Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. Tiết Mục 4 : Nhân Quả Của Sự Hộ Nhập Ấy

07/05/201312:07(Xem: 8486)
V. Tiết Mục 4 : Nhân Quả Của Sự Hộ Nhập Ấy

Phần 04

Chương 1: Tổng Minh Nhân Quả

Chính Văn.-

Như vậy là đã nói sự ngộ nhập các pháp sở tri rồi, còn nhân quả của sự ngộ nhập ấy thì làm sao thấy được? (Sự ngộ nhập ấy) phải do 6 ba la mật là thí, giới, nhẫn, tiến, định, tuệ. Tại sao do 6 ba la mật làm nguyên nhân mà được ngộ nhập duy thức? Rồi tại sao 6 ba la mật lại làm thành quả của sự ngộ nhập ấy? (Sáu ba la mật làm nguyên nhân) là vị bồ tát này không ham tiền của địa vị, không phạm tịnh giới, với khổ thì không dao động, với tu thì không biếng nhác, trong những cái nhân tán động như vậy mà khi chúng không hiện hành thì tâm chuyên nhất nơi cảnh, như thế là có năng lực quyết trạch các pháp một cách đúng lý, nhập vào duy thức. (Sáu ba la mật làm thành quả) là vị bồ tát này do 6 ba la mật mà ngộ nhập duy thức rồi, chứng được 6 ba la mật thống thuộc cái ý lạc thanh tịnh tăng thượng. Vì vậy, giả sử tách rời sự nỗ lực hiện khởi của 6 ba la mật thì do cái thắng giải đối với giáo pháp Phật dạy, lại do những tác ý mến trọng, tùy hỷ và vui thích, nên vẫn thường xuyên, không cách hở, thích ứng phương tiện tu tập 6 ba la mật mau được viên mãn. Ở đây có 3 bài chỉnh cú: 1. đến 3. (Một) đã tròn đầy cái pháp trong trắng, (hai) lại được cái nhẫn sắc bén, (ba) nên bồ tát đối với giáo pháp sâu rộng của đại thừa, (bốn) giác ngộ chỉ là phân biệt và được trí vô phân biệt, (năm) hy vọng và thắng giải thanh tịnh nên ý lạc thanh tịnh; (sáu) trước đó và nay đây do giáo pháp đẳng lưu ra mà cùng thấy được chư Phật, (bảy) xác quyết rằng gần với đại bồ đề, bởi vì không còn có sự khó được nữa. Do 3 bài chỉnh cú này mà tổng quát biểu thị cái ý lạc thanh tịnh tăng thượng có 7 sắc thái: (1) tư lương (2) kham nhẫn (3) đối tượng (4) tác ý (5) bản thân (6) điềm tốt (7) lợi cao. Đúng theo sự tuần tự, 7 sắc thái này được các câu chỉnh cú biểu thị, nên biết như vậy.

Mục 1: Nói Về Số Mục

Chính Văn.-

Vì lý do nào mà ba la mật chỉ có 6 số mục? Vì thành lập sự đối trị những nguyên nhân bị đối trị, vì làm chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật, và vì tùy thuận thành thục cho chúng sinh. Vì muốn đối trị cái nguyên nhân không đi tới, nên lập thí ba la mật và giới ba la mật - nguyên nhân không đi tới là ham tiền của địa vị và nhà cửa vợ con; vì muốn đối trị cái nguyên nhân làm cho đi tới rồi lại trở lui, nên lập nhẫn ba la mật và tiến ba la mật - nguyên nhân trở lui là đau khổ bởi chúng sinh xúc phạm gây ra khi mình ở trong sinh tử, và biếng nhác đối với sự nỗ lực trường kỳ tu tập thiện pháp; vì muốn đối trị cái nguyên nhân tuy đã đi tới và không trở lui nhưng hỏng mất, nên lập định ba la mật và tuệ ba la mật - nguyên nhân hỏng mất là mọi thứ tán động và trí tuệ sai lầm ác hại. Như thế đó là vì thành lập sự đối trị những nguyên nhân bị đối trị nên chỉ qui định có 6 số mục. Lại nữa, 4 ba la mật trước là nhân tố của sự không tán động, 1 ba la mật kế tiếp là thành tựu sự không tán động, sự không tán động này làm chỗ dựa nên biến giác một cách đúng như sự thật về chân lý của các pháp [113], và thế là có năng lực chứng đắc tất cả Phật pháp. Như thế đó là vì làm chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật nên chỉ qui định có 6 số mục. Do thí ba la mật mà tiếp nhận chúng sinh, do giới ba la mật mà không hại chúng sinh, do nhẫn ba la mật mà nhịn chịu tai hại mình gặp, do tiến ba la mật mà tán trợ việc họ nên làm - do chính những yếu tố tiếp nhận và ích lợi chúng sinh như thế này mà làm cho họ có thể thành thục, nên từ đó sắp đi, ai tâm chưa định thì làm cho định tĩnh, ai tâm định rồi thì làm cho giải thoát, và khi khai ngộ cho họ thì họ được thành thục [114]. Như thế đó là vì tùy thuận thành thục cho chúng sinh mà chỉ qui định có 6 số mục. Nên biết như vậy.

Đoạn 1: Nói 6 Thứ Tối Thắng

Chính Văn.-

Sắc thái của 6 ba la mật làm sao thấy được? Do 6 thứ hơn hết mà thấy. Một do chỗ dựa hơn hết, là lấy tâm bồ đề làm chỗ dựa. Hai do sự việc hơn hết, là thực hành trọn vẹn. Ba do tiền đề hơn hết, là lấy sự lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh làm tiền đề. Bốn do phương tiện hơn hết, là được trí vô phân biệt tiếp nhận. Năm do hồi hướng hơn hết, là hồi hướng vô thượng bồ đề. Sáu do thanh tịnh hơn hết, là phiền não và sở tri không còn chướng ngại mà nổi lên.

Đoạn 2: Nói 4 Câu Phân Biệt

Chính Văn.-

Thí là ba la mật? hay ba la mật là thí? Có cái là thí mà không phải là ba la mật, (có cái là ba la mật mà không phải là thí, có cái là thí mà cũng là ba la mật, có cái không phải là thí mà cũng không phải là ba la mật), nên làm 4 câu như vậy [115]. Như với thí, với các ba la mật khác cũng làm 4 câu, nên biết đúng cách.

Mục 3: Nói Về Thứ Tự

Chính Văn.-

Vì lý do nào mà 6 ba la mật nói theo thứ tự như vậy? Vì ba la mật trước thích ứng phát sinh ba la mật sau.

Mục 4: Nói Về Danh Từ

Chính Văn.-

Sự giải thích danh từ của các ba la mật làm sao thấy được? Đối với thiện pháp bố thí v/v của thế nhân, của thanh văn duyên giác, thì 6 pháp này rất hơn hết, có năng lực đạt đến bờ bến bên kia, nên gọi chung là ba la mật. Rồi (một) có năng lực phá nát sự keo lẫn, bần cùng, lại có năng lực dẫn ra phước đức tư lương, đem lại tiền tài địa vị rộng lớn, nên gọi là thí. (Hai) có năng lực hủy diệt giới luật ác, nẻo đường ác, lại có năng lực thủ đắc nẻo đường lành, sự đẳng trì [116], nên gọi là giới. (Ba) có năng lực tận diệt phẫn nộ, oán thù, lại có năng lực khéo sống trong sự yên ổn mình người, nên gọi là nhẫn. (Bốn) có năng lực rời xa mọi sự biếng nhác, ác, bất thiện, lại có năng lực xuất sinh và tăng trưởng vô lượng thiện pháp, nên gọi là tiến. (Năm) có năng lực tiêu trừ mọi sự tán động, lại có năng lực dẫn ra sự đứng yên nơi nội tâm, nên gọi là định. (Sáu) có năng lực hủy bỏ mọi kiến thức sai lầm, mọi trí tuệ ác hại. lại có năng lực biết các pháp đúng với chân thật và phẩm loại [117], nên gọi là tuệ.

Đoạn 1: Nói Chung 5 Sự Tu Tập

Chính Văn.-

Nên biết như thế nào về sự tu tập các pháp ba la mật này? Nên biết sự tu tập ấy đại lược có 5 sự. Một là tu tập bằng sự nỗ lực nổi lên. Hai là tu tập bằng sự thắng giải. Ba là tu tập bằng sự tác ý. Bốn là tu tập bằng sự phương tiện khéo léo. Năm là tu tập bằng sự thành tựu việc làm. Tựu trung, 4 sự tu tập thì như trước đã nói [118], còn sự thành tựu việc làm là chư vị Như lai thì việc Phật vận dụng tự nhiên mà không có ngừng nghỉ, đối với các pháp ba la mật mà các Ngài đã viên mãn các Ngài lại hoạt dụng các pháp ấy.

Đoạn 2: Nói Riêng Sự Tu Tập Tác Ý

Chính Văn.-

Lại nữa, tu tập bằng sự tác ý là tu tập 6 thứ ý lạc thống nhiếp mọi tác ý mến trọng, tùy hỷ và vui thích: một là ý lạc rộng lớn, hai là ý lạc trường kỳ, ba là ý lạc hoan hỷ, bốn là ý lạc mang ơn, năm là ý lạc chí lớn, sáu là ý lạc thuần lành. (Một) nếu các vị bồ tát trải qua bao nhiêu vô số đại kiếp mới hiện chứng vô thượng bồ đề, trong thì gian ấy giả sử mỗi một sát na bỏ hết mọi thân mạng, đem 7 thứ quí báu chứa đầy trong hằng sa thế giới mà phụng thí chư vị Như lai, làm như vậy cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ đề, vậy mà các vị bồ tát ấy ý lạc về thí vẫn không biết chán và biết đủ; lại cũng trải qua ngần ấy thì gian, giả sử trong mỗi sát na lửa dữ đầy cả đại thiên thế giới, đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng thiếu thốn mọi thứ để sống, vậy mà giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, vẫn thường xuyên hiện hành, cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ đề, giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, bao nhiêu ý lạc ấy, các vị bồ tát vẫn không biết chán biết đủ, như thế đó gọi là ý lạc rộng lớn của bồ tát. (Hai) chính cái ý lạc không biết chán đã nói, cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ đề, các vị bồ tát thường xuyên không cách hở, không ngừng nghỉ, như thế đó gọi là ý lạc trường kỳ của bồ tát. (Ba) các vị bồ tát đem 6 ba la mật của mình mà lợi ích chúng sinh, do việc làm này mà hoan hỷ một cách sâu xa, nỗi hoan hỷ của chúng sinh được lợi ích cũng không sánh bằng, như thế đó gọi là ý lạc hoan hỷ của bồ tát. (Bốn) các vị bồ tát đem 6 ba la mật lợi ích chúng sinh, thấy họ có ơn lớn với mình, không thấy mình có ơn với họ, như thế đó gọi là ý lạc mang ơn của bồ tát. (Năm) các viể bồ tát đem những thiện căn do 6 ba la mật tập hợp được, bằng tâm lý sâu xa, xoay lại mà hiến cho tất cả chúng sinh, làm cho họ được quả báo khả ái và thù thắng, như thế đó gọi là ý lạc chí lớn của bồ tát. (Sáu) các vị bồ tát lại đem những thiện căn do 6 ba la mật tập hợp được, cùng với chúng sinh xoay lại mà cầu vô thượng bồ đề, như thế đó gọi là ý lạc thuần lành. Đó là (thứ nhất) bồ tát tu tập tác ý mến trọng bao gồm 6 thứ ý lạc. Các vị bồ tát đối với vô lượng thiện căn thích ứng tu tập 6 thứ ý lạc của vị bồ tát khác thì tùy hỷ sâu xa, đó là (thứ hai) bồ tát tu tập tác ý tùy hỷ bao gồm 6 thứ ý lạc. Các vị bồ tát vui thích sâu xa đối với 6 ba la mật thống thuộc 6 thứ ý lạc của tất cả chúng sinh, lại nguyện cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ đề, bản thân cùng với 6 ba la mật không bao giờ rời nhau, đó là (thứ ba) bồ tát tu tập tác ý vui thích bao gồm 6 thứ ý lạc. Nếu ai nghe được sự tu tập 3 thứ tác ý bao gồm 6 thứ ý lạc của bồ tát mà chỉ có được một ý nghĩ tin tưởng, vẫn còn sinh ra khối phước vô lượng, những nghiệp chướng ác cũng sẽ tiêu tan, huống chi bồ tát.

Mục 6: Nói Về Chi Tiết

Chính Văn.-

Chi tiết của các pháp ba la mật ấy, làm sao nhìn thấy? Phải biết mỗi ba la mật đều có 3 loại. Ba loại của thí là thí chánh pháp, thí tài sản, thí vô úy. Ba loại của giới là giới luật nghi, giới nhiếp thiện pháp, giới lợi ích chúng sinh. Ba loại của nhẫn là nhẫn oán hại, nhẫn khổ sở, nhẫn pháp [119]. Ba loại của tiến là tiến áo giáp [120], tiến đi tới, tiến không khiếp nhược không thoái chuyển không mừng đủ. Ba loại của định là định an trú, định dẫn phát, định thành sự [121]. Ba loại của tuệ là tuệ da hành vô phân biệt, tuệ căn bản vô phân biệt, tuệ hậu đắc vô phân biệt [122].

Mục 7: Nói Về Thống Nhiếp

Chính Văn.-

Làm sao thấy được sự thống nhiếp lẫn nhau [123]? Sáu ba la mật này thống nhiếp được hết thảy thiện pháp, bởi vì (hết thảy thiện pháp) là sắc thái của 6 ba la mật, là tùy thuận của 6 ba la mật, là đẳng lưu của 6 ba la mật.

Mục 8: Nói Về Sở Trị

Chính Văn.-

Như vậy những thứ bị đối trị của ba la mật là bao gồm các pháp tạp nhiễm, thì nhìn thấy như thế nào? (Phải thấy) là bản thân, là nguyên nhân và là hậu quả (của mỗi thứ bị đối trị [124]).

Mục 9: Nói Về Ích Lợi

Chính Văn.-

Những ích lợi thù thắng của 6 ba la mật đạt được, làm sao nhìn thấy? Là các vị bồ tát khi lưu chuyển sinh tử thì (thí) làm cho giàu sang, (giới) làm cho sinh mạng lớn lao, (nhẫn) làm cho bằng hữu và dòng họ lớn lao, (tiến) làm cho sự nghiệp lớn lao và hoạt động thành tựu, (định) làm cho bẩm tính nhẹ mỏng trần tục, không có não hại, (tuệ) làm cho học rành công nghệ và tất cả ngũ minh [125]. (Thêm nữa, và nói tổng quát, thì) đời sống thù thắng, không dẫn ra tội lỗi, cho đến ngày ngồi trên pháp tòa bồ đề, thường xuyên hiện hành mọi sự nghĩa lợi [126]cho tất cả chúng sinh, đó là lợi ích thù thắng (của 6 ba la mật).

Mục 10: Nói Về Quyết Trạch

Chính Văn.-

Nên nhìn thấy như thế nào về sự quyết trạch lẫn nhau của 6 ba la mật? Là đức Thế tôn đối với tất cả 6 ba la mật này, có chỗ lấy tiếng thí mà nói, có chỗ lấy tiếng giới mà nói, có chỗ lấy tiếng nhẫn mà nói, có chỗ lấy tiếng tiến mà nói, có chỗ lấy tiếng định mà nói, có chỗ lấy tiếng tuệ mà nói. Nói như vậy là có ý thú gì? Có nghĩa trong phần da hành [127]của hết thảy ba la mật đều có hết thảy ba la mật hỗ trợ mới thành được. Ý thú là như vậy.

Tiết 2: Kết Bằng Chỉnh Cú

Chính Văn.-

Ở đây có 1 bài chỉnh cú ôn đà nam: Số mục, sắc thái, thứ tự, danh từ, tu tập, chi tiết, thống nhiếp, sở trị, ích lợi, quyết trạch, nên biết như vậy (về 6 ba la mật).

Chương 1: Thiết Lập 10 Địa

Chính Văn.-

Như vậy là đã nói nhân quả của sự ngộ nhập rồi, còn sự tu tập về nhân quả ấy làm sao thấy được? Thấy được qua 10 địa[128]của bồ tát. Những gì là 10 địa? Một là cực hỷ địa, hai là ly cấu địa, ba là phát quang địa, bốn là diệm tuệ địa, năm là nan thắng địa, sáu là hiện tiền địa, bảy là viễn hành địa, tám là bất động địa, chín là thiện tuệ địa, mười là pháp vân địa. Lý do thiết lập 10 địa như vậy làm sao thấy được? Vì muốn đối trị 10 thứ vô minh [129]là những chướng ngại bị đối trị. Tại sao, vì 10 sắc thái pháp tánh có 10 vô minh chướng ngại. Những gì là 10 sắc thái pháp tánh? Trong địa thứ nhất là phổ biến, trong địa thứ hai là tối thắng, trong địa thứ ba là thắng lưu, trong địa thứ tư là không nhiếp thọ, trong địa thứ năm là không sai biệt, trong địa thứ sáu là không nhiễm tịnh, trong địa thứ bảy là mỗi pháp không sai biệt, trong địa thứ tám là không thêm bớt, thân tự tại độ tự tại, trong điểa thứ chín là trí tự tại, trong địa thứ mười là nghiệp tự tại, tổng trì tự tại, chánh định tự tại [130]. Trong đây có 3 bài chỉnh cú: 1. đến 3. Phổ biến, tối thắng, thắng lưu, không nhiếp thọ, không sai biệt, không nhiễm tịnh, mỗi pháp không sai biệt, không thêm bớt và thân tự tại độ tự tại, trí tự tại, nghiệp tự tại, 10 sắc thái pháp tánh như vậy bị chướng ngại vì 10 vô minh không ô nhiễm; để đối trị 10 vô minh chướng ngại này nên thiết lập 10 địa. Phải biết 10 vô minh như vậy, đối với thanh văn thì không phải là ô nhiễm, nhưng đối với bồ tát thì là ô nhiễm.

Lược Giải.-

Thiết lập 10 địa là để đối trị 10 vô minh, và 10 vô minh có người kể như ghi chú đã ghi. Nhưng có lẽ đó không phải là ý của đoạn này. Đoạn này nói 10 địa có 10 sắc thái pháp tánh, 10 sắc thái này bị 10 vô minh chướng ngại, vậy 10 cái tên vô minh có lẽ đi liền với 10 sắc thái, ví dụ: thứ 1 là vô minh chướng ngại cho sắc thái pháp tánh phổ biến, v/v.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567