Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần chú giải quyển thứ nhất

13/05/201319:19(Xem: 11592)
Phần chú giải quyển thứ nhất

Đức Phật nói Kinh Hồng Danh Lễ Sám

Phần chú giải quyển thứ nhất

Hòa thượng Thích Huyền Vi

Nguồn: Việt dịch từ Dịch từ Tục Tạng Kinh (Ấn Độ soạn thuật)

Tôi nghe như vầy: Evam me suttam (P) Evam Mayà Srutam (S). Đầu mỗi bộ Kinh thường để câu nầy, do Ngài A-Nan đích thân nghe Phật thuyết. Như thị là chỉ lời đức Phật thuyết trong Kinh. Ngã văn là tự A-Nan nói đã nghe Đức Thế Tôn. Đức Phật dạy: A-Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, đến chừng kết tập Kinh Tạng, ở đầu tất cả Kinh nên đề: Evam me suttam: Như thị ngã văn, tôi nghe như vầy:

Thành Xá Bà Đề: Tức là Thành Xá Vệ: Sravasti. Một đô thị trong sáu đô thị lớn ở Ấn Độ, hồi Đức Thích Ca ra đời. Thành Xá Bà Đề là kính đô nước Câu Tát La (Kosala), khi Phật thành đạo thì Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) trị vì. Thành nầy có cảnh vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc là nơi mà đức Phật thường trú để giáo hóa chúng sinh. Thành nầy cũng viết là thành Thất La Phiệt. Dịch thành các tiếng: Văn Giả, Văn Phật, Phong Đức, Hóa Đạo, lấy ý nghĩa thành ấy sản xuất nhiều người có danh và nhiều vật có danh, nhiều nhà tu trì đắc đạo.

Vườn của Cấp Cô Độc: Cảnh vườn ấy ở tại thành Xá Vệ (Sràvati), nước Câu Tát La vốn của ông Hoàng Kỳ Đà ( jeta). Ông trưởng giả Cấp Cô Độc (Annathapindika) mua lại của Thái tử Kỳ Đà, rồi cúng dường lên Phật, Tăng và lập ra ngôi tịnh xá ở trong vườn ấy, nên gọi trọn cảnh vườn và tịnh xá là vườn của Cấp Cô Độc.

Đại Tỳ Kheo: Mahà Bhikkhu (P) , Mahà Bhiksu (S). Thầy tu giữ 250 giới thanh tịnh. Đại Tỳ Kheo là bậc Tỳ kheo lớn chứng quả vị cao. Tỳ Kheo có ba nghĩa: Khất sĩ, phá ác và bố ma.

Tứ chúng: Bốn chúng: Tỳ kheo: Bhikshu, Tỳ kheo ni: Bhishunì; Ưu bà tắc: Upàsaka và Ưu bà di: Upàsika. Hai chúng xuất gia và hai chúng tại gia.

Phi nhơn: Chẳng phải người, chẳng giống người, những chúng sanh đường âm, chẳng có thể xác như người. Như các hạng tiên, trời, thần, quỷ, thì gọi là phi nhơn. Tức là chúng sanh chẳng phải người.

Những thú vật thường và thú vật biết biến hóa, cũng kêu là phi nhơn, vì chẳng giống người.

Đức Thế Tôn: Lokanatha, Bhagavat (S) Le Bienheureux (F) hiệu của Phật, vì Ngài có đủ muôn đức, cho nên được tất cả thế giới, từ chư Thánh, Tiên, Thần cho đến loài người, yêu quỷ, địa ngục, súc sanh thảy đều tôn trọng. Lại nữa, Ngài là người đáng tôn trọng hơn hết trong các bậc Thánh hiền, cho nên gọi Ngài là Thế Tôn.

Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác: Anuttara Samyak Sambodhi là quả vị Phật, bậc đại giác ngộ. Ấy là quả vị cao tột nhứt mà đức Phật đã được lúc Ngài ngồi đại định nơi cội cây bồ đề.

Phật A Súc phương đông: Aksobhya (S) A Súc là danh hiệu của một vị Phật, do chữ Axobya, dịch nghĩa là bất động, vô động, vô nộ, vô sân nhuế. Ngài là đức Đại Nhựt Như Lai ở đời quá khứ, phát nguyện tu hành, thành Phật ở phương Đông. Cõi Phật của Ngài kêu là Thiện Khoái Quốc hay là Hoan Hỷ Quốc, Diệu Hỷ Quốc.

Nghiệp chướng: Sự ngăn trở của nghiệp. Nghiệp (karma) tức là hành động chướng ngại, do thời gian trước đã phạm tội trọng, hoặc có hủy báng chánh pháp, đúc kết thành nghiệp. Các nghiệp ấy chưa tiêu trừ, nên đời nầy vướng phải các tai nạn, lận đận, lao đao mãi…

Địa ngục A-tỳ: Avichi: A-tỳ dịch nghĩa là Vô-gián, không lúc nào gián đoạn; Địa ngục A-tỳ hay địa ngục vô gián là cảnh trừng trị, nơi ấy tội nhơn bị hành hạ mãi mãi không lúc nào ngừng, từ năm nầy qua kiếp nọ chịu khổ mãi mãi, muốn thoát ra không bao giờ được.

Vô gián tội: Bị tội rất nặng ở cảnh địa ngục vô gián: Avichi (S) Enfer où les damnés sont punis sans interruption (F).

Mười hai bộ Tôn Kinh: Douze sùtras (du Grand Véhicule) (F). 1. Sùtra: Khế Kinh, Pháp Bổn, tức Kinh Trường Hàng. 2. Geya: Ứng tụng hay trùng tụng. 3. Vyakarana: Thọ ký. 4. Gatha: Phúng tụng, cô khởi tụng. 5. Udana: Tự thuyết. 6. Ni Đà Na: Nhơn duyên. 7. Avadana: Thí dụ. 8. Itivrtaka: Bổn sự. 9. Jataka: Bổn sanh. 10. Vaipulya: Phương quảng. 11. Abhutadharma: Vị tằng hữu và 12. Upadesa: Luận nghị, thuyết và lý luận.

Cõi Diêm Phù: Jambudvipa (S). Một châu trong bốn châu thiên hạ. Ở về phía nam Tu Di, cũng gọi là Thiệm Bộ Châu, tức là trái đất chúng ta ở mà cõi Thiên Trúc choán một phần rộng lớn. Tên Diêm Phù Đề có bởi cây Diêm Phù (Jambud) vì ở cõi nầy có cây Linh kêu là Diêm Phù, dưới bóng cây ấy, Thái tử Siddharta tham thiền nhằm khi người ta cầy ruộng.

Mười phương thế giới: Cõi nước ở phương đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, thượng và hạ.

Thinh Văn: Sravaka (S), Auditeurs (F). Bậc nghe pháp. Những vị đệ tử của Phật tu hạnh xuất gia, thường theo Phật nghe pháp. Nhứt là nghe Pháp Tứ Đế: khổ, tập, diệt, đạo. Những vị ấy tham thiền đoạn phiền não, liền đắc quả Tu Đà Hoàn (Srotapanna), hoặc quả Tư Đà Hàm (Sakradagami) hoặc quả A Na Hàm (Anagami) hoặc quả A La Hớn (Arhat). Quả vị cao lớn hết của hàng Thinh Văn là quả A La Hớn.

Duyên Giác: Pratyeka Buddha (S) cũng gọi là Bích Chi Phật hay Độc Giác. Duyên Giác có hai nghĩa: 1. Quán tưởng lý thập nhị nhân duyên liền giác ngộ, đoạn diệt mê hoặc, chứng đắc chơn lý. 2. Nhơn xem các duyên ngoài: Hoa bay tan tác, lá rụng tơi bời, bèn giác ngộ lý vô thường, đoạn diệt mê hoặc, chứng đắc chơn lý.

Tam Bảo: Triratna (S), Trois Joyaux, Trinité bouddhique (F) Ba ngôi quý báu là chư Phật, tôn Pháp và Hiền Thánh Tăng.

Sám hối: Ksamayati (S) Sám hối là chữ Phạn và chữ Hoa đồng nghĩa hợp lại nhau. Ấy là xưng tội, chịu tội, và quyết ăn năn chừa cải. Phương pháp sám hối tùy theo tội nặng, nhẹ mà thi hành. Có nhiều pháp sám hối. Lễ Phật cũng là một pháp sám hối…

Vô thỉ: Sans commencement (F). Không có đầu mối. Đời trước lại có đời trước nữa, đời đời không cùng nên gọi là vô thỉ. Chính cuộc sanh tử của chúng sanh là vô thỉ. Chúng ta lăn lộn trong vòng luân hồi, sống rồi chết biết bao nhiêu lần mà kể, dù có tính giỏi thế mấy cũng không biết được lúc khởi đầu.

Phàm phu: Prthajana (S). Profane (F) Kẻ tầm thường không tin đạo đức và ưa nhạo báng. Phàm phu đối với Thánh giả, Thánh nhơn. Phàm phu tức là ngu nhơn (ngu phu). Thánh giả tức là trí giả.

Ba nghiệp: Trividhadvara (S) Trois actes, Rétribution de trois actes (F) Ba hành động: Thân nghiệp: hành động bằng thân thể, tay chân, tức việc làm; khẩu nghiệp: hành nghiệp bằng lời nói, tức nói năng, dạy bảo; ý nghiệp: hành nghiệp bằng ý tưởng tức là mong cầu, toan tính…

Sáu căn: Ayatana (S) Six organs, six sens (F). Căn là căn cội; có sức sanh trưởng. Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu căn thiệp nhập với sáu trần mà sanh ra sáu thức.

Mười nghiệp ác: Dix actes coupables: Mười nghiệp dữ. Thân có ba: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Miệng có bốn: nói dối trá, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác. Ý nghiệp có ba: tham lam, giận tức, và si mê.

Phiền não chướng: Sự che lấp của phiền não. Ấy là những mối tham, sân, si, với bao nhiêu nỗi lòng lầm lạc, mến tríu có sức che lấp, làm cho nền Thánh đạo chẳng sanh ra được, làm cho nhà tu hành chẳng đắc niết bàn, làm loạn thân tâm. Nên gọi là phiền não chướng.

Nghiệp chướng: Đã giải ở cột số 10.

Báo chướng: Sự ngăn ngại, che bít của quả báo. Chúng sanh trong sáu nẻo đều bị phiền não, hoặc nghiệp ngăn ngại. Đối với những kẻ tội ác thâm sâu thì cái báo chướng nó ngăn đường bít nẻo; chỉ để cho đau khổ, tức như những hồn đọa lạc ở địa ngục, quỷ đói và súc sanh, quanh quẩn chỉ thấy mình khổ lụy. Đối với những bậc có hưởng phước như chư thiên, loài người thì cái báo chướng nó ngăn che, khiến cho mình chẳng tin Tam Bảo, chẳng mộ chánh pháp; còn đối với những bậc tu hành chân chánh thì cái báo chướng nó che áng, không để cho mình đắc đạo dễ dàng.

Sáu trần: Sáu cảnh bên ngoài, ấy là sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.

Tám khổ giao đốt: Huit douleurs (F). Tám nỗi khổ giao đốt con người ở đời: 1. Sanh khổ; 2. Già khổ; 3. Bịnh khổ; 4. Chết khổ; 5. Ái biệt ly khổ; 6. Oán tắng hội khổ; 7. Cầu bất đắc khổ và 8. Ngũ ấm xí thạnh khổ. Tám khổ ấy là to lớn, lại còn vô số sự khổ phụ thuộc.

Sáu pháp ba la mật: Paramita (S) Six vertus cardinals (F). Sáu pháp nầy đưa người từ bến mê đến bờ giác, từ sanh tử đến niết bàn, từ chúng sanh đến quả vị Phật: Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, và trí huệ ba la mật.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo: Bodhipakkhita Dharma (S) Trente sept categories de la Loi (F). Người tu thật hành 37 phẩm trợ đạo, chắc chắn lên quả vị giác ngộ. Ấy là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, pháp ngũ căn, pháp ngũ lực, pháp thất giác chi và tám chánh đạo. Bồ Tát tu lục độ và thật hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì đắc quả vị Như Lai.

Nhứt thiết chủng trí: La connaissance de tout (F) Trí hiểu biết tất cả mọi sự vật, tức là trí tuệ của Phật. Cũng gọi là Phật trí, Phật huệ. Người đời thường xưng Phật là bậc Nhứt Thiết Chủng Trí. Tiếng Pháp nói; Qui a la connaissance de tout.

Bảy báu: Saptaratna (S) Sept joyaux (F) Bảy món báu. Đối với người, hễ nơi nào có hình sắc, thì 7 món báu là quý nhứt: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não.

Ba đường ác: Trois mauvaises voies (F). Ba nẻo dữ, ba đường ác lụy: đường ác quỷ đói; đường ác súc sanh và đường ác địa ngục. Những ai khi làm người mà tính ác, miệng ác, việc làm ác, phạm mười điều ác, thì khi chết đi vào ba đường ác.

Pháp lồ sám hối: Đem hết lòng thành nói ra các lỗi lầm cầu xin bề trên chứng kiến để sám trừ các lỗi ấy và hứa về sau không tái phạm.

Chơn như Phật tánh: Buddhata (S), Nature de Bouddha (F). Tánh Phật, tánh giác ngộ, cái bản tánh lành. Phật tánh cũng tức là chơn như, tánh chơn thật thường như, không biến đổi, chẳng sanh chẳng diệt. Với kẻ ngu, vì bị nhiều sở dục, vì bị nghiệp chướng ngăn bít, nên Phật tánh, chơn như phải lu lờ. Đối với người trí ít tham, ít dục, mộ việc tu hành, nên Phật tánh chơn như tỏ rõ ra, biết lẽ quấy mà tránh, biết lẽ phải mà theo.

Sáu đường: Six voies (F) sáu nẻo, sáu chốn luân hồi. Cũng gọi là lục thú. Có ba đường thiện là trời, a tu la, người và ba đường ác là súc sanh, quỷ đói và địa ngục. Muốn thoát khỏi sáu đường luân hồi phải hành theo Phật Pháp, cho đắc những quả: La Hớn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Chừng ấy sẽ được tự tại, khỏi bị nghiệp quả lôi cuốn.

Bốn loài: Caturyoni (S) Quatre états de naissance (F). Bốn loài sinh ra: Noãn sanh: Từ trong trứng mà nở ra và lớn lên, như chim. Thai sanh: Từ trong bào thai sanh ra và lớn lên, như người, ngựa, lừa v.v… Thấp sanh: Từ chỗ ẩm ướt mà sanh ra, như rắn, cá. Hóa sanh: Tự nhiên là hóa ra, sanh ra do sức mạnh của nghiệp, như những hồn sanh lên cõi tiên, cõi trời; hay những loài cởi lốt đổi hình, như loài bướm, loài tằm v.v…

Ba gốc độc: Trois poisons, Trois passions dangereuses (F). Ba gốc độc hại; ba món phiền não lớn: tham lam, giận tức và si mê là độc hại nhứt, phá hủy các căn lành, làm hại đời sống của chúng sanh, nên gọi là ba gốc độc. Cũng gọi là ba cấu, ba chướng.

Ba lậu: Ba mối phiền não gây ra tội lỗi: 1. Dục lậu: sáu giác quan nương theo sáu trần cảnh mà ham muốn, thỏa thích quấy bậy. Dục lậu là phiền não của chúng sanh ở cõi Dục. 2. Hữu lậu: Thân tâm đối với ngoại duyên làm bậy, muốn quấy. Hữu lậu là phiền não ở hai cõi Sắc và Vô Sắc. 3. Vô minh lậu: Tâm tánh tối tăm chẳng hiểu phải quấy, nhơn đó sanh ra tham, sân, si và mọi thứ lỗi lầm.

Ba giác: Ba ác giác, ba mối cảm giác xấu xa của kẻ phàm phu đối với cảnh ngoài: 1. Dục giác. 2. Sân giác. 3. Hại giác.

Ba thọ: Trois sensations (F). Ba điều thọ cảm, ba thứ cảm giác. Cũng gọi là ba chủng thọ. Thọ nghĩa là lãnh nạp cảnh ngoài. Cảnh có ba thứ: Thuận; vi (trái); câu phi. Thọ có ba: Khổ thọ, lạc thọ và xả thọ.

Ba khổ: Ba mối khổ, ba thứ khổ, cũng gọi là ba tướng khổ, ba loại khổ: 1. Khổ khổ: Các mối khổ như tật bịnh, đói khát v.v…đều là khổ. Cái khổ nầy đến rồi thì cái khổ khác tiếp theo, làm cho người ta khổ mãi. 2. Hoại khổ: Những nhơn vật mình yêu thích đều hư hoại, sự ấy làm cho mình khổ. 3. Hành khổ: Trong lòng mình thấy khổ, vì trông thấy mọi vật trong thế gian đều là vô thường.

Ba giả: Ba cái giả dối: 1. Pháp giả: Pháp là tiếng gọi chung sắc và tâm, tức là vật chất lẫn tinh thần, là các sự vật có hình chất, hoặc không có hình chất, thảy đều chẳng bền, hoặc là hư giả. Cho nên gọi là pháp giả. 2. Thọ giả: Như thâu tóm năm uẩn mà thành chúng sanh, đó cũng không thiệt, sự tích tụ ấy là giả, nên gọi là thọ giả. 3. Danh giả: Danh hiệu, tiếng gọi dùng để chỉ người hay vật là tiếng đặt tạm thôi. Danh vốn không có thiệt. Nên gọi là giả danh.

Ba cõi: Trois mondes (F). Ba cõi. Những chúng sanh chưa hoàn toàn siêu thoát thì còn ở trong miền tam giới, từ cảnh trời cho đến cảnh địa ngục, súc sanh. Ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc.

Bốn thức trụ: Bốn thức trụ xứ. Chỗ cư trú của bốn thức: Sắc, thọ, tưởng, hành. Bốn thứ trụ là: 1. Sắc thức trụ. 2. Thọ thức trụ. 3. Tưởng thức trụ và 4. Hành thức trụ. Về sắc thức trụ, như sắc hữu lậu tùy thuận các mối thủ chấp, đối với các hình sắc hiện tại, quá khứ hoặc vị lai, bèn khởi lòng tham muốn, sân hận, si mê, đầy đủ phiền não. Về ba thức trụ sau cũng như vậy.

Bốn lưu: Bốn dòng nước, tức bốn thứ phiền não làm cho chúng sanh trôi giạt, chìm đắm: 1. Dục lưu. 2. Hữu lưu. 3. Kiến lưu và 4. Vô minh lưu.

Bốn thủ: 1. Dục thủ: Dục là tham dục, thủ là chấp trước. 2. Kiến thủ: Tâm tà phân biệt gọi đó là kiến, như thân kiến, biên kiến v.v… nhơn thấy sanh chấp trước, nên gọi là kiến thủ. 3. Giới thủ: Trong phi giới lầm cho là giới, chấp trước làm theo. Nên gọi là giới thủ và 4. Ngã ngữ thủ: Ngã kiến, ngã mạn gọi là ngã ngữ. Tại sao hai danh từ nầy gọi là ngã ngữ? Vì hai loại nầy nói có ngã. Lại nữa, theo giả nói năng, khởi ra chấp ngã, tùy theo đó mà chấp trước. Nên gọi là ngã ngữ thủ.

Bốn chấp: Bốn lối chấp trước: 1. Tà nhơn tà quả. 2. Vô nhơn hữu quả. 3. Hữu nhơn vô quả và 4. Vô nhơn vô quả…

Bốn duyên: 1. Nhơn duyên: 6 căn làm nhơn, 6 trần làm duyên. 2. Thứ đệ duyên: Tâm, tâm sở thứ lớp không gián đoạn, nối nhau mà phát khởi. 3. Duyên duyên: Tâm, tâm sở do gá duyên mà sanh, trở lại vin níu vào tâm. 4. Tăng thượng duyên: 6 căn hay chiếu cảnh phát thức, có lực dụng tăng thượng khi các sự vật sanh, không bị chướng ngại.

Bốn đại: Mahabhuta (S) Quatre elements (F). Bốn chất lớn trong thế giới tạm hiệp thành con người và vạn vật: Đất, nước, gió, lửa.

Bốn phược: Bốn sự ràng buộc: 1. Dục ái ràng buộc thân tâm. 2. Giận tức trói buộc thân tâm. 3. Giới trộm bó buộc thân tâm và 4. Chấp ngã ràng buộc thân tâm.

Bốn cách ăn: Bốn cách ăn: 1. Đoàn thực, cách ăn phân ra từng đoạn, từng miếng. 2. Xúc thực: cách ăn bằng sự cảm xúc đối với cảnh. 3. Tư thực: cách ăn bằng ý nghĩ. Ví như người đói khát, khi tới chỗ ăn uống, bèn nghĩ rằng mình sẽ được ăn uống, nhờ vậy mà được vui khỏe. 4. Thức thực: cách ăn bằng trí thức…

Bốn loài: Đã giải ở cột số 38.

Năm trụ địa: Năm trụ là kiến hoặc trong 3 cõi làm một trụ; tư hoặc 3 cõi chia thành 3 trụ; căn bản vô minh là một trụ, cộng thành năm trụ. Do 5 hoặc nầy hay khiến chúng sinh trụ trước con đường sinh tử. Nên gọi là trụ địa. Ngoài ra, còn năm trụ địa khác là 1. Nhứt thiết kiến trụ địa hoặc. 2. Dục ái trụ địa hoặc. 3. Sắc ái trụ địa hoặc. 4. Hữu ái trụ địa hoặc và 5. Vô minh trụ địa hoặc.

Năm thọ căn: Cinq sensations. Năm căn lãnh thọ, năm mối cảm thọ. Tâm tức lãnh nạp phần tác dụng của hoàn cảnh mà mình gặp. Gọi là thọ. Có 5 thứ phân biệt: Ưu thọ, hỷ thọ, khổ thọ, lạc thọ và xả thọ.

Năm cái: Nivarana. Cinq couvercles. Năm cái nắp đậy lại, tức là năm thứ phiền não che bít tâm tánh, không để cho thiện pháp nảy sanh: 1. Tham dục, nhứt là tình dục. 2. Sân nhuế, giận hờn. 3. Thụy mien, biếng nhác, mê ngủ. 4. Trạo hối, xao động buồn rầu nơi tâm. 5. Nghi pháp, nghi hoặc, ngờ chánh pháp.

Năm xan lẫn: 1. Trú xứ xan lẫn: có chúng sanh tâm nghĩ thế nầy, ở chỗ nầy chỉ một mình ta ở, không cho kẻ khác. Ấy là trú xứ xan lẫn. 2. Gia xan lẫn: Có chúng sanh tâm nghĩ thế nầy, độc nhứt chỉ có ta ra vào nhà nầy, không cho kẻ khác, dù có người khác, ta phải ở trong chiếm phần hơn. Ấy gọi là xan lẫn. 3. Thí xan lẫn: Có chúng sanh tâm nghĩ thế nầy: Ta ở nơi đây độc nhứt được bố thí, chớ cho kẻ khác. Dù có kẻ khác, chớ giúp hơn ta. Ấy gọi là thí xan lẫn. 4. Xưng khen xan lẫn: Có chúng sanh nghĩ như vầy, chỉ xưng khen ta, không nên xưng khen kẻ khác, dù có khen ai đi nữa, chớ khen hơn ta. Ấy gọi là xưng khen xan lẫn. 5. Pháp xan lẫn: Có chúng sanh tâm nghĩ thế nầy, riêng ta hiểu biết nghĩa sâu các kinh, bí yếu ẩn tàng, không chỉ cho người khác. Ấy là pháp xan lẫn.

Năm kiến: Năm ý kiến, năm sở kiến chấp nệ, thiên, tà của kẻ phàm phu, của người chưa giải thoát. 1. Thân kiến: ý kiến về thân mình, thấy có thân. 2. Biên kiến: Ý kiến một bên. 3. Tà kiến: Ý kiến tà vạy. 4. Giới cấm thủ kiến: Ý kiến chấp lấy giới cấm. 5. Kiến thủ kiến: Bảo thủ ý kiến của mình.

Năm vọng tâm: 1. Suất nhĩ tâm: Suất nhĩ cũng như đột nhiên. 2. Tầm cầu tâm: 3. Quyết định tâm. 4. Nhiễm tịnh tâm và 5. Đẳng lưu tâm.

Sáu tình căn: Đã giải ở cột số 23.

Sáu thức: Six connaissances (F). Sáu tri thức, sáu sự hay biết: 1. Hiểu biết về mắt. 2. Hiều biết về tai. 3. Hiểu biết về mũi. 4. Hiểu biết về vị. 5. Hiểu biết về xúc chạm và 6. Hiểu biết về ý thức.

Sáu tưởng: Tức là ý thức chấp trước sắc tưởng; Sắc chấp trước thinh tưởng; thinh chấp trước hương tưởng; hương chấp trước vị tưởng; vị chấp trước xúc tưởng; xúc chấp trước pháp tưởng. Ấy gọi là sáu tưởng.

Sáu thọ: Six sensations, sáu mối thọ cảm, lãnh nạp. Thọ, tiếng Phạn là Vedana: Thọ cảm sướng khổ, hoặc chẳng sướng chẳng khổ: 1. Do mắt, nhãn thức và sắc, ba thứ chạm nhau, cho nên sanh thọ. 2. Do tai, nhĩ thức và tiếng, ba thứ đụng nhau, cho nên sanh thọ. 4. Do lưỡi, thiệt thức và mùi vị, ba thứ gặp nhau, cho nên sanh thọ. 5. Do thân, thân thức và xúc, ba thứ gặp nhau, cho nên sanh thọ. 6. Do ý, ý thức và pháp, ba thứ gặp nhau cho nên sanh thọ.

Sáu hành: Quán sát hành động. Tức là quán sát con đường thế gian, trong ấy có lục đạo. Người khéo hành thì vào thiền định; người không khéo hành thì tạo tội lỗi rồi mang quả báo xấu nhiều đời…

Sáu ái: Tức là sáu nhiễm tâm: 1. Chấp tương ưng ái nhiễm. 2. Bất đoạn tương ưng ái nhiễm. 3. Phân biệt trí tương ưng ái nhiễm. 4. Hiện sắc bất tương ưng ái nhiễm. 5. Năng kiến tâm bất tương ưng ái nhiễm. 6. Căn bản nghiệp bất tương ưng ái nhiễm.

Sáu nghi: Sáu thứ nghi lầm để tạo tội lỗi: 1. Nghi Phật. 2. Nghi giáo pháp của Phật. 3. Nghi tăng chúng. 4. Nghi bố thí. 5. Nghi trì giới và 6. Nghi chư thiên.

Bảy lậu: Cũng giống như bảy phiền não: Ái dục; giận tức; có ái kiến; khinh chê; vô minh; nghi ngờ và chấp trước.

Bảy sử: Bảy việc sai sử: Tham sai sử; ái sai sử; sân sai sử; khinh mạn sai sử; vô minh sai sử; kiến chấp sai sử; nghi ngờ sai sử.

Tám đảo: Tám sự điên đảo, lộn ngược: 1. Chẳng phải thường mà cho là thường. 2. Chẳng phải vui mà cho là vui. 3. Chẳng phải ngã mà cho là ngã. 4. Chẳng phải tịnh mà cho là tịnh. 5. Thường lại cho là vô thường. 6. Vui mà cho là không vui. 7. Ngã mà cho là vô ngã và 8. Tịnh mà cho là bất tịnh.

Tám cấu: Giống nghĩa như bát phong, tám thứ bụi đời: Lợi, suy, hũy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

Tám khổ: Huit douleurs (F). Tám nỗi khổ của con người ở đời: Sanh khổ, già khổ; bịnh khổ; chết khổ; ái biệt ly khổ; oán tắng hội khổ; cầu bất đắc khổ; và năm ấm hừng thạnh khổ.

Chín não: Chín việc làm não phiền con người, ấy là: lạnh lẽo, nóng bức; đói khổ; khát khổ; bịnh đại tiện; bịnh tiểu tiện; bịnh trúng thực và già nua.

Chín kiết: Chín tật xấu bó buộc lòng người: 1. Ái kiết, ham yêu thương. 2. Nhuế kiết, sự hờn giận. 3. Mạn kiết, sự khinh lờn. 4. Si kiết, sự ngu si không sáng. 5. Nghi kiết, sự nghi hoặc đối với Tam Bảo. 6. Kiến kiết, ý kiến tà vạy. 7. Thủ kiến kiết, chấp chặt lấy cái ý kiến tà vọng. 8. Kiên kiết, sẻn tiếc thân mạng tài sản của mình và 9. Tật kiết, ganh ghét kẻ khác hơn mình.

Chín thượng duyên: Theo Duy Thức Học, thức phát sanh tạo tội gây nghiệp phải đủ 9 duyên tăng thượng, ấy là: Minh, không; căn; cảnh; tác ý; căn bản; nhiễm tịnh y; phân biệt y và chủng tử duyên.

Mười phiền não: Cũng gọi là mười mối sai khiến: 1. Tham dục. 2. Sân nhuế. 3. Vô minh. 4. Kiêu mạn. 5. Nghi ngờ. 6. Thân kiến. 7. Biên kiến. 8. Tà kiến. 9. Kiến thủ và 10. Giới cấm thủ.

Mười triền: Mười thứ trói buộc. Có mười món trói buộc chúng sanh chẳng đặng ra khỏi đường sanh tử, chứng niết bàn: 1. Vô tàm, không biết thẹn. 2. Vô quí, không biết hổ. 3. Tật, ganh ghét; 4. Xan, bỏn sẻn. 5. Sân, giận hờn. 6. Thụy miên, ham ngủ. 7. Trạo cử, lăng xăng chẳng yên tịnh. 8. Hôn trầm, tối tăm nặng nề. 9. Hận, hờn và 10. Phú, che dấu.

Mười một biến sử: 11 thứ khắp tất cả chỗ: xanh; vàng; đỏ; trắng; đất; nước; gió; lửa; không; thức và vô sở hữu.

Mười hai nhập: Ayatna (S) Mười hai cái can thiệp với nhau: như sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) nhập với sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) và sáu trần nhập với sáu căn. Ấy là mười hai nhập.

Mười sáu tri kiến: Ấy là 1. Ngã tri kiến. 2. Chúng sanh tri kiến. 3. Thọ giả tri kiến. 4. Mạng giả tri kiến. 5. Sanh giả tri kiến. 6. Dưỡng dục tri kiến. 7. Chúng số tri kiến. 8. Nhân tri kiến. 9. Tác giả tri kiến. 10. Sử tác giả tri kiến. 11. Khởi giả tri kiến. 12. Sử khởi giả tri kiến. 13. Thọ giả tri kiến. 14. Sử thọ giả tri kiến. 15. Tri giả tri kiến. 16. Kiến giả tri kiến.

Mười tám giới: Dix huit localités (F). Mười tám cảnh: Sáu căn là sáu cảnh ở trong (lục căn nội giới) Sáu trần là sáu cảnh ở ngoài (lục trần ngoại giới), sáu thức là sáu cảnh ở khoảng giữa (lục thức trung giới). Lục căn nội giới: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Lục trần ngoại giới: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục thức trung giới: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Hai mươi lăm ngã: Tức là 25 cõi chúng sanh. Vingt cinq régions d’êtres vivants (F). Ngã nghĩa là chúng sanh. Ấy là 25 cảnh giới, nơi ấy chúng sinh sanh ra do quả báo của mình. Thảy đều ở trong 3 cõi: Cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc.

Sáu mươi hai tà kiến: 62 ý kiến của những kẻ ngoại đạo, của những ai còn lầm lạc. 62 tà kiến ấy đều thâu vào ba ý kiến nầy: 1. Ngã kiến: Chấp có ta, cũng gọi thân kiến. 2. Đoạn kiến: Kể chẳng có thân tâm, chẳng có luân hồi, tức là vô kiến. 3. Thường kiến: Cho thân tâm còn mãi mãi, tức là hữu kiến. Có 60 kiến thuộc và ngã kiến. Đối với mỗi uẩn, đều có 4 cách kể, như về sắc; 1. Kể rằng sắc là ta. 2. Kể rằng lìa sắc là ta. 3. Kể rằng sắc lớn ta nhỏ, ta lớn sắc nhỏ; 4. Kể rằng ta lớn sắc lớn, ta nhỏ sắc nhỏ. Đối với thọ tưởng hành thức cũng kể như vậy. Tức là: 5x4=20. Nhơn cho ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai thành 60 kiến. 60 kiến thuộc về ngã kiến, hiệp với đoạn kiến và thường kiến thành 62 kiến.

Chín mươi tám sử: Cõi Dục có tham, sân, si, mạn, 4 thứ tư hoặc; cõi Sắc cõi Vô Sắc, mỗi cõi có tham, si, mạn, 3 thứ tư hoặc. Ba cõi tư hoặc cộng thành 10 sử, cộng với 88 kiến hoặc (Xem trong Phật học Phổ Thông khóa thứ III) thành 98 kiết sử mê lầm tạo tội.

Một trăm lẻ tám phiền não: 108 thứ kiết nghiệp. Lại gọi là bá bát phiền não, là tên riêng về nghĩa kết làm phiền não. Do phiền não sanh ra các loại ác nghiệp, gọi là kết nghiệp. 108 phiền não đó là: Kiến hoặc của tam giới có 88 sử, tư hoặc có 10 sử, gọi là 98 tùy miên, lại thêm vào 10 triền: Vô tàm, vô quý, hôn trầm, ác tác, não, tật, trạo cử, thụy miên, phẩn, phú, hiệp thành 108 thứ vậy.

Ba huệ: Ba cách tu học phát sanh trí huệ: 1. Văn huệ: nhờ đọc Kinh, học Kinh, nghe thuyết pháp mà mở thông trí huệ. 2. Tư huệ: nhờ suy nghĩ nghĩa lý mà mở thông trí huệ. 3. Tu huệ: nhờ tu thiền định mà mở thông trí huệ.

Ba thông: Một là báo đắc thông.Hai là tu đắc thông và ba là biến hóa thông.

Ba khổ: Đã giải ở cột số 43.

Ba nguyện: Ba nguyện đầy đủ là 1. Ngã công đức nguyện. 2. Như Lai gia trì nguyện và 3. Vạn loại đồng đăng giác ngạn nguyện.

Bốn thức: Cũng gọi là tứ thức trụ xứ. Chỗ cư trú của bốn thức: Sắc,thọ, tưởng, hành. Bốn thức là sắc thức trụ; thọ thức trụ; tưởng thức trụ và hành thức trụ.

Bốn tâm bình đẳng: Ấy là Từ, Bi, Hỷ, và Hộ…

Bốn tín nghiệp: Bốn lòng tin chân chánh. Ấy là tin lời Phật dạy; tin giáo pháp của Phật, tin chư Hiền Thánh Tăng và tin chắc có nghiệp báo.

Bốn đường ác: Bốn nẻo ác. Cũng gọi là tứ ác đạo. Ấy là 1. Địa ngục. 2. Quỷ đói. 3. Súc sanh và 4. A Tu La. Ai sanh vào bốn đường ác thì gọi là đọa.

Bốn pháp vô úy: Cũng gọi là Tứ Vô Sở Úy. Bốn đức dạn dĩ, chẳng sợ: 1. Nhứt thiết vô sở úy: Có trí biết tất cả, nên chẳng sợ chi hết. 2. Lậu tận vô sở úy: Dứt hết các phiền não, nên chẳng sợ chi hết. 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy: Giải thuyết chỉ chỗ ngăn hại đạo, nên chẳng sợ chi hết. 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy: Giảng thuyết dạy dứt hết các sự khổ nên chẳng sợ chi hết.

Năm cái: Đã giải ở cột số 57.

Thập địa: Hạnh nguyện của các Bồ Tát, tu chứng thập địa: Dasabhumi (S) Dix terres (F). Hoan hỷ địa; Ly cấu địa; Phát quang địa; Diệm huệ địa; Nan thắng địa; Hiện tiền địa; Viễn hành địa; Bất động địa; Thiện huệ địa và Pháp vân địa.

Mười một giải không: Ấy là Nội không; Ngoại không; Nội ngoại không; Hữu vi không; Vô vi không; Vô thủy không; Tánh không; Vô sở hữu không; Đệ nhất nghĩa không; Không không; Đại không.

Mười hai hạnh luân: Cũng gọi 12 chân như: 1. Chơn như. 2. Pháp giới. 3. Pháp tánh. 4. Bất hư vọng tánh. 5. Bất biến dị tánh. 6. Bình đẳng tánh. 7. Ly sanh tánh. 8. Pháp định. 9. Pháp trụ. 10. Thật tế. 11. Hư không giới. 12. Bất tư nghì giới…

Mười tám pháp bất cộng: Phật có 18 thứ công đức chẳng chung cùng với nhị thừa, nên gọi là pháp bất cộng: 1. Thân không lỗi. 2. Miệng không lỗi. 3. Ý tưởng không lỗi. 4. Không có tưởng khác. 5. Cái tâm đại định. 6. Chẳng phải không biết chuyện đã bỏ. 7. Sự dục không diệt. 8. Sự tinh tấn không diệt. 9. Ý tưởng không diệt. 10. Trí huệ không diệt. 11. Giải thoát không diệt. 12. Giải thoát tri kiến không diệt. 13. Hết thảy nghiệp của thân tùy theo trí huệ mà thi hành. 14. Hết thảy khẩu nghiệp, tùy theo trí huệ mà thi hành. 15. Hết thảy ý nghiệp, tùy theo trí huệ mà thi hành. 16. Trí huệ biết đời quá khứ không ngại. 17. Trí huệ biết đời vị lai không ngại. 18. Trí huệ biết đời hiện tại không ngại.

PHẦN CHÚ GIẢI QUYỂN THỨ NHẤT

HẾT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567