Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 13: Khuyến Trì

06/05/201319:07(Xem: 9365)
Phẩm 13: Khuyến Trì

Pháp Hoa Kinh

Phẩm 13: Khuyến Trì

Pháp sư Thích Từ Thông

Nguồn: Thâm Nghĩa Đề Cương (Giáo án Cao Cấp Phật Học)

Lúc bấy giờ Bồ tát Dược Vương và Bồ tát Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ tát quyến thuộc, ở trước Phật nói lên lời thề rằng:

Cúi xin Thế Tôn chớ lo, sau Phật diệt độ chúng con sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh trong đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm, tham lợi háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó giáo hóa như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẫn lớn, trì tụng, biên chép, giảng nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân mạng để giáo hóa cho họ.

Bấy giờ, trong chúng 500 A La Hớn đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn! chúng con cũng tự thệ nguyện truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.

Lại có 8.000 ngàn vị hữu học vô học cũng đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi nước khác nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta bà phần lớn con người hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, hận thù, nịnh hót vì tâm không thành thật.

Lúc bấy giờ bà dì của Phật là Tỳ kheo ni Ma Ha Xà Ba Đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu học và vô học, đồng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không tạm rời. Thế Tôn mới hỏi: Kiều Đàm Di! Vì cớ nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy ? Phải chăng vì ta không kêu tên thọ ký cho chúng ngươi ? Này Kiều Đàm Di, ta trước thọ ký tổng quát cho tất cả Thanh Văn, nay ngươi đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau, ngươi sẽ làm Đại Pháp sư của 68.000 Phật pháp, còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu học và vô học, cũng sẽ làm Pháp sư. Lần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Như Lai. Này Kiều Đàm Di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, mẹ của La Hầu La là Tỳ kheo Gia Du Đà La thầm nghĩ: Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng mình chẳng nói tới tên ? Phật kêu Gia Du Đà La nói: Đời sau, trong năm ngàn vạn ức pháp môn của Phật, ngươi sẽ tu hạnh Bồ tát, làm Đại Pháp sư, lần hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu "Cụ túc thiên vạn quang tướng Như Lai".

Kiều Đàm Di, Gia Du Đà La và tất cả Tỳ kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng có.

Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ kheo ni bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các nước phương khác không ?

Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức na do tha Bồ tát. Các Bồ tát nầy, toàn là bậc bất thối chuyển và đã được các "tổng trì", bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng: "Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật mà rộng nói kinh nầy". Rồi lại nghĩ: "Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng con sẽ nói gì đây ?".

Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thỏa mãn ý nguyện của mình, các Bồ tát liền thệ lớn trước Phật: "Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh nầy, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh, được như thế là toàn nhờ uy lực của Phât. Cúi xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ trì!".

THÂM NGHĨA



Là đệ tử Phật vấn đề Văn - Tư - Tu phải là một tiến trình liên tục không thể thiếu. Cái vạc ba chân, thiếu một không đứng vững. Văn - Tư - Tu thiếu một, sẽ không có quả giải thoát giác ngộ.

Nguyện trì Kinh Pháp Hoa đồng nghĩa với nguyện tu theo Kinh Pháp Hoa, chấp trọ hành trì theo giáo lý Pháp Hoa. Đó là ý nghĩa trì kinh ở mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, trì có nghĩa là xiển dương, là truyền bá, là biên chép, giảng nói cho nhiều người nhập Tri Kiến Phật. Chữ trì ở phẩm nầy gồm ý nghĩa cả hai mặt đó.

Từ các phẩm trước được khai thị về Tri kiến Phật. Đại chúng trong hội Pháp Hoa đã nhận thức rõ về "Chánh nhơn thành Phật" của mình: RằngTri kiến Phật hay là Phật tánh là cái mà tất cả chúng sanh bình đẳng có. Còn thành Phật hay sẽ thành Phật chỉ là vấn đề thời gian, cũng như sự phát triển sớm muộn của hoa sen trong cánh đồng sen vậy. Điều kiện đất, nước, thời tiết thuận lợi thì sen ở đây mọc sớm, trổ hoa sớm, hoa to và đẹp. Đất xấu, điều kiện trợ duyên kém thì hoa nở muộn...Dù muộn, nhưng tánh chất trong nhân có sẵn quả: quả ở chính trong nhân của tất cả hoa sen thì không có một mảy may sai khác.

Trì kinh là Duyên nhơn Phật tánh, là điều kiện kích phát sức nẩy nở làm cho hoa Tri kiến nở nhanh, cũng như đất nước, thời tiết cần cho sự nẩy nở hoa sen vậy.

Nhưng ai là người có khả năng trì kinh tốt nhất ? Có gì khó khăn trở ngại trong việc trì kinh ?

Có bốn hạng người có khả năng làm việc đó:

Hàng Đại Bồ tát (những người giàu đức tánh vô ngã vị tha)

Bậc A La Hớn (những người trừ sạch nhân hữu lậu trong ba cõi)

Hàng hữu học vô học (những bậc nhập lưu, đi theo chiều hướng giác ngộ giải thoát)

Hàng Tỳ kheo ni (những người quyết tâm tu giải thoát)

Trì kinh với nghĩa tiêu cực thì tất cả giống nhau, bốn hạng người có cùng ý chí ham tu hiếu học đối với Kinh Pháp Hoa.

Nhưng về mặt tích cực, phát nguyện trì kinh phải có điều kiện:

- Phải có nhiệt tình, vô ngã vị tha
- Phải có khả năng nghị lực
- Phải có trình độ kiến thức nội minh
- Phải có biện tài chinh phục v.v...

Bởi lẽ địa bàn hoạt động truyền bá Kinh Pháp Hoa không phải ở lãnh vực nào cũng thuận lợi, ở quốc độ nào cũng dễ dàng.

Ta hãy nghe về tinh thần bất khuất chuẩn bị chịu đựng sự khó khăn của những Bồ tát tự nguyện trì Kinh Pháp Hoa ở cõi Ta bà, qua bài kệ dưới đây:

Cúi mong Phật chớ lo
Sau Phật diệt độ rồi
Trong đời ác ghê sợ
Chúng con sẽ rộng nói
Dầu có người không trí
Dùng lời ác mắng rủa....
Cùng gậy dao đập chém
Chúng con đều sẽ nhẫn
Dầu Tỳ kheo đời ác
Trí tà dâm vạy méo
Chưa chứng, xưng đã chứng
Kiêu căng đầy trong lòng
Hoặc có hạng "A Nhã"
Y, nạp xem ra Phết
Tự cho hành nhân đạo
Xem nhẹ người thế gian
Vì lòng tham lợi dưỡng
Thuyết pháp cho bạch y
Với ý được cung kính
Như lục thông La Hớn
Lòng hạng ấy chứa ác
Thường nghĩ việc thế tục
Giả danh A luyện nhã
Bới sai lầm chúng con
Mà nói những lời nầy:
Các thầy Tỳ kheo ấy
Vì lòng tham lợi dưỡng
Luận giả theo ngoại đạo
Tự tạo kinh điển nầy
Láo dối người thế gian
Hoặc vì cầu danh tiếng
Mà phân biệt kinh này
Hoặc thường trong đại chúng
Muốn nói xấu chúng con
Hướng nhà vua, quan lớn
Bà La Môn nhà giàu
Cùng các Tỳ kheo khác
Mà phỉ báng chúng con
Bảo chúng con tà kiến
Luận giải theo ngoại đạo
Vì lòng kính tin Phật
Chúng con đều sẽ nhẫn
Dầu họ có khinh khi
Tự xưng là Phật sống
Trước lời kiêu ngạo ấy
Chúng con cũng sẽ nhẫn
Trong đời ác kiếp trược
Có nhiều sự sợ hãi
Các quỉ nhập thân người
Mắng rủa nhục chúng con,
Chúng con kính tin Phật,
Sẽ mang giáp nhẫn nhục
Để giảng nói kinh nầy,
Chúng con sẽ nhẫn mọi khó
Thân mạng không hề tiếc
Chỉ tiếc vô thượng đạo
Chúng con trong đời sau
Sẽ giữ gìn lời Phật
Thế Tôn sẽ tự biết
Tỳ kheo đời ác trược
Không biết Phật phương tiện
Tùy nghi mà thuyết pháp
Châu mày dùng miệng ác
Lúc lúc đuổi chúng con
Xa lìa nơi chùa tháp
Các việc ác như thế
Nhớ lời Phật dạy bảo
Chúng con sẽ nhẫn hết
Nơi thành ấp, tụ lạc
Nếu có người cầu pháp
Chúng con đều đến nơi
Nói pháp của Phật truyền
Chúng con là sứ Phật
Ở trong chúng không sợ
Vì thiện sẽ nói pháp
Xin Phật hãy an lòng
Nay đứng trước Thế Tôn
Cùng mười phương chư Phật
Chúng con có lời thệ này
Phật ắt tự rõ lòng con.

Sự khó khăn của Bồ tát trì kinh Pháp Hoa ở cõi Ta bà như thế đấy. Tìm hiểu nguyên nhân ta thấy:

1. Phát xuất từ hàng Tỳ kheo được mệnh danh là Tăng thượng mạn. Họ tự bảo thủ quả vị La Hớn cho là cứu cánh Niết bàn, không có ý mong cầu thành Phật. Từ mặc cảm tự ti nầy họ chống đối phỉ báng Kinh Pháp Hoa.

2. Xuất pháp từ lòng Tỳ kheo mưu cầu lợi dưỡng; hạng người nầy cố chấp tự tôn, cho rằng mình, chỉ có mình là người tu chơn đạo khả kính trên thế gian nầy. Còn tất cả người thế gian không có ai có thể đạt đến cái chơn đạo của họ tu chứng.

Trong khi nền giáo lý Pháp Hoa chủ trương khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật Tri kiến; tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành. Quả là một tạc đạn bắn ra sụp đổ hai tòa nhà bảo thủ tự ti và cố chấp tự tôn của hai hạng người tiêu nha bại chủng ấy. Do đó, họ công kích, phỉ báng những Bồ tát trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở cõi Ta bà. Vì thế, phát nguyện trì kinh ở cõi Ta bà chỉ có Bồ tát Đại Dược Vương, vua của y dược sĩ, có khả năng trị bệnh tà kiến tự tôn, tự ti của thế nhân. Và Bồ tát Đại Nhạo Thuyết, nhà biện tài vô ngại, có khả năng tồi tà phụ chánh, cầm đầu thì việc làm mới thành tựu tốt đẹp. Nói rõ ra là muốn xiển dương truyền bá kinh Pháp Hoa ở vào đời ngũ trược nầy phải là người có những đức tánh của một Bồ tát vô ngã, vị tha, cương nghị, quả cảm, thông minh, trong đó nội minh phải vững vàng, có biện tài, có khả năng thuyết phục, giải đáp được những chấp mắc sai lầm v.v...thì mới đủ điều kiện triển khai truyền bá Kinh Pháp Hoa; nếu không có những yếu tố cần thiết đó thì khó mà trì kinh ở cõi đời lắm người "tự ti", lắm người "tự tôn" vì mưu cầu hư danh huyễn lợi nầy.

Hàng Đại A La Hớn, những người hữu học vô học, các hàng Tỳ kheo ni, trước Phật có phát nguyện trì kinh; nhưng không ở trong hàng ngũ của Bồ tát Đại Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết thì xin đi nước khác mà trì, vì ở nước khác sẽ được an lành hơn, không có đối lập nguy hiểm như ở cõi Ta bà. Biện tài không giải đáp nổi nghĩa lý thậm thâm; trí lực và pháp lực không đủ khả năng trị liệu các bệnh tà kiến, biên kiến, kiến thủ của người đời thì nên đi "cõi khác" mà truyền bá kinh Pháp Hoa vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567