Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm thứ hai: Đà La Ni

15/05/201317:43(Xem: 10765)
Phẩm thứ hai: Đà La Ni

Kinh Bi Hoa (Lịch sử đức Phật A Di Đà và các Bồ Tát) 10 quyển

Phẩm thứ hai: Đà La Ni

Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường

Nguồn: Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 3, No. 157 Bản dịch Hán văn Đời Bắc Lương, Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm Người Thiên Trúc Chứng nghĩa và nhuận văn Tỳ kheo Thích Đỗng Minh Tỳ kheo Tâm Hạnh

Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Nhựt Quang Minh bạch Phật:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Thế giới của đức Phật kia làm sao có thể biết được sự khác nhau giữa ngày và đêm, âm thanh được nghe với tướng trạng gì? Các Bồ Tát kia làm sao để thành tựu được nhứt tâm và hành hạnh khác biệt gì?
Phật bảo Bồ Tát Bảo Nhựt Quang Minh:
- Thiện nam tử! Thế giới của đức Phật kia thường thường được chiếu sáng bằng hào quang của Phật. Khi hoa khép lại cùng với chim đậu nghỉ; Như Lai, Bồ Tát vào các thiền định Sư tử du hý, tâm vui vẻ hưởng an lạc giải thoát, nên biết, khi ấy là ban đêm. Khi có gió thổi, các thứ hoa rải trên đất, các loài chim chóc đua nhau ca hót, tạo thành những âm thanh vi diệu, trời mưa các thứ hoa, bốn phía gió thổi hương thơm vi diệu mềm mại, mịn màng trơn láng, Phật và Bồ Tát xuất thiền định, bấy giờ đức Phật kia thuyết tạng pháp Bồ Tát cho đại chúng , muốn cho họ vượt qua Thanh Văn, Duyên Giác thì biết đó là ban ngày.
Thiện nam tử! Chúng Bồ Tát ở thế giới của đức Phật kia thường nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng tịch diệt, tiếng vô sở hữu, tiếng sáu Ba la mật, tiếng mười lực, sáu vô úy, tiếng sáu thần thông, tiếng vô sở tác, tiếng vô sanh diệt, tiếng vi diệu tịch tĩnh, tiếng nhơn của tịch tĩnh, tiếng duyên của tịch tĩnh, tiếng đại từ, tiếng đại bi, vô sanh pháp nhẫn, thọ ký ... Hoàn toàn là các vị Bồ Tát với diệu âm thanh tịnh và luôn luôn nghe âm thanh như vậy.
Thiện nam tử! Âm thanh được nghe với tướng trạng như vậy.
Thiện nam tử! Ở cõi kia Bồ Tát đã sanh, hoặc đang sanh đều thành tựu ba mươi hai tướng. Thân thường có ánh sáng chiếu ra một do tuần, cho đến khi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không còn bị rơi vào ba đường ác. Các Bồ Tát kia đều thành tựu tâm đại từ, tâm đại bi, tâm mềm mỏng, tâm không ái trược, tâm điều phục, tâm tịch tĩnh, tâm nhẫn nhục, tâm thiền định, tâm thanh tịnh, tâm không chướng bẩn, tâm chơn ngại, tâm không nhơ nhớp, tâm không dơ thật, tâm ưa pháp, tâm muốn cho chúng sanh đoạn trừ phiền não, tâm như mặt đất, tâm xa lìa tất cả ngôn ngữ thế tục, tâm ưa thích thánh pháp, tâm cầu thiện pháp, tâm xa lìa ngã, tâm tịch diệt xa lìa sanh- già-bệnh-chết, tâm thiêu đốt các phiền não, tâm tịch tĩnh cởi bỏ tất cả trói buộc, được tâm bất động đối với tất cả pháp.
Thiện nam tử! Các Bồ Tát kia được năng lực chuyên tâm, được năng lực phát khởi, được năng lực duyên, được năng lực nguyện, được năng lực vô tránh, được năng lực thấy tất cả pháp, được năng lực các căn lành, được năng lực các Tam muội, được năng lực đa văn, được năng lực trì giới, được năng lực đại xả, được năng lực nhẫn nhục, được năng lực tinh tấn, được năng lựa thiền định, được năng lực trí tuệ, được năng lực tịch tĩnh, được năng lực tư duy, được năng lực thông suốt tất cả, được năng lực niệm, được năng lực Bồ đề, được năng lực phá hoại tất cả ma, được năng lực bẻ dẹp tất cả ngoại đạo, được năng lực phá hoại tất cả các phiền não. Như vậy, ở nơi cõi Phật kia, Bồ Tát đã sanh, đang sanh đều là bậc chơn thật Bồ Tát đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật Thế Tôn, đã gặp các đức Phật và trồng các căn lành. Các Bồ Tát kia dùng thiền vị làm thức ăn mà pháp thực, hương thực giống như Phạm thiên, không có đoàn thực hay tên gọi, không có những điều không tốt, cũng không có nữ nhơn, khổ thọ, yêu, ghét, các phiền não khác và ngã, ngã sở, khổ não của thân tâm, ba đường ác, v.v... và cũng không có các tên như trên, cũng không có những chỗ tối tăm, hôi thối, gai góc bất tịnh, dơ xấu, núi gò, ụ mối, đống đất, cát, sạn, đá vụn và ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, lửa cháy, núi Tu Di, biển lớn, đại tiểu Thiết vi, chỗ tối tăm giữa hai núi. Cũng không có mưa tuôn nước đục, gió giữ phá hoại và tám nạn xứ, cũng không có các danh từ này.
Này thiện nam tử! Thế giới của đức Phật kia được chiếu sáng bằng ánh sáng báu của Phật và Bồ Tát. Ánh sáng đó vi diệu, thanh tịnh bậc nhất, tỏa khắp cả thế giới. Trong thế giới đó có chim tên là Thiện quả, thường ca hót với âm thanh vi diệu nói về căn, lực, giác, đạo.
Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Nhựt Quang Minh lại bạch Phật:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Thế giới của đức Phật kia cao rộng bao nhiêu? Đức Phật đó trụ thế, tuổi thọ và thuyết pháp với thời gian bao lâu? Sau đêm Ngài thành bậc Chánh Giác cho đến sau khi Phật đó diệt độ, pháp của Ngài trụ ở đời bao lâu? Các chúng Bồ Tát trụ ở đời bao lâu? Các Bồ Tát, v.v... sanh ở thế giới kia có bị cách xa việc được thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường các Tăng không? Thế giới của đức Phật Liên Hoa khi Ngài chưa xuất hiện, tên là gì? Cõi đó từ khi thành hình cho đến khi đức Phật Thế Tôn ở quá khứ diệt độ thì trải qua thời gian bao lâu? Sau Ngài diệt độ, khoảng thời gian ở chặng giữa đó là bao lâu thì Phật Liên Hoa Tôn mới thành đạo? Vì nhân duyên gì ở khắp mỗi nơi trong mười phương thế giới có chư Phật nhập Sư Tử Du hý Tam muội và thị hiện vô số thần túc biếnhóa mà các Bồ Tát, v.v... có vị được thấy, hoặc có vị không được thấy?
Khi ấy, Phật bảo Bồ Tát Bảo Nhựt Quang Minh:
- Thiện nam tử! Như Tu Di Sơn Vương cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, ngang dọc tám vạn bốn ngàn do tuần; bấy giờ hoặc có người siêng năng tinh tấn, dùng năng lực huyễn hóa, hoặc năng lực thiền định phá núi Tu Di ra nát như hạt cải thì nhiều không thể tính toán được, trừ Phật Thế Tôn với Nhất Thiết Trí ra thì không ai có thể biết được. Ví dụ một hạt cải là một Tứ thiên hạ, như vậy số Tứ thiên hạ có ở trong thế giới Liên Hoa nhiều như là số hạt cải này. Các Bồ Tát ở khắp trong số thế gìới đó, giống như các Bồ tát, v.v... ở trong thế giới an lạc ở phương Tây.
Thiện nam tử! Phật Liên Hoa Tôn kia có thọ mạng và thuyết pháp ba mươi trung kiếp. Sau khi Ngài diệt độ, chánh pháp trụ ở đời đủ mười trung kiếp.
Thiện nam tử! Các Bồ Tát ở cõi kia đã sanh, đang sanh thọ mạng bốn mươi trung kiếp.
Thiện nam tử! Ngày xưa, thế giới của đức Phật kia vốn tên là Chiên Đàn Xảo Diệu Thanh Tịnh, không giống như hiện nay. Bấy giờ thế giới đó không có Bồ Tát thanh tịnh như hiện nay.
Thiện nam tử! Trong quá khứ, thế giới Chiên Đàn có vị Phật đầu tiên xuất hiện ở thế gian hiệu là Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, với tuổi thọ và thuyết pháp đến ba mươi trung kiếp. Khi Phật sắp diệt độ, có Bồ Tát do nguyện lực nên đi đến cõi Phật khác. Ngoài ra, những vị còn ở lại nghĩ như thế này: “ Vào giữa đêm nay, Nhật Nguyệt Tôn Như Lai sẽ vào Niết bàn, Phật diệt độ rồi, chúng ta sẽ hộ trì chánh pháp trong mười trung kiếp. Ai có thể đối với chánh pháp này sau khi Phật diệt độ, kế tiếp chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?”.
Khi ấy, có Bồ Tát tên là Hư Không Ấn, do bổn nguyện cho nên Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai liền thọ ký:
Thiện nam tử! Sau khi Ta diệt độ rồi, chánh pháp trụ ở đời đủ mười trung kiếp, qua mười trung kiếp, vào đầu đêm, khi chánh pháp diệt tận, ngay trong lúc ấy, ông sẽ thành Chánh Giác hiệu là Liên Hoa Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Bấy giờ các Bồ Tát Ma ha tát đã đến chỗ Phật Nhựt Nguyệt Tôn, dùng năng lực thiền định với vô số Sư tử du hý tự tại cúng dường Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai. Sau khi cúng dường, họ đi nhiễu bên phải ba vòng và thưa:
Kính bạch đức Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn nhập Diệt tận định trong mười trung kiếp.
Này thiện nam tử! Bấy giờ Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai bảo với Hư Không Ấn Bồ Tát Ma ha tát:
- Thiện nam tử! Hãy thọ trì và hiểu rõ tất cả môn Đà La Ni này mà quá khứ các bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã vì các Bồ Tát nhận chức vị Phật nên thuyết giảng như ngày nay. Hiện tại, chư Phật trong mười phương cũng vì các Bồ Tát nhận chức vị Phật nên thuyết giảng, Chư Phật Thế Tôn trong vị lai cũng sẽ vì các Bồ Tát nhận chức vị Phật nên thuyết giảng. Đó là hiểu rõ tất cả môn Đà La Ni.
Đức Phật liền thuyết kệ tụng:
Xà lê, xà liên ni, ma ha xà liên, hưu sí, hưu sí tam bát đề ma ha, tam bát đề, đề đà a sất ế đa giá sất già sất đà la trác già. A tư ma già tư, ê lệ, di lệ đế lệ. Lưu lưu sí, ma ha lưu lưu sí, xà di đầu xà xi, xà di mạt sách thiên để, xá đa nỉ già đà nỉ a mậu lệ, mậu la ba, lệ xà ni ma la tư nỉ tỳ la bà nỉ, mục đế mục đế ba lệ thâu đề. A tỳ để, ba dạ vô chất nỉ, ba la ô ha la nỉ, đàn đà tỳ xà tỷ xà bà, lưu uất đam nỉ.
Các kệ tụng này phá hoại tất cả các luận nghị của ngoại đạo, đưa vào pháp luân chân chánh, lại có thể ủng hộ người thuyết pháp, mở bày, phân biệt pháp Tứ niệm xứ và giải thoát môn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
Phật đà ba gia xá di, a ma ma nỉ ma ma ha giá thị pha đề nghạch đề niết đế la nỉ, lộ ca đề mục đế san đề đà lệ bà mạt ni.
Bài kệ tụng này hiển bầy, phân biệt bốn pháp môn Thánh giải thoát.
Bấy giờ đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng:
Ba sa đề, ba sa nỉ, đà lệ, đà la ba để, cúc để thử tỳ thủ bà ba để, nỉ để, tu ma bạt để sạn đề sí để ca lưu na uất đề xoa di, tỳ để ưu tỳ xoa tam bát nỉ, a la sí bà la địa, khư kỳ khư kỳ yết di a mậu lệ, mục la thâu đàn ni.
Kệ tụng này hiển bày, phân biệt pháp môn bốn vô sở úy.
Bấy giờ đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
Chớ pha la, a già pha la, a niết pha la, niết la pha la tam mục đa a diên đà, y tỳ trì để tỳ trì, ô đầu đô la đâu lam a hưng Tam thừa, y đề đa bà, a đỏa đa đỏa tát bà lộ già, a trà già, lệ tần đà, a phù tát lệ, đà đà mạn để tỳ xá già bạt đề a pha la ca pha lam.
Bài kệ tụng này hiển bày, phân biệt, thủ hộ pháp môn Tam thừa.
Bấy giờ, Phật lại thuyết kệ tụng:
Xà đà đa, an nỉ uất la, bà ba đa phiếu, y đàm pha lệ ni viêm pha lệ, tam mậu đàn na diên, tỳ phù xá, ba tha tô ma đâu, a miễn ma ngũ, a cưu ma đô tha đà bạt đế đạt xá bà la tỳ ba tha tha, tất xá thế đa, a ni ẩm ma để noa ma để, a lộ câu, a đề đấu noa, tát để mạt để.
Kệ tụng này vốn là pháp mà chư Phật hiện tại tu tập và giảng giải, phân biệt pháp môn Tứ chánh cần.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
An nỉ, ma nỉ, ma nỉ, ma ma nỉ, giá lệ chí lợi đế, lệ lý xa lý đa tỳ, thiên đế mục đế úc đa lý, tam lý ni tam lý, tam ma tam lý xoa duệ. A xoa duệ, a xà địa, thiên đế. Xa mật trí, đà la ni. A bạt già bà bà tư lại na ba đề, lại ma ba đề, xà na bà đề, nhĩ lưu bà để xoa kiêu ni đà xá ni, lộ già bà đề ba nỉ đà xá ni.
Kệ tụng này giảng giải, phân biệt pháp môn giải thoát bốn vô ngại biện.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
Nghiên bệ a bà bà nỉ đà xá ni. Thiền na lộ già đà đâu ba bà tán ni, tát bà nhơn đề phù ma để thiên để. Tát bà tát bà, bà ma tát bà ba gia, bà xoa giạ ca lệ. Cụ ca lệ bà xà ni, lộ già sất đạt xá na tỳ bà.
Kệ tụng này giảng giải, phân biệt pháp môn giải thoát Như ý túc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
A giá lệ, Phật Đề đà đà ba giá lệ, na ny, càn noa tư đề cam tần đề, ny tiết đề tam bút tri. Ba lệ già tát lệ tô di chiến đề, chiến đề a giá lệ, a giá giá lệ, a ba lệ, tần chi bà ly, nỉ bà ly, bà giá giá ly, ba ba ly, a na giạ, a na giạ, a tỷ tư, câu câu sa bà tỳ nỉ ca nỉ, nỉ xà tư, già già nhi na do đế.
Kệ tụng này giảng giải, phân biệt tất cả pháp môn giải thoát căn và lực.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
Phú bãi, chữu phú bãi, độ ma ba, lệ ha lệ, a bà di uất chi lệ, chi ca lạc sai a giạ mạt đâu. Đế đế lệ ma ma lệ thủ giá thi thi lệ. Lộ già tả ny xà na dạ xoa kỳ ê đế na giá giạ đế sa chiên đề na.
Kệ tụng này giảng giải, phân biệt pháp môn giải thoát Thất Bồ đề phần.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ tụng:
Giá già bà xà lệ, bà đế giá già lệ, giá da đà lệ, đà la giá, ca lệ đà lê, mậu lệ ê ê lệ lệ đà ly a lâu bà bạt đề, hưu hưu, gịa tha thậm bà ngạ tần bà lệ giạ đà kỳ ni, giạ tha ba lan giá, ly đề xa giạ tha bà na ly ly thí tác giá ni lệ ha la. Xà lưu giá tỳ ly, tỳ lê ny ly ha la, mạt ly, mạt già ny lệ ha la, bát nhã ni lệ ha la, tỷ mục đế ni lệ ha la, tỷ mục đế xà na đà lệ xá na, ny lệ ha la na xoa đế ni lệ ha la. Chiên đà ni, lệ ha la, tu lợi ny, lệ ha la ba đà xá dạ, lục đam đa đà a già độ a phù. Đà ny la phù đàm tam Phật đà. A Phật đà, Y ha phù đà, chớ sỉ phù đà, ny ha ngã ma mậu lệ. A la phả đà đà la phả bán trà lệ, man đà lệ chớ sỉ lệ đa lưu ma, già già lân ny mậu bà na xá ny na xá bàn đà ny, sất sất đế, sất sất đổ tổ noa, tam bán mậu tổ noa, Hàng già băng già ma sất ny, lưu ma do bà ê dăng già ma bà lệ ma lệ ha chớ ni, bà lệ ma lệ tần đề tỳ ly tỳ ly ưu sa ly, xá ha ny, đà la ny, bà bà để, bà lan na la dị, tỳ đầu ma bà la củ ma phạm ma giá lệ na nhơn đề bà thi đề đề da la ni ma ê thủ la la ni, tam ma túc di a lam niệm di, y ca lặc xoa lợi sư giá ni giá la a chi. Chiên đà la tu lợi, tát bà tu la a bà lam phú na già trí đam bán trì đa, a giạ na, kiền trỉ diêm ba tư ca già đà lệ, a la đà ha ny, ma già la tỳ lộ ha ny, tất đàm mang đế, tỳ lộ ca mạn đế.
Môn Đà la ni này, chư Phật Thế Tôn thọ trì, giảng giải, phân biệt pháp môn giải thoát mười lực của Như Lai.
Khi đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn giảng thuyết hiển bày rõ tất cả pháp môn Đà la ni này, ba ngày đại thiên thế giới chấn động sáu cách: trồi, sụp, nổi lên, chìm xuống, nghiêng tới, thụt lùi.
Bấy giờ, có ánh sáng lớn vi diệu chiếu khắp mười phương, vượt qua hằng hà sa số các thế giới, với những nơi có núi Tu Di Vương, đại tiểu Thiết Vi không làm trở ngại tầm nhìn, chỉ thấy thế giới bằng thẳng như bàn tay. Các nơi trong mười phương thế giới ấy, có các Bồ Tát được các thiền định, tổng trì nhẫn nhục, nhiều đến vô lượng. Các chúng này do thần lực Phật, biến mất khỏi chỗ mình và bỗng nhiên đến núi Kỳ Xà Quật ở thế giới Ta Bà, đến gần đức Như Lai, đem đầu mặt lạy sát chân Phật, đem các pháp thần túc tự tại, mà các Bồ tát đã đạt được cúng dường đức Phật. Sau khi cúng dường, các vị theo thứ tự ngồi sang một bên, muốn được lãnh thọ và hiểu rõ tất cả môn Đà la ni.
Có vô số chư thiên cõi Dục và cõi Sắc, đồng đi đến gặp Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi cũng đều theo thứ lớp ngồi sang một bên lãnh thọ và hiểu rõ tất cả các môn Đà la ni. Đại chúng này đều được thấy cõi Phật Liên Hoa và đức Phật kia cùng với Đại Bồ Tát vây quanh.
Bấy giờ, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp môn hiểu rõ tất cả Đà la ni này, có bảy mươi hai hằng hà sa v.v... Bồ Tát Ma ha tát được môn Đà la ni này. Ngay khi ấy, họ được thấy chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới nhiều không thể kể xiết, và thấy thế giới tịnh diệu của chư Phật. Các Bồ Tát này rất lấy làm lạ về việc chưa từng có này. Các Bồ tát này với sức thiền định Sư tử du hý, được tự tại nên làm ra đầy đủ các thức cúng dường, đem cúng dường Phật.
Bấy giờ, Phật bảo các Bồ Tát v.v...:
Thiện nam tử! Nếu Bồ Tát tu pháp môn hiểu rõ tất cả Đà la ni này thì được tám vạn bốn ngàn môn Đà la ni, bảy vạn hai ngàn môn Tam muội, sáu vạn môn pháp tụ, được đại từ đại bi, hiểu rõ pháp Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, được Nhất thiết trí không còn chướng ngại. Môn Đà la ni này bao trùm tất cả pháp của Phật. Chư Phật hiểu rõ Đà la ni này rồi, vì các chúng sanh thuyết pháp vô thượng, trụ mãi nơi đời không nhập Niết bàn.
Này thiện nam tử! Nên biết rằng, theo những điều ông thấy, tức là do sức oai thần của môn Đà la ni này nên khiến cho đại địa chấn động sáu cách và có ánh sáng thanh tịnh vi diệu chiếu khắp mười phương, vượt qua hằng hà sa số các thế giới của chư Phật. Ánh sáng đó chiếu đến chỗ nào thì có các Bồ Tát ở vô lượng thế giới đi đến hội này để thọ lãnh, hiểu rõ tất cả môn Đà la ni và cùng với vô lượng chư thiên cõi Dục, cõi Sắc ở cõi này tập họp. Lại có các rồng, Dạ xoa, A tu la, nhân và phi nhân đều đến muốn lãnh thọ, hiểu rõ tất cả môn Đà la ni.
Nếu Bồ Tát nào nghe và hiểu được các môn Đà la ni này sẽ chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, không bị thối lui.
Nếu người nào ghi chép thì cho đến khi đạt đến Vô thượng Niết Bàn, luôn luôn thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng.
Nếu người nào thường đọc tụng, các nghiệp ác vĩnh viễn không còn, chuyển thân thọ sanh liền vượt qua Sơ địa, được trụ ở địa thứ hai.
Nếu Bồ Tát Ma ha tát tu hành và hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này thì tội ngũ nghịch cực ác đã tạo đều được tiêu diệt. Tái sanh lần thứ hai thì vượt qua Sơ địa, được trụ vào địa thứ hai. Bồ Tát nào không tạo tội ngũ nghịch thì ngay nơi thân này diệt hết và không còn những nghiệp nặng đã tạo, khi chuyển thân liền vượt qua Sơ địa, được trụ ở địa thứ hai.
Người nào không thể đọc tụng, tu hành, ngay trong khi nghe pháp dùng các tơ lụa dâng lên cúng dường Pháp sư thì được chư Phật trong hiện tại nhiều như cát sông Hằng ở ngay nơi thế giới này khen ngợi, tán thán: “ Lành thay! Lành thay!”, và thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho vị đó. Bồ Tát này do nhân duyên cúng dường cho nên không bao lâu sẽ được chứng thành Phật, chỉ một đời sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu người cúng dường hương thơm, không lâu sẽ được hương Vô thượng định. Nếu người cúng dường hoa, không lâu sẽ được hoa Vô thượng trí. Nếu người dùng trân bảo cúng dường Pháp sư, không lâu sẽ được quả báu pháp Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Này thiên nam tử! Bồ Tát nào hiểu rõ Đà la ni này thì được lợi ích rất lớn. Vì lẽ gì? Vì môn Đà la ni này có khả năng hiển bày, phân biệt tất cả các tạng pháp báu của Bồ Tát. Do giữ gìn tạng pháp này cho nên các Bồ Tát được pháp Vô ngại biện, bốn Thích ý.
Thiện nam tử! Sau khi đức Nhật Nguyệt Tôn Như Lai vì Bồ tát Hư Không Ấn mà thuyết môn Đà la ni xong thì đại địa chấn động sáu cách, cũng có vô lượng ánh sáng vi diệu chiếu khắp mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật, thấy các cõi Phật này đất bằng phẳng như bàn tay.
Bấy giờ, trong hội có vô lượng Đại Bồ Tát thấy hết chư Phật Thế Tôn trong mười phương nhiều không thể kể xiết. Khi ấy, khắp mười phương có vô lượng vô biên Bồ Tát đều từ nơi thế giới của mình ẩn mất và bỗng nhiên đi đến thế giới Chiên Đàn gặp Phật Nhựt Nguyệt Tôn, lễ bái và vây quanh, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen và đều muốn lãnh thọ môn Đà la ni này.
Thiện nam tử! Bấy giờ đức Phật kia bảo với các Bồ Tát:
- Nay Ta đã thọ ký cho các ông, hoặc là một đời bổ xứ và nhập Diệt tận định trong mười trung kiếp. Ngoài ra, các Bồ Tát khác đã đủ mười trung kiếp thì theo Đại Bồ Tát Hư Không Ấn nhận lãnh môn Pháp tạng Bồ Tát Đà la ni này, tùy theo pháp thọ trì mà được thấy chư Phật ở vô lượng thế giới mười phương. Nhờ được thấy Phật cho nên tâm họ được hoan hỷ, được các căn lành.
Bấy giờ, trong chúng hội có các Bồ Tát đã được các sức Sư tử du hý tự tại, đem đầy đủ các thức cúng dường để cúng dường đức Phật kia. Sau khi cúng dường, họ bạch Phật:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát Hư Không Ấn qua mười trung kiếp sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ được chuyển pháp luân vô thượng.
Phật bảo:
- Các thiện nam tử! Như lời các ông nói: vị Đại Bồ Tát Hư Không Ấn này qua mười trung kiếp được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và ngay sáng hôm ấy liền chuyển pháp luân.
Khi Đại Bồ Tát Hư Không Ấn thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác xong, sau đêm ấy liền chuyển Chánh pháp luân, Bất thối chuyển pháp luân, Vô thượng pháp luân.
Trong hội có vô lượng vô biên trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát trước đó đã theo Bồ Tát Hư Không Ấn ở trong mười trung kiếp nhận môn Đà la ni này được Bất thối chuyển, còn một đời bổ xứ sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát tu học không nhiều về môn Đà la ni này, ở trong tương lai được vượt Sơ địa, vào địa thứ hai, chẳng thối lui nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì quyết định sẽ được môn Đà la ni này.
Thuyết như vậy xong, Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai vì các Bồ Tát thị hiện vô số các thần túc biến hóa. Thị hiện như vậy xong, Thế Tôn vì Đại Bồ Tát Hư Không Ấn thị hiện Na La Diên tam muội và dạy rằng:
- Ông được định này sẽ liền được thân Kim cang.
Đức Phật lại thị hiện tất cả ánh sáng của Trang nghiêm Tam muội và dạy rằng:
- Thiện nam tử! Ông tuy chưa chuyển chánh pháp luân này, nhưng trong chiêm bao thấy vì các Bồ Tát thuyết pháp môn Đà la ni này, ngay khi ấy, ông liền được thân của Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cũng sẽ phóng ra tất cả ánh sáng Trang nghiêm Tam muội này chiếu khắp vô lượng tất cả thế giới. Ở trong ánh sáng đó, được thấy vô lượng vô biên chư Phật, lại được thị hiện Kim cang trường Tam muội. Nhờ sức Kim cang Tam muội ấy cho nên chưa ngồi đạo tràng dưới gốc cây Bồ đề, chưa chuyển pháp luân mà ông có thể vì các Bồ Tát thuyết vi diệu pháp. Ông lại được thị hiện Luân tu Tam muội, do sức Tam muội ấy liền chuyển pháp luân. Khi chuyển pháp luân, có vô lượng vô biên trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát được vào định.
Nghe thuyết việc này xong, Đại Bồ Tát Hư Không Ấn tự biết sẽ chuyển pháp luân nên vui mừng hớn hở, cùng với vô lượng Bồ Tát cúng dường Phật. Sau khi cúng dường, mỗi vị vào trong các lầu gác.
Bấy giờ, đức Phật kia ngay trong đêm đó vào Vô Dư Niết bàn. Qua đêm dó, các Bồ Tát đã cúng dường xá lợi. Cúng dường xong, mỗi vị đều trở về lầu gác báu. Bồ Tát ở các phương khác, mỗi vị đều tự trở về thế giới của Phật mình. Bồ Tát nào còn một đời bổ xứ thì vẫn nhập Diệt tận định trong mười trung kiếp. Ngoài ra, các Bồ Tát nhờ Bồ Tát Hư Không Ấn thuyết diệu pháp, khi mãn mười trung kiếp thì được trồng căn lành.
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Hư Không Ấn bắt đầu từ đêm thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, liền ngay trong ngày sau chuyển chánh pháp luân, thị hiện vô số thần túc biến hóa, khiến cho trăm ngàn ức na do tha vô lượng chúng sanh được không thối chuyển với quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Phật nói tiếp rằng:
- Ta nay ở nơi đây, khi thuyết môn Đà la ni này cũng có tám mươi na do tha trăm ngàn Bồ Tát được pháp Vô sanh nhẫn, bảy mươi hai ức chúng sanh đối với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không thối chuyển, bảy mươi hai na do tha trăm ngàn Bồ Tát được hiểu rõ tất cả môn Đà la ni, vô lượng vô biên trời và người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, trong hội có Bồ Tát tên là Giải Thoát Oán Tắng bạch Phật:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thành tựu được bao nhiêu pháp mới có thể tu tập và hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này?
Phật bảo Bồ Tát Giải Thoát Oán Tắng:
- Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì có thể tu môn Đà la ni này. Những gì là bốn? Bồ Tát sống theo bốn thánh chủng này, đối với y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược thường biết đủ. Bồ Tát thành tựu bốn pháp như đây thì có thể tu môn Đà la ni này.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thành tự năm pháp thì có thể tu môn Đà la ni này. Những gì là năm?:
Tự mình giữ gìn cấm giới, nghĩa là ưa thích hộ trì giới Biệt giải thoát, thành tự hạnh oai nghi, phòng hộ giới pháp, tâm sanh sợ hãi đối với những lỗi nhỏ nhặt như Kim cang vụn, thọ trì tu học tất cả các giới. Thấy có người phá giới, khuyên răn khiến cho họ giữ gìn giới.
Thấy người tà kiến, khuyên cho họ theo chánh kiến.
Thấy người phá oai nghi, khuyên cho họ giữ oai nghi.
Thấy người tâm toán loạn, khuyên cho họ định tâm.
Thấy người ưa thích nơi Nhị thừa, khuyên cho họ an trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đại Bồ Tát thành tựu năm pháp như vậy thì có thể tu môn Đà la ni này.
Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thành tự sáu pháp thì có thể tu môn Đà la ni này. Những gì là sáu?
* Tự tu tập, nghe nhiều thông suốt không trở ngại. Thấy người học ít, khuyên cho họ học nhiều.
* Bản thân mình không keo kiệt, bỏn xẻn. Thấy người keo kiệt bỏn xẻn, khuyên cho họ sống theo pháp không keo kiệt bỏn xẻn.
* Tự mình không ganh ghét. Thấy người ganh ghét, khuyên họ sống theo pháp không ganh ghét.
* Tự mình không làm cho người khác sợ hãi, đem sự không sợ hãi cho người.
* Thấy người sợ hãi, làm việc bảo hộ cho họ, khéo an ủi làm cho họ được an ổn. nói lời dỗ dành
* Lòng không dua nịnh, không gian trá, thực hành Không Tam muội.
Đại Bồ Tát thành tựu sáu pháp như đây thì có thể tu môn Đà la ni này.
Đại Bồ Tát thành tựu pháp tướng này xong, ở trong bảy năm tóm lược tất cả kệ tụng Đà Tỳ Lê, ngày đêm sáu thời đem đầu mặt cung kính, lễ bái, nhất tâm tư duy niệm thân, thực hành Không Tam muội, đọc kệ tụng Đà la như vậy. Ngay khi đứng dậy, nghĩ khắp mười phương vô lượng thế giới của chư Phật, Bồ Tát Ma ha tát này qua bảy năm rồi liền được hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này. Bồ Tát được môn Đà la ni này rồi, liền được con mắt Thánh thanh tịnh như vậy. Được mắt như vậy rồi, thấy trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng ở mười phương, nơi nào chư Phật Thế Tôn cũng không nhập Niết bàn, nơi nào cũng thấy các Ngài thị hiện vô lượng thần túc biến hóa. Khi ấy, Bồ Tát này thấy hết tất cả vô lượng chư Phật, do được thấy Phật nên liền được tám vạn bốn ngàn môn Đà la ni, bảy vạn hai ngàn môn Tam muội, sáu vạn môn Pháp tự. Đại Bồ Tát được hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này rồi, đối với chúng sanh được đại từ, đại bi. Lại có Bồ Tát Ma ha tát được pháp môn này rồi, đối với tội ngũ nghịch cực ác, v.v... đã tạo, khi chuyển thân liền được dứt hết; sanh lên Địa thứ ba xong, hết sạch tất cả nghiệp. Nếu không tạo tội ngũ nghịch thì được trụ Địa thứ mười. Ngoài ra, các nghiệp khác ngay nơi thân này liền vĩnh viễn được dứt hết. Qua xong một đời thì được đệ Thập trụ và không lâu liền được Ba mươi bảy phẩm và Nhứt thiết trí.
Thiện nam tử! Sự hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này làm cho lợi ích các Bồ Tát như vậy, nếu Bồ Tát thường nhớ nghĩ đến pháp thân của chư Phật thì được thấy các loại thần túc biến hóa. Thấy biến hóa xong, liền được vô lậu hoan hỷ. Như vậy, nhờ hoan hỷ cho nên được thành tựu thần túc biến hóa, nhờ sức thần túc thì có thể cúng dường hằng hà sa số chư Phật ở kháp thế giới. Được cúng dường xong, cũng được lãnh thọ diệu pháp của chư Phật ấy. Nhờ nghe và lãnh thọ diệu pháp cho nên ngay khi ấy được Tam muội Nhẫn nhục Đà la ni và trở về đến thế giới của đức Phật này.
Thiện nam tử! Môn Đà la ni này có thể làm được những việc lợi ích lớn, giảm bớt các điều ác tăng thêm các căn lành như vậy.
Bấy giờ, có các Bồ Tát bạch Phật:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Chúng con gặp được chư Phật nhiều như cát của một sông Hằng trong quá khứ, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Lại có Bồ Tát thưa thế này:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của hai sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của ba sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của bốn sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của năm sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của sáu sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của bảy sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của tám sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Có Bồ Tát thưa:
- Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của chín sông Hằng, nghe môn Đà la ni này, nghe xong liền chứng đắc.
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Di Lặc bạch Phật:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Khi con ở vào thời quá khứ cách đây mười hằng hà sa số kiếp, có một đại kiếp tên là Thiện Phổ Biến, ngay trong kiếp này thì thế giới Ta Bà vi diệu thanh tịnh, tất cả đều trang nghiêm. Bấy giờ có đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Sa La Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Có vô lượng trăm ngàn ức na do tha Tỳ kheo Tăng và có không kể xiết các Đại Bồ Tát cung kính vây quanh Ngài. Vì các đại chúng, Phật Ta La Vương thuyết cho mọi người hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này. Từ nơi đức Phật kia, con được nghe pháp này xong và tu học; học xong liền được tăng thêm sự hiểu biết rộng lớn, đầy đủ. Như vậy, trong vô lượng vô biên kiếp có A tăng kỳ số Phật không thể kể xiết, ngay khi ấy tùy theo tuổi thọ của mình đem vô số Sư tử du hý tự tại Tam muội mà các Bồ Tát đã đạt được để cúng dường vô lượng chư Phật như vậy. Ngay khi ấy, ở nơi chỗ của mỗi đức Phật ấy, con được trồng vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp thiện căn không thể kể xiết. Trồng thiện căn rồi, con được vô lượng đại công đức tụ. Do thiện căn này cho nên con được vô lượng chư Phật thọ ký cho. Do bổn nguyện cho nên con ở mãi trong sanh tử, do chưa đúng lúc cho nên không thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bạch đức Thế Tôn Xin nguyện Như Lai ngay hôm nay trao cho con chức vị Phật khiến con được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ Phật bảo Đại Bồ Tát Di Lặc:
- Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời ông nói: khi Phật Ta La Vương ở đời, ông đã được hiểu rõ tất cả môn Đà la ni này. Di Lặc! Ở nơi quá khứ trong mười đại kiếp, nếu có người nào muốn nguyện thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay khi đó, ông liền đáp ứng đầy đủ, làm cho họ nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vào Vô Dư Niết Bàn. Di Lặc! Ông ở lâu nơi sanh tử do bổn nguyện. Sở dĩ không thành Phật là do chưa đúng lúc. Di Lặc! Vì ông, nay Ta trao chức vị Phật.
Bấy giờ, sau khi đức Thế Tôn quán sát các đại chúng và các Bồ Tát, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Thiên, Long, Dạ xoa, A tu la, La sát, Càn thát bà, nhơn, phi nhơn, v.v... và nói kệ tụng này:
Đới sĩ, phù di, đàn đà phù di, đàn ma đà phù di, già đế phù di, mật đế phù di, Bát nhã phù di, Tỳ xá la xà phù di, Bát đế tam tỳ đa phù di, A nậu ta bà phù di, a bà sai phù di, tam ma đa bát sai ma bát sai phù di, xà đế xoa duệ phù di, tam xoa xà tỳ xoa xà, ba la xoa xà, tỳ xá già đạt xá bà đế, tỳ xá đà đế la na, la già già, tam xoa xá bà đa.
Tỳ ma đế thâu ba ê la la già ma. A tra xoa la, bà xá tăng già ma, y đế châu la thất đế di văn đà la, đà ha la bạt đế Bát nhã phù đa. A đà già di đa bà đồ sa bàn đa, y la da ny la da, a hô tát tra, a thâu đà thâu a tha bà đế già lâu bà đế. Đế ê ma đề, bà a ca na ma đế. Bà ca na ma đế tam di đế tỳ xa bà địa, y đà bà la, y đà bà la, a la đa la, câu lưu sa đâu lâu sa lại ma la lưu tha đa lưu tha. Tát bà tha, tát bà tha giá ni lưu the đề ha đa đa ê phả la. Bà hầu phả la tát bà phả la thế tra bà đề.
Khi Phật thuyết các loại kệ tụng mười hai nhân duyên giải thoát này có sáu mươi na do tha chư thiên thấy được bốn Thánh đế.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng:
Đới phả lam, a già phả lam, la la phả lam, a lam phả lam, ni ha hô la. Bà đa phiếu, thi đàm phả lam, ny lam phả lam. Na mô đà lam, tỳ phù ngạ, Bát nhã giá già, a sất tỳ địa giá ca, xà ni giá ca.
Khi Phật thuyết kệ tụng giải thoát này có một ức chư thiên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều được Bất thối chuyển.
Bấy giờ đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng:
Bà tha, tô ma đô, a sất ma đô, a câu ma đô cưu đà bà câu, ma sỉ tha đà xá la. Tỳ bá bạt tha, y ha thế thiết đa tô nỉ ma, tô đế xí noa lợi huệ, a lộ câu quang minh, a đa đấu noa đại nhiên đà.
Khi thuyết kệ tụng giải thoát này có sáu vạn bốn ngàn loài rồng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều được Bất thối chuyển.
Bấy giờ đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng:
A xoa tu bạt xoa, tu bà sa ba mạn đà na a la trụ bà già la chù, già la trà xoa, tất đàm ma đế tam mạn đa, ê a xoa bà lệ, ê tra ca lộ ma ha bà lệ, ô xà đà lộ, đà la ni, ế già la xoa, câu đà xoa, câu bà xoa. Tỳ lộ bố, tỳ lưu ba, mục khư, thế đế hại sí. Thế đế bà lệ a tu lộ tỷ na, tu lộ ba ma đề.
Khi thuyết kệ tụng giải thoát này có mười hai ức Dạ xoa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều được Bất thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng:
A thê ty, lệ ly, ni đế để, san đế để già đế nị na già di, a lam di, ba lam di, a đà di ma đà di, ma đế di, san ni a, thủ lệ, đà la ni, a tỳ xá đa, tát đà, tát đề bà, tát na già, tát dạ xoa, tát A tu la đề bà na già, ny lục đế lệ bà la, ny lục đế la tỳ mật đế bát nhã, bát lê bạt đa mạt đế, bà lợi la tỳ già đế đề, đế ba lợi ba la già đế đề đế la tỳ phất bà sí tỳ xà nỉ tỳ tát giá lợi bạn đa.
A tỳ đà na bạn đa, thủ la bạn đà đáo la tỳ lê gia. Tỳ đà tỳ đa tỳ bạn để, tỳ sa bà nỉ, mạt già văn đà, tỳ xá bát lợi kiếm ma. Nỉ xoa ba la hô, ô ha la lô đề la ba đô. A tu la văn đà na già xoa. Văn đà, dạ xoa van đà, la lợi văn đà tỳ đề, tỳ đề di đa ty, đa đa ty, ô noa na bạn, bà khư đề, đà la ni a tỳ xá đa đề xá thủ, đà ni. Ba sí thâu đề, kỳ bà thâu đà ni, ba sí lợi yết ma, đế ma đế già đế phu đế già na ba đế. Bà la na phất đề xà da, giá gia thâu nhã đà giá ca, ty giạ.
Thuyết kệ tụng giải thoát này rồi, năm vạn sáu ngàn A tu la phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều được Bất thối chuyển.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vô Sở Úy Bình Đẳng Địa Bồ Tát Ma ha tát:
- Thiện nam tử! Chư Thế Tôn xuất hiện ở đời rất khó. Diễn bày pháp này lại càng khó hơn. Pháp này chính là để huân tập tu hành về giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.
Thiên nam tử! Kệ tụng này có thể khiến cho Bồ Tát thành tựu oai đức của Bồ Tát.
Thiện nam tử! Như Lai khi thực hành đạo Bồ Tát bằng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, được bao gồm trong kệ tụng đây. Nhờ cúng dường vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức chư Phật Thế Tôn, đối với chư Phật Thế Tôn, hoặc thực hành việc bố thí, hoặc tu phạm hạnh, giữ giới thanh tịnh, hoặc siêng năng tinh tấn, hoặc tu nhẫn nhục, hoặc nhập Tam muội, hoặc tu trí tuệ, tu tập tất cả tịnh nghiệp thuần thiện, cho nên nay Ta được trí Vô thượng.
Thiện nam tử! Xưa kia ở vô lượng a tăng kỳ ức na do tha kiếp, khi Ta tu Bồ Tát đạo, thân thường xa lìa vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, cho nên nay Ta được tướng lưỡi này.
Thiện nam tử! Do nhân duyên đây cho nên những gì chư Phật Thế Tôn thuyết ra đều chơn thật không hư dối.
Khi thị hiện vô số thần túc biến hóa xong, đức Thế Tôn nhập khắp tất cả công đức Tam muội. Nhập Tam muội xong, Ngài xuất tướng lưỡi dài rộng che khắp cả mặt, từ nơi lưỡi kia phóng ra sáu mươi ức ánh sáng. Ánh sáng vi diệu che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, trời, người đều được nhờ ánh sáng đó. Những chúng sanh trong địa ngục, thân bị đốt cháy, do nhờ ánh sáng này cho nên trong giây lát được thanh tịnh mát mẻ, an vui; ở ngay trước mặt các chúng sanh đó đều có hóa Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm. Bấy giờ, những chúng sanh nhờ được thấy Phật nên đều được sung sướng, an vui. Mỗi loại chúng sanh tự nghĩ: “ Nhờ ơn vị này khiến ta được vui”. Chúng đối với các hóa Phật, tâm được vui vẻ, chắp tay cung kính.
Bấy giờ, hóa Phật bảo các chúng sanh kia:
Này, các con hãy niệm “Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng”. Do nhân duyên này sẽ thường được an vui.
Các chúng sanh ấy ở trước mặt Phật quỳ thẳng, chắp tay, vâng lời Phật dạy và niệm”
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng.
Các chúng sanh ấy do nhân duyên căn lành này nên khi qua đời ở đây, hoặc được sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người. Hoặc có chúng sanh đang ở trong địa ngục rét lạnh, bấy giờ liền có một ngọn gió ấm áp, êm dịu thổi đến xúc chạm đến nơi thân, cho đến được sanh trong cõi trời, cõi người cũng như vậy.
Chúng sanh trong loài ngã quỷ bị đói khát bức bách, nhờ ánh sáng của Phật cho nên trừ được sự đói khát khổ não, nhận sự an vui sung sướng, ở trước mỗi chúng sanh ấy đều có một hóa Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm. Do được thấy Phật cho nên chúng đều được an vui, sung sướng, đều nghĩ rằng: “ Nhờ ơn vị này khiến ta được an vui”. Chung đối với hóa Phật, tâm được hoan hỷ, chắp tay cung kính.
Bấy giờ, được đức Thế Tôn làm cho thấy được nhân duyên tội nghiệp của mình ở đời trước, các chúng sanh kia liến tự hối hận, trách mắng mình. Do nhờ căn lành này, chúng qua đời được sanh trong cõi trời, cõi người. Đối với chúng súc sanh cũng như vậy.
Khi đức Thế Tôn chỉ bầy nhân duyên đời trước cho các chư thiên thì có vô lượng vô biên chúng sanh đi đến chỗ Phật, đầu mặt làm lễ và lui ngồi một bên thọ lãnh diệu pháp.
Bấy giờ có vô số chư thiên và loài người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vô số Bồ Tát Ma ha tát được Đà la ni Tam muội nhẫn nhục.
Hết quyển thứ nhất

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567