là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì thành tựu thế giới Phật xinh đẹp, thanh tịnh.
Phương tiện là pháp hỗ trợ cho Bồ đề vì mau được thành tựu Nhất thiết trí.
Thiện nam tử! Đây là tất cả các pháp môn thanh tịnh Trợ Bồ đề của Đại Bồ Tát.
Thiện nam tử! Bấy giờ, Bảo Tạng Như Lai nhìn đại chúng Bồ Tát khắp bốn phía rồi bảo Đại Bi.
Này Đại Bi! Bồ Tát dùng ngọc anh lạc Vô sở úy trang sức đầy đủ nơi pháp nhẫn như thế nào?
Thiện nam tử! Bồ Tát nào thấy rõ đệ nhất nghĩa không còn si mê, nên tinh tấn không đắm trước ba cõi. Không đắm trước ba cõi là pháp Tam muội vô úy của Sa môn, như đưa tay giữa hư không, không bị dính mắc. Lại quán sát các pháp không thấy có tướng.
Đại Bi! Đó gọi là Đại Bồ Tát trang sức bằng ngọc anh lạc Vô sở úy.
Thiện nam tư! Thế nào gọi là Đại Bồ Tát đầy đủ nhẫn? Khi Bồ Tát trụ vào pháp này, thấy được các tướng trạng của các pháp như vi trần và quán sát nghịch thuận về các pháp, hiểu rõ không có quả báo.
Tu tập về Từ, không còn có ngã.
Tu tập về Bi, không còn có chúng sanh.
Tu tập Hỷ, không còn có thọ mạng.
Tu tập Xả, không còn chấp có người.
Tuy làm việc bố thí mà không thấy có vật thí.
Tuy tu hành trì giới mà không thấy có tâm tịnh.
Tuy thực hành nhẫn nhục mà không thấy có chúng sanh.
Tuy hành tinh tấn mà không lìa tâm mong muốn.
Tuy hành thiền định mà không chỉ vì trừ ác tâm.
Tuy hành trí tuệ mà không có sự hành.
Tuy hành niệm xứ mà không thấy tư duy.
Tuy hành Chánh cần mà không thấy sanh diệt của tâm.
Tuy hành Như ý túc mà không thấy tâm vô lượng.
Tuy hành Tín mà không thấy tâm không chướng ngại.
Tuy hành niệm mà không thấy tâm được tự tại.
Tuy hành định mà không thấy tâm nhập định.
Tuy hành tuệ mà không thấy tuệ căn.
Tuy hành các lực mà không có sự phá hoại.
Tuy hành các giác ý mà tâm không phân biệt.
Tuy hành chánh đạo mà không thấy các pháp.
Tuy hành định nghiệp mà không thấy tịch tịnh của tâm.
Tuy hành tuệ nghiệp mà không thấy việc làm của tâm.
Tuy hành Thánh đế mà không thấy thông đạt pháp tướng.
Tuy tu niệm Phật mà không thấy vô lượng tâm hành.
Tuy tu niệm Pháp mà tâm đồng pháp giới.
Tuy tu niệm Tăng mà tâm không nơi trụ, giáo hóa chúng sanh mà tâm giữ được thanh tịnh.
Tuy giữ gìn chánh pháp mà đối với các pháp giới, tâm không phân biệt.
Tuy tu tịnh độ mà tâm bình đẳng giống như hư không.
Tuy tu tướng hảo mà tâm không có các tướng.
Tuy được nhẫn nhục mà tâm không sở hữu.
Tuy trụ Bất thối mà thường tự mình không thấy thối và bất thối.
Tuy hành đạo tràng mà hiểu rõ ba cõi không có tướng khác.
Tuy phá các ma mà chính vì lợi ích vô lượng chúng sanh.
Tuy hành Bồ đề mà quán các pháp không, không có tâm Bồ đề.
Tuy chuyển pháp luân mà đối với tất cả pháp không lưu chuyển, không hoàn diệt.
Tuy thị hiện Đại bát Niết bàn, đối với sanh tử có tâm bình đẳng xem không khác.
Bồ Tát như vậy được gọi là đầy đủ nhẫn.
Khi thuyết pháp này có sáu mươi bốn ức Đại Bồ Tát từ mười phương đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni để nghe kinh Bổn Duyên Tam Muội Môn Thanh Tịnh Trợ Bồ Đề Pháp này. Nghe xong, tất cả các vị ấy đều được Vô sanh nhẫn.
Khi ấy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo đại chúng:
-Các ông nên biết; trong đời quá khứ, khi Bảo Tạng Như Lai thuyết pháp này có bốn mươi tám hằng hà sa Đại Bồ Tát được Vô sanh nhẫn, Đại Bồ Tát nhiều như vi trần cả bốn thiên hạ đều trụ địa vị Bất thối chuyển, một hằng hà sa Đại Bồ Tát được kinh Bổn Duyên Tam Muội Môn Trợ Bồ Đề Pháp.
- Thiện nam tử! Bồ Tát Đại Bi nghe pháp này xong, tâm rất hoan hỷ, thân thể liền thay đổi, trẻ lại như người hai mươi tuổi, theo bên Như Lai như hình với bóng.
- Thiện nam tử! Lúc ấy, Chuyển Luân Thánh Vương và một ngàn người con, tám vạn bốn ngàn tiểu vương, chín mươi hai ức người đều cùng xuất gia, phụng hành giới cấm, tu học đa văn, nhẫn nhục Tam muội, siêng năng tinh tấn.
- Thiện nam tử! Khi ấy, Đại Bồ Tát Đại Bi dần dần theo Phật học hỏi và lãnh thọ tám vạn bốn ngàn pháp tụ của Thanh Văn, chín vạn pháp tụ của Duyên Giác và thọ trì đọc tụng thông suốt. Đối với pháp tạng Đại thừa, mười vạn pháp tụ trong Thân niệm xứ, mười vạn pháp tụ trong Thọ niệm xứ, mười vạn pháp tụ trong Tâm niệm xứ, mười vạn pháp tụ trong Pháp niệm xứ đều được Bồ Tát Đại Bi thọ trì đọc tụng thông suốt. Đối với mười vạn pháp tụ trong mười tám giới, mười vạn pháp tụ trong mười hai nhập, mười vạn pháp tụ đoạn trừ tham dục, mười vạn pháp tụ đoạn trừ sân nhuế, mười vạn pháp tụ đoạn trừ ngu si, mười vạn pháp tụ Tam muội giải thoát, mười vạn pháp tụ các lực vô úy, các pháp Bất cộng, mười ức pháp tụ, v.v... như vậy, Bồ Tát Đại Bi đều cũng thọ trì đọc tụng thông suốt tất cả.
- Thiện nam tử! Sau khi đức Phật kia nhập Niết bàn, bấy giờ Đại Bồ Tát Đại Bi đem vô lượng vô biên vô số các thứ hoa, hương bột, hương xoa, tràng phan, lọng báu, trân bảo, âm nhạc để cúng dường, chất vô số củi thơm làm giàn, hỏa táng thân Như Lai, thu xá lợi, dựng tháp bảy báu cao năm do tuần, chiều ngang và dọc đều bằng một do tuần; đem vô số vô lượng vô biên hoa hương, âm nhạc, tràng phan, bảo cái để cúng dường trong bảy ngày; lại làm cho vô lượng vô biên chúng sanh an trụ trong pháp ba thừa.
Thiện nam tử! Qua bảy ngày, Bồ Tát Đại Bi cùng với tám vạn bốn ngàn người đồng xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc. Sau khi Phật Bảo Tạng Bát Niết bàn, Bồ Tát Đại Bi đem tâm tùy thuận bình đẳng làm cho chánh pháp rực rỡ suốt mười ngàn năm; lại làm cho vô lượng vô biên vô số chúng sanh tu tập theo pháp ba thừa, ba quy y, năm giới cấm, tám trai giới, mười giới Sa di, tuần tự cho đến đầy đủ tịnh hạnh của Đại tăng; lại khuyến hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh tu tập nơi bốn hạnh vô lượng, thần thông phương tiện, quán sát năm ấm giống như giặc thù, quán các nhập và xứ như xóm làng hoang vắng, quán các pháp hữu vi do nhân duyên sanh, khuyến hóa làm cho chúng sanh đạt được tri kiến, quán tất cả pháp như ảnh phản chiếu trong gương, như quáng nắng, như trăng trong nước, đối với các pháp biết không có ngã, không sanh, không diệt, Niết bàn là vi diệu tịch tịnh đệ nhất; lại làm cho vô lượng vô biên chúng sanh trụ yên trong tám Thánh đạo. Sau khi làm các Phật sự lợi ích lớn như vậy xong, Tỳ kheo Đại Bi viên tịch.
Khi ấy, có vô lượng vô biên trăm ngàn người đem vô số vật cúng dường đẻ cúng dường xá lợi Tỳ kheo Đại Bi. Như pháp cúng dườngChuyển Luân Thánh Vương, đại chúng này cũng dùng vô số loại cúng dường như vậy để cúng dường xá lợi Tỳ kheo Đại Bi. Trong ngày Tỳ kheo Đại Bi viên tịch, chánh pháp của Bảo Tạng Như Lai cũng diệt hết. Các Bồ Tát khác theo bổn nguyện của mình nên sanh đến cảnh giới Phật, hoặc sanh cõi Đâu Suất, loài người, loài rồng, Dạ xoa hoặc A tu la, hay sanh trong các loài súc sanh.
Thiện nam tử! Sau khi Tỳ kheo Đại Bi viên tịch theo bổn nguyện, ở phương Nam, cách đây mười ngàn cõi Phật, có thế giới Phật tên là Hoan Hỷ, loài người trong đó sống tám mươi tuổi, tập trung tất cả các kẻ căn tánh bất thiện, ưa làm việc sát hại, sống theo các nghiệp ác, không có tâm từ bi với tất cả chúng sanh,bất hiếu với cha mẹ, cho đến không sợ đời sau. Do bổn nguyện, Tỳ kheo Đại Bi sanh vào nhà Chiên Đà La của thế giới ấy, thân tướng cao lớn, tuấn tú, thế lực vững mạnh, oai phong, hùng dũng, chuyên cần học vấn, biện luận nhanh nhẹn, các việc như vậy đều hơn người. Dùng thế lực vững mạnh của mình ra lệnh cho mọi người, Đại Bi nói thế này:
Nếu ngươi có thể thọ giới không trộm cướp, cho đến xa lìa vô số tà kiến, thực hành chánh kiến, ta sẽ tha mạng cho ngươi, cung cấp cho ngươi đầy đủ đồ vật, tài sản cần dùng, không để cho thiếu thốn. Nếu không thọ giới, ta nhất định sẽ giết ngươi rồi mới ra đi.
Khi ấy, mọi người quỳ thẳng, chắp tay thưa:
Nhân giả! Ngài đã làm cho chúng tôi hàng phục, theo lời ngài dạy, chúng tôi xin thọ trì; trọn đời không còn làm lại việc trộm cắp, cho đến chánh kiến cũng như vậy.
Khi ấy, Cường Lực Chiên Đà La đi đến gặp vua, đại thần và thưa rằng:
Tôi đang cần vật dụng, tài sản như là: thực phẩm, y phục, vật dùng để nằm, y dược, hương hoa, vàng bạc, tiền của, hàng hóa, trân châu, lưu ly, ngọc kha bối, ngọc bích, san hô, hổ phách, vật báu, giống như vật báu... Nếu tôi được vô số vật này, sẽ đem bố thí cho chúng sanh.
Quốc vương, đại thần liền cho người này đầy đủ các vật cần dùng. Nhân làm việc bố thí này, Chiên Đà La làm cho vua và đại thần sống trong mười điều thiện. Bấy giờ, tuổi thọ loài người tăng thêm đủ năm trăm tuổi. Vua đó qua đời, các đại thần, v.v... đưa Chiên Đà La lên kế vị ngôi vua. Nhân việc làm ấy nên đặt danh hiệu Chiên Đà La này là Công Đức Lực.
Thiện nam tử! Bấy giờ, làm vua một quốc độ không bao lâu, lại nhờ khả năng cho nên vua Công Đức Lực lại làm vua hai quốc độ. Như vậy, không bao lâu, tuần tự nhà vua được làm Chuyển Luân Thánh Vương, vua Diêm Phù Đề, sau đó giáo hóa tất cả chúng sanh, làm cho an trụ giới bất sát, cho đến chánh kiến cũng như vậy. Tùy theo chỗ ưa thích của chúng sanh, vua khuyến hóa cho họ tu tập theo ba thừa.
Khi vua Công Đức Lực giáo hóa vô lượng chúng sanh trong Diêm Phù Đề sống theo mười thiện đạo và tu tập theo ba thừa xong, thì lớn tiếng xướng lên trong cõi Diêm Phù Đề:
Nếu có ai cầu xin vật cần dùng, thực phẩm, cho đến muốn được các loại trân bảo, đều đến nơi đây ta sẽ cấp cho.
Khi nghe xướng như vậy, tất cả khất sĩ trong Diêm Phù Đề đều đến tập họp. Bây giờ, vua Công Đức Lực cung cấp các vật dụng cần dùng cho họ đầy đủ theo ý muốn.
Lúc ấy, có một Ni kiền tử tên Khôi Âm, đi đến gặp Vua, thưa:
Những hành động bố thí vĩ đại của nhà vua đang làm là để cầu đạo Vô thượng chánh chân, ngài nên cung cấp cho tôi những vật cần dùng được đầy đủ, đời vị lai vua sẽ thắp sáng đèn pháp.
Vua hỏi:
Khanh cần những gì?
Người kia đáp:
Tôi tụng trì chú thuật, muốn gây chiến với A tu la, đánh dẹp làm cho chúng nó sợ; và để được thắng lợi, tôi xin thưa vua rằng: vật tôi cần dùng là da và mắt của người chưa chết.
Nghe thưa như vậy, Đại vương suy nghĩ: “Ta đã được làm Chuyển Luân Thánh Vương với thế lực vô lượng rồi, đưa được vô lượng chúng sanh vào trong Thập thiện và ba thừa, lại làm vô lượng vô biên việc bố thí lớn. Thiện tri thức này muốn làm cho ta đem thân không bền chắc đổi lấy thân bền chắc”.
Sau khi nghĩ vậy, Đại vương liền bảo:
Xin ông phát tâm hoan hỷ, Ta sẽ đem mắt thịt phàm phu này bố thí cho ông; nhờ sự việc này, làm cho đời sau ta được huệ nhãn thanh tịnh. Với tâm hoan hỷ, Ta lột da cho ông, nhờ sự việc này làm cho Ta sau khi thành Chánh Giác được thân mầu hoàng kim.
Thiện nam tử! Bấy giờ vua Công Đức Lực dùng tay phải móc lấy hai con mắt bố thí cho Ni kiền tử, máu chảy nhớp cả mặt, Vua nói:
Chư Thiên, Long thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, v.v... hoặc ở trong hư không, hoặc ở trên mặt đất, xin hãy cùng nghe Ta nói: “Sự bố thí của Ta hôm nay đều vì đạo Vô thượng Bồ đề bạch tịnh Niết bàn để độ chúng sanh vượt bốn dòng nước dữ, làm cho được an trụ Niết bàn”.
Lại bảo:
Nếu Ta chắc chắn thành Chánh Giác, tuy làm việc như thế này nhưng mạng sống hiện nay không thể bị phá hoại, không mất chánh niệm, không hối hận, làm cho các chú thuật Ni kiền tử được thành tựu.
Lại bảo:
Ông đã có thể đến lột lấy da của ta.
Thiện nam tử! Khi ấy Ni kiền tử liền đem dao bén lột lấy da Vua và bảy ngày sau hoàn thành được chú thuật. Bấy giờ, trong bảy ngày, mạng sống của Vua vẫn còn nhưng Vua không mất chánh niệm. Tuy chịu khổ như vậy nhưng Vua không có một ý niệm hối hận nào cả.
Thiện nam tử! Ông nên biết, khi ấy Bồ Tát Đại Bi nào phải người nào khác, chẳng cần suy nghĩ gì nữa, đó chính là thân Ta nơi đời quá khứ, bắt đầu phát tâm thành Chánh Giác ở chỗ Phật Bảo Tạng. Vừa mới phát tâm, Ta đã khuyến hóa vô lượng vô biên chúng sanh an trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! Đấy là lần đầu tiên Ta tinh tấn rất mạnh mẽ. Khi ấy, Ta nhờ sức bổn nguyện nên qua đời, sanh vào nhà Chiên Đà La, nơi thế giới Hoan Hỷ, là lần thứ hai Ta tinh tấn mạnh mẽ. Ta sanh trong gia đình Chiên Đà La, giáo hóa chúng sanh sống theo thiện pháp, dùng thế lực của mình cho đến sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương, diệt sự đấu tranh nhơ nhớp ở cõi Diêm Phù Đề, làm cho được thanh tịnh, tăng thêm tuổi thọ. Đây là lần đầu tiên Ta xả bỏ thân, da và mắt.
Thiện nam tử! Do bổn nguyện nên Ta qua đời ở thế giới kia và sanh trở lại thế giới Hoan Hỷ, trong gia đình Chiên Đà La, cho đến việc làm Chuyển Luân Thánh Vương, dùng thế lực lớn làm cho chúng sanh sống trong thiện pháp. Nơi thế giới kia, Ta lại diệt trừ được các việc oán tặc, đấu tranh, nhơ nhớp, làm cho tuổi thọ của chúng sanh được tăng thêm. Ngay khi Ta vừa bỏ tai, lưỡi ..., làm các việc lớn như vậy trong các cõi thiên hạ ở tam thiên đại thiên thế giới xong, do nguyện lực nên Ta tuần tự tinh tấn mạnh mẽ như vậy. Lại ở trong đời trược ác nhiều như cát sông Hằng, Ta làm lợi ích lớn, an trụ chúng sanh trong thiện pháp và ba thừa, diệt trừ oán tặc đấu tranh nhơ nhớp.
Thiện nam tử! Ngoài ra, thế giới thanh tịnh ở phương khác có chư Phật với bổn hạnh khi cầu thành Chánh Giác là không nói lỗi người khác, không nói lời thô ác với người khác, không dùng thế lực để biểu hiện sự khủng bố, không khuyến hóa chúng sanh vào Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, cho đến sau khi chư Phật thành tựu viên mãn Chánh Giác, được thế giới xinh đẹp thanh tịnh này, không có các danh từ tội lỗi, không có thọ giới, tai không bao giờ nghe lời thô ác, không có tiếng bất thiện, thường nghe tiếng chánh pháp, xa lìa tất cả các tiếng không vừa ý, được tự tại đối với tất cả chúng sanh, không có các danh từ Thanh văn, Bích Chi Phật.
Thiện nam tử! Trong hằng hà sa đại kiếp, ở hằng hà sa các quốc độ không có Phật, với đời năm ác trược, Ta dùng nhân duyên thô ác, với các điều kiện muốn giết chết để khủng bố chúng sanh và sau đó khuyến hóa làm cho họ an trụ vào thiện pháp và trong ba thừa. Dư nghiệp của họ như vậy nên khiến ra có thế giới tệ ác như vậy. Do dùng âm thanh bất thiện rao kháp thế giới nên nay có chúng sanh bất thiện đầy khắp thế giới ấy. Bổn nguyện của Ta là thuyết pháp ba thừa, nhận thế giới Phật, điều phục chúng sanh ..., sự việc ấy là như vậy. Như Ta đã nói, tinh tấn tu tập hành đạo Bồ Tát nên nay được chủng tử ban đầu giống như thế giới của Phật. Nay bổn nguyện của Ta đã được như vậy.
Thiện nam tử!Ta sẽ nói sơ lược về việc Bố thí Ba la mật của Ta xưa kia. Khi Ta thực hành Bố thí Ba la mật, các Bồ Tát quá Khứ khi hành đạo Bồ Tát cũng không có thể làm được hạnh như vậy. Đời vị lai, người hành đạo Bồ Tát cũng không có thể làm được việc như vậy. Ta là Bồ Tát mà khi thực hành Bố thí Ba la mật chỉ trừ tám vị thiện trượng phu thời quá khứ:
Bồ Tát thứ nhất tên Nhất Địa Đắc, tại cõi Nhất Thiết Quá Hoạn ở phương Nam này thành Chánh Giác hiệu là Phá Phiền Não Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Khi loài người thọ một trăm tuổi, Ngài ở đó thuyết pháp, sau bảy ngày nhập Bát Niết bàn.
Bồ Tát thứ hai tên Tinh Tấn Thanh Tịnh, ở quốc độ Viêm Xí, tại phương Đông, thành Chánh Giác hiệu là Bách Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Khi loài người thọ một trăm tuổi, Ngài ở đó thuyết pháp. Đức Phật ấy trải qua một hằng hà sa đẳng đại kiếp làm Phật sự xong, nhập Vô thượng Niết bàn. Cho đến ngày nay, ở nước không có Phật, xá lợi của Phật đó làm các Phật sự giống như Ta không khác.
Bồ Tát thứ ba tên Kiên Cố Hoa, siêng năng tinh tấn tu tập các Tam muội, dùng thế lực lớn làm việc bố thí. Vào đời tương lai, trải qua mười hằng hà sa đẳng đại kiếp, ở thế giới Hoan Lạc phương Bắc, thành Chánh Giác hiệu là Đoạn Ái Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Bồ Tát thứ tư tên Huệ Xí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ, trải qua một đại kiếp ở thế giới Khả Úy phương Tây, khi loài người thọ trăm tuổi, trong đó Bồ Tát ấy thành Chánh Giác hiệu là Nhật Tạng Quang Minh Vô Cấu Tôn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Ở trước Ta đang có hai Bồ Tát:
Một : tên Nhật Quang.
Hai : tên Hỷ Tý.
Đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên đại kiếp, ở quốc độ Khôi Vụ phương trên, kiếp tên Đại Loạn, đời ngũ trược ác nhiều các phiền não, loài người thọ năm mươi tuổi, do bổn nguyện nên Bồ Tát Nhật Quang ở trong đó thành Chánh Giác, hiệu là Bất Tư Nghì Nhật Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sư, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, đầy đủ Phật sự trong mười năm và Bát Niết bàn, ngay ngày Niết bàn, chánh pháp cũng diệt. Sau đó, suốt mười năm không có Phật, tuổi thọ của loài người giảm dần xuống ba mươi tuổi, Bồ Tát Hỷ Tý do bổn nguyện nên ở trong đó được thành Chánh Giác hiệu là Thắng Nhật Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cũng làm đầy đủ Phật sự trong mười năm rồi Bát Niết bàn. Bát Niết bàn xong. do bổn nguyện, chánh pháp trụ ở đời đủ bảy mươi năm.
Bấy giờ, ở trước Phật vừa được nghe thọ ký thành Chánh Giác nên hai Bồ Tát rất hoan hỷ, cúi đầu kính lễ. Do hoan hỷ nên hai vị bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa la, chắp tay hướng Phật, đồng thanh đọc kệ:
Ánh sáng Như Lai
Vượt hơn nhật nguyệt
Ngay trong đời ác
Thuyết trí huệ lớn
Điều ngự bạch tịnh
Không còn nhơ nhớp
Luận Nghị vi diệu
Bẻ dẹp ngoại đạo
Ta vô lượng kiếp
Tu Vô tưởng định
Để cầu Bồ đề
Thắng diệu vô thượng
Cúng dường chư Phật
Nhiều như hằng sa
Phật thời quá khứ
Chưa thọ ký Ta
Ly dục Thế Tôn
Tâm được giải thoát
Nơi đời tối tăm
Giỏi làm Phật sự
Giảng thuyết pháp cho
Chúng sanh lạc đường
Làm cho thoát khỏi
Dòng nước sanh tử
Nay nguyện của Ta
Tự tại nơi đây
Pháp Phật thanh tịnh
Xuất gia tu đạo
Tịnh giới giải thoát
Làm đúng như lời
Định tâm quán Phật
Như bóng theo hình
Không vì lợi dưỡng
Chỉ cầu chánh pháp
Được nghe pháp xong
Uống vị cam lồ
Cho nên Thế Tôn
Thọ ký cho Ta
Nơi đời vị lai
Đắc đạo Vô thượng.
Thiện nam tử! Ngoài hai người vẫn chưa phát tâm ra . Những người đã phát tâm là:
Nhật Quang
Hỷ Tý
Và trước đó có bốn người:
Địa Đắc
Tinh Tấn Tịnh
Kiên Cố Hoa
Huệ Xí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ.
Cộng lại, có tám người mà trong đó có sáu Bồ Tát ban đầu đã được Ta khuyến hóa làm cho phát tâm thành Chánh Giác.
Thiện nam tử! Nay ông hãy lắng nghe nhân duyên của thời quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp. Bấy giờ thế giới này tên Vô Cấu Tu Di, loài người thọ trăm tuổi, có Phật xuất thế hiệu Hương Liên Hoa, sau khi Phật ấy Bát Niết bàn, trong đời tượng pháp, lúc ấy Ta làm Chuyển Luân Đại Cường Lực Thánh vương, hiệu Nam Thủ Hoại, là vua Diêm Phù Đề, có ngàn người con đều được Ta khuyến hóa, làm cho phát tâm thành Chánh Giác. Sau đó, trong đời tượng pháp, họ theo Phật pháp của Hương Liên Hoa mà xuất gia tu tập, làm phát huy rực rỡ giáo pháp của Phật để lại, chỉ trừ sáu người con không chịu phát tâm Bồ đề xuất gia. Khi ấy, Ta luôn luôn bảo:
Các khanh nay muốn cầu gì? Vì sao không phát tâm Vô thượng đạo, xuất gia tu hành?
Sáu người con thưa:
Không nên xuất gia. Vì sao? Nếu ở thời gian cuối cùng của đời tượng pháp mà xuất gia thì không thể hộ trì và thành tựu giới tụ, xa lìa bảy Thánh tài. Do không hộ giới, khi chết bị rơi trong bùn nhơ sanh tử, đọa ba đường ác, không được sanh lên trời, trong loài người. Vì vậy, chúng con không thể xuất gia tu hành.
Thiện nam tử! Ta hỏi trở lại:
Vì sao các khanh không phát tâm Vô thượng đạo?
Sáu người con đáp:
Nếu có thể cho chúng con cõi Diêm Phù Đề thì sau đó chúng con sẽ phát tâm thành Chánh Giác.
Thiện nam tử! Nghe như vậy, Ta rất vui mừng, suy nghĩ: “ Ta đã dạy người Diêm Phù Đề thọ trì ba quy y, giữ gìn tám trai giới, tu tập theo ba thừa. Nay Ta sẽ phân Diêm Phù Đề này ra làm sáu phần cho sáu người con này, làm cho họ phát được tâm Vô thượng đạo, sau đó, Ta sẽ xuất gia tu hành”. Sau khi suy nghĩ như vậy, Ta phân Diêm Phù Đề làm sáu phần cho các con, rồi đi xuất gia.
Sáu vị vua này lại chống nhau, không hoà thuận, cướp bóc, đánh đập, chiến tranh trói buộc, gông cùm xiềng xích lẫn nhau.
Bấy giờ, khắp cả Diêm Phù Đề lúa mạ không mọc, nhân dân đói khát, mưa không đúng mùa, cây cối khô héo không trổ hoa trái, cỏ thuốc không mọc, nhân dân, cầm thú và các loài chim bay đều bị đói khát, thân bị nóng cháy giống như đống lửa. Khi ấy, Ta lại suy nhgĩ: “Lúc này Ta phải từ bỏ thân thể, đem da và máu thịt của mình để bố thí cho chúng sanh, làm cho chúng được no đủ”.
Nghĩ như vậy xong, từ chỗ ở nơi A-lan-nhã, Ta đi dến nhân gian. Giữa đường có ngọn núi tên Thủy Ái Hộ. Ta ở trên núi này nói kệ phát nguyện:
Như Ta tự bỏ
Thân mạng của mình
Vì tâm đại bi
Không cầu quả báo
Chỉ vì lợi ích
Người và chư thiên
Nguyện làm núi thịt
Thí cho chúng sanh
Nay Ta đã bỏ
Sắc đẹp đoan nghiêm
Không cầu Đế Thích
Thiên ma, Phạm vương
Chỉ vì lợi ích
Trời, người tương lai
Đem thân máu thịt
Cho các chúng sanh
Chư thiên, long thần
Nhơn và phi nhơn
Kẻ ở núi rừng
Hãy nghe Ta nói
Vì các chúng sanh
Ta phát đại bi
Tự đem máu thịt
Cung cấp cho họ.
Thiện nam tử! Ngay khi Ta phát nguyện như vậy xong thì chư thiên rúng động. Các núi Tu Di, biển lớn, đại địa chấn động sáu cách. Trời, người, đại chúng kêu gào thương xót. Bấy giờ Ta ở núi Thủy Ái Hộ tự gieo mình xuống, do nguyện lực nên thân liền hóa thành núi thịt cao một do tuần, chiều ngang và dọc đều bằng một do tuần. Bấy giờ, cầm thú chim bay, nhân dân ... bắt đầu cùng nhau uống máu, ăn thịt Ta. Do bổn nguyện của Ta nên khoảng giữa đêm, thân càng thêm to lớn, cho đến cao một ngàn do tuần, ngang dọc cũng đều bằng một ngàn do tuần, tự nhiên ngay nơi thân mọc ra những đầu người đầy đủ tai, mắt, mũi, miệng, môi, lưỡi. Mỗi cái đầu đều kêu lên thế này:
Các chúng sanh ơi! Mỗi người hãy tùy ý đến lấy mà dùng. Uống máu, ăn thịt, lấy đầu, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi, răng, v.v... Sau đó đều phát tâm thành Chánh Giác, hoặc phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Các khanh nên biết! Vật này có vô cùng tận, ăn vào dễ tiêu, sống lâu không
chết yểu. Người có trí sáng, uống máu, ăn thịt, lấy đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, hoặc phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, hoặc phát tâm thành Chánh Giác, hoặc cầu giầu vui trong loài người, trên trời. Do bổn nguyện nên đến vạn năm, thân ấy không tổn giảm. Người và quỷ thần, chim bay, cầm thú trong Diêm Phù Đề, tất cả đều được đầy đủ. Trong vạn năm Ta đã bố thí mắt như số cát sông Hằng, đã bố thí máu như nước bốn biển lớn, đã xả bỏ thịt như ngàn núi Tu Di, đã bỏ lưỡi như núi Đại Thiết Vi, đã bỏ tai như núi Thuần Đà La, bỏ mũi như núi Tỳ Phú La, bỏ răng như núi Kỳ Xà Quật; bỏ thân, da như đất, v.v... trong ba ngàn đại thiên thế giới.
Thiện nam tử! Ông nên biết, trong vạn năm xưa kia Ta đã xả vô lượng vô biên a tăng kỳ thân, trong từng một mạng sống của mình đã dùng máu thịt cung cấp cho vô lượng vô biên a tăng kỳ chúng sanh, làm cho họ đều được no đủ mà không có một chút ý niệm hối hận nào. Lúc ấy, Ta lại nguyện:
Nếu Ta nhất định thành Chánh Giác, sở nguyện thành tựu, bản thân được lợi ích, Ta ở Diêm Phù Đề này trong một vạn năm, tự đem máu thịt cung cấp cho tất cả vô lượng chúng sanh. Như vậy, trong hằng hà sa vạn năm, Ta làm núi máu thịt lớn như núi Vô Cấu Tu Di khắp cả ba ngàn thế giới. Mỗi một thiên hạ trong vạn năm, Ta tự đem máu thịt, đầu, mắt, tai, v.v... cung cấp cho chúng sanh. Cho nên trời, rồng, quỷ thần, nhơn và phi nhơn, tất cả súc sanh, dù ở hư không hay ở trên đất, cho đến ngã quỷ cũng đều được no đủ. Sau đó, Ta khuyến hóa chúng tu tập theo pháp ba thừa, hoặc khắp trong một thế giới Phật này, đã làm cho chúng sanh được đầy đủ xong, cho đến khắp mười phương thế giới ngũ trược ác nhiều như cát sông Hằng, Ta lại xả máu thịt, đầu, mắt, tai, mũi, v.v... cung cấp cho chúng sanh đều được đầy đủ. Như vậy, như trong một hằng hà sa đại kiếp, Ta tự xả thân mạng để bố thí cho chúng sanh. Nếu nguyện Ta không thành, bản thân Ta không được lợi ích, tức là dối trá vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn trong mười phương, vì các chúng sanh mà chuyển pháp luân, Ta chắc chắn không được thành Chánh Giác, bị ở mãi sanh tử, hoàn toàn không được nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ kheo Tăng, tiếng Ba la mật, tiếng Vô sở úy, cho đến tất cả các tiếng thiện căn. Nếu Ta không thể thành tựu được việc xả thân bố thí đầy đủ cho chúng sanh thì thường đọa địa ngục A Tỳ.
Thiện nam tử! Thuở xưa, những nguyện của Ta phát ra như vậy, đều được thành tựu. Ở mỗi một thiên hạ, Ta xả thân máu thịt cung cấp cho chúng sanh, làm cho được no đủ. Tuần tự, trong các thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương, Ta đều xả thân máu thịt cung cấp cho chúng sanh, làm cho chúng đều được đầy đủ.
Thiện nam tử! Ông nên biết, Ta lúc bấy giờ vì Bố thí Ba la mật nên tuần tự xả thân bố thí như vậy. Nếu đem mắt đã bố thí gom lại thì đầy cả Diêm Phù Đề và cao đến trời Đao Lợi.
Thiện nam tử! Đây gọi là Như Lai nói sơ lược sự việc xả thân Bố thí Ba La Mật.
Lại nữa thiện nam tử! Trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp như vậy, bấy giờ thế giới này chuyển tên là Nguyệt Điện, cũng ở đời ngũ trược. Vào thời ấy, Ta làm Chuyển Luân Thánh Vương, vua Diêm Phù Đề, hiệu là Đăng Quang Minh, Ta cũng dạy vô lượng vô biên a tăng kỳ người an trụ trong các thiện pháp như nói ở trên. Làm việc này xong, dạo nơi vườn rừng xem đất đai, thấy có một người bị trói, Ta liền hỏi:
Người này phạm lỗi gì?
Đại thần tâu:
Những người làm ruộng thâu được lúa mạch phải phân làm sáu và nộp quan một phần. Người này không tuân theo pháp vua, không chịu đem nộp cho nên bị trói.
Lúc ấy, Ta ra lệnh thả ra và từ nay về sau không cần bắt buộc nộp.
Đại thần tâu:
Vậy, trong nhân dân không có một người nào phát tâm hoan hỷ theo nghĩa vụ của mình mà đem nộp. Như vậy, sự chỉ dụng, ăn mặc của các con vua, quyến thuộc, quý nhân, thể nữ trong hậu cung, tất cả đều phải cố lấy từ những người bên cạnh, vì không có một người nào đem nộp với tâm thanh tịnh.
Ta nghe như vậy rất ưu sầu, tự suy nghĩ: “Cõi Diêm Phù Đề này sẽ đem cho ai? Ta có năm trăm người con, trước đã làm cho chúng phát tâm đạo Vô thượng, sẽ phân đất này làm năm trăm phần chia đều cho các con. Ta sẽ xuất gia, đến ở chỗ A-lan-nhã tu các pháp tiên, học phạm hạnh thanh tịnh”. Suy nghĩ xong, Ta liền phân đất này làm năm trăm phần chia đều cho các con, và xuất gia nơi rừng cây Uất Đầu Ma Thọ ở bờ biển phía Nam, ăn các trái cây. Ta tu học lần lần được năm trăm thần thông.
Thiện nam tử! Khi ấy ở Diêm Phù Đề có năm trăm người buôn vào biển lớn muốn tìm trân bảo. Có một thương chủ tên là Mãn Nguyệt, người này nhân có phước đức đời trước nên được như nguyện, đến nơi bãi báu lấy rất nhiều các trân bảo xong, muốn trở về Diêm Phù Đề.
Khi ấy, thần biển lớn tiếng khóc lóc, có rất nhiều rồng sân giận, muốn hại thương nhơn, có một Long vương tên Mã Kiên, là Đại Bồ Tát, do bổn nguyện nên sanh trong loài rồng, phát tâm từ bi cứu hộ các thương gia, làm cho họ được yên ổn vượt qua biển lớn, đến bờ bên kia. Sau đó, Long vương trở về nơi bổn xứ.
Bấy giờ lại có một đại ác La sát đuổi theo thương nhân như bóng theo hình, muốn làm hại. Ác La sát này ngay trong ngày đó nổi gió bão lớn. Bấy giờ các thương nhân bị hoảng hốt nên lạc đường, hết sức sợ hãi, gào khóc thất thanh, kêu gọi chư thiên Ma Hê Thủ La, thần đất, thần nước, thần lửa, thần gió; lại gọi cha mẹ, vợ con, quyến thuộc xin cứu giúp cho họ .
Thiện nam tử! Ngay khi ấy, dùng Thiên nhĩ thanh tịnh nghe âm thanh đó, Ta liền đến nơi, dùng tiếng êm dịu vỗ về, an ủi họ rằng: “ Chớ sợ hãi, Ta sẽ chỉ đường và làm cho người trở về Diêm Phù Đề được an ổn.
Thiện nam tử! Ngay khi ấy, Ta dùng lụa trắng quấn cánh tay, đem dầu rưới lên đó, đốt để làm đuốc và phát lời nguyện chân thật:
Ta trước kia nhờ ở rừng Uất Đầu Ma, trong ba mươi năm chuyên tinh tu hành Tứ vô lượng tâm, vì các chúng sanh ăn trái cây, khuyến hóa tám vạn bốn ngàn các rồng, Dạ xoa, thần, v.v... được Bất thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do căn lành này, nay Ta đốt cánh tay để chỉ đường, làm cho các thương gia trở về Diêm Phù Đề được an ổn.
Cánh tay cháy sáng đến bảy ngày bảy đêm, nên các thương nhân được an ổn trở về Diêm Phù Đề.
Thiện nam tử! Khi ấy, Ta lại phát thiện nguyện:
Nếu Diêm Phù Đề không có các trân bảo và nếu Ta chắc chắn thành Chánh Giác, bản thân được lợi ích thì Ta sẽ làm thương chủ trong mỗi thiên hạ có bảy lần mưa vật báu. Ta lại vào biển lớn lấy ngọc như ý làm cho nơi mỗi thiên hạ lại mưa vô số bảo vật sen lẫn nhau, tuần tự như vậy khắp cả thế giới này, cho đến vô lượng vô biên a tăng kỳ các thế giới trong mười phương cũng như vậy.
Thiện nam tử! Thuở xưa, các nguyện Ta đã phát đều được thành tựu. Trong một hằng hà sa đại kiếp, Ta làm thương chủ giầu có vô cùng. Nơi hằng hà sa đời ngũ trược ác, trong một ngày có bảy lần mưa vô số trân bảo, làm lợi ích vô lượng chúng sanh như vậy. Sau khi làm cho tất cả đều được đầy đủ trân bảo, Ta lại khuyến hóa họ tu học theo ba thừa.
Thiện nam tử! Ông nên biết đó là Như Lai xả bỏ các trân bảo để được nhân duyên thiện căn của các tướng.
Lại nữa, thiện nam tử! Lại trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp như vậy, thế giới Phật này chuyển tên là Cương, kiếp tên Tri Cụ Túc, nhân dân đời ngũ trược đó sống năm vạn tuổi. Do bổn nguyện, Ta sanh xuống cõi Diêm Phù Đề, trong nhà Bà la môn tên là Tu Hương, đọc tụng văn tụ ngoại điển Xiển Đà. Khi ấy, chúng sanh phần nhiều chấp vào thường kiến nên xem nhau như giặc, tranh đấu với nhau. Ta dùng thế lực mạnh, vì các chúng sanh mà thuyết giảng năm thọ ấm giống như oan gia, thuyết mười hai nhập như xóm làng hoang vắng, thuyết tánh mười hai duyên luôn sanh diệt, chỉ dạy pháp sổ tức quán, làm cho họ tu học. Ta lại bảo:
Nay quý vị có thể phát tâm đem thiện căn đã làm mà hồi hướng thành Chánh Giác.
Ngay khi ấy, Ta được ngũ thông thần tiên. Có vô lượng vô biên vô số người thọ trì lời Ta dạy nên đều được ngũ thông.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh diệt trừ oán thù, xa lìa đấu tranh và muốn xuất gia, ăn rau, trái cây, hạt cỏ, ngày đêm tu tập Tứ vô lượng tâm; hết kiếp Dục này, các tiên nhơn ... này, mỗi người đều phân tán đi khắp Diêm Phù Đề giáo hóa chúng sanh, làm cho xa lìa đấu tranh, diệt trừ oán tắng, khiến cho đều được vắng lặng. Họ làm cho khắp nơi không còn bị hạn hán, bão tố, lụt lội ... Đất nơi đó được mầu mỡ, ngũ cốc được mùa, thức ăn uống ngon và bổ. Sau khi kiếp Dục hết, chúng sanh lại bị vô số bệnh khổ áp bức.
Thiện nam tử! Bấy giờ Ta lại suy nghĩ: “ Nếu không có thể trừ bệnh cho chúng sanh, Ta chắc chắn không thành Chánh Giác. Vậy phải trừ diệt phiền não cho các chúng sanh. Ta nên dùng các phương tiện gì để trừ diệt cho chúng sanh? - - Chỉ có tập họp tất cả đại chúng Thích thiên, Phạm thiên, Tứ thiên vương, v.v... và các thiên tiên, long tiên, nhân tiên, hỏi các phương thuốc, tập họp các cỏ và vô số chú thuật để chữa bệnh”.
Suy nghĩ xong, Ta liền dùng thần thông đến Thích thiên, Phạm thiên, từ đại phương thiên và chỗ các trời, thần, rồng, người, tiên, nói rằng:
Xin các ngài cùng đến tập họp ở núi Tỳ La.
Nghe xong, đại chúng liền tập họp và cùng nhau trì tụng chú thuật Tỳ Đà. Chú này có năng lực xua đuổi tất cả quỷ thần ác, ủng hộ chúng sanh. Ta dùng các phương tiện thuốc để trị liệu đàm ấm, phong hàn, nóng lạnh ... làm cho vô lượng vô biên a tăng kỳ người được xa lìa các khổ não.
Thiện nam tử! Khi ấy, Ta lại phát nguyện:
Nếu ta đã làm cho vô lượng vô biên chúng sanh trong một thiên hạ này được trí tuệ sáng, tu học theo phép ba thừa, đóng ba cửa ác, mở đường cõi trời, người, trừ các bệnh khổ, làm cho được hoan hỷ. Lại nữa, tuần tự Ta làm cho vô lượng vô biên vô số người được trí tuệ sáng, cho đến được vui sướng. Do duyên lành quả báo này, làm cho nguyện của ta được thành tựu, bản thân mau được lợi ích. Như Ta đã vì vô lượng vô biên vô số người trong một thiên hạ này mà đóng ba đường ác, mở đường cõi trời, người, vì các người bệnh mà thỉnh các trời, rồng, người thần tiên tập họp ở núi Tỳ La tụng chú Tỳ Đà, làm cho vô lượng vô biên vô số người được hết bệnh, hưởng thọ an lạc. Như vậy, Ta làm lợi ích cho tất cả vô lượng chúng sanh ở khắp nơi trong thế giới Cương tu học theo ba thừa, đóng ba đường ác, mở đường cõi trời người. Ta lại cũng vì những người bệnh trong thế giới này mà thỉnh chư thiên, lonh, thần, tiên, người tập họp ở núi Tỳ La, tụng chú Tỳ Đà, làm cho vô lượng vô biên vô số người đều được hết bệnh, hưởng thọ khoái lạc; cho đến hằng hà sa các thế giới với đời năm trược ác khắp mười phương cũng đều được Ta cứu giúp như vậy.
Thiện nam tử! Khi ấy ở thế giới Cương cho đến đời ngũ trược ác nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, các nguyện mà Ta đã phát đều được thành tựu.
Thiện nam tử! Ông nên biết, khi Như Lai còn là Bồ Tát, làm tăng trưởng trí tuệ, tu Bồ Tát đạo nên gọi là Như Lai bảo hộ chủng tử thiện căn của ba nghiệp thân, miệng, ý.
Hết quyển thứ chín

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567