Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 531: Hội thứ ba Phẩm Diệu Tướng thứ 28-4

25/04/201312:11(Xem: 16587)
Quyển Thứ 531: Hội thứ ba Phẩm Diệu Tướng thứ 28-4

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22

Quyển Thứ 531: Hội thứ ba Phẩm Diệu Tướng thứ 28-4

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát đâu cũng năng được Nhất thiết tướng trí?

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Các Bồ tát Ma ha tát cũng có năng được Nhất thiết tướng trí .

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát cũng có năng được Nhất thiết tướng trí cùng các Như Lai có sai khác nào?

Phật bảo: Thiện Hiện! Cũng có sai khác. Tướng ấy thế nào? Là các Bồ tát Ma ha tát gọi là tuỳ được Nhất thiết tướng trí. Nếu các Như Lai gọi đã được Nhất thiết tướng trí. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải tâm các Bồ tát Ma ha tát cùng các như Lai định riêng khác được, nghĩa là chúng các Bồ tát Ma ha tát cùngcác Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng trụ tánh các pháp không sai khác, đối các pháp tướng cầu Chánh biến tri, nói gọi Bồ tát. Nếu đến rốt ráo tức gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối tất cả pháp tự tướng cộng tướng soi rõ không mờ, thanh tịnh đầy đủ, khi trụ nhân vị gọi là Bồ tát. Nếu đến quả vvị tức gọi Như Lai. Vậy nên, Bồ tát cùng các Như Lai tuy đồng gọi được Nhất thiết tướng trí mà có sai khác. Thiện Hiện! Đấy gọi các Bồ tát Ma ha tát thế gian pháp thí.

Các Bồ tát Ma ha tát nương nhờ thế gian pháp thí như thế lại được tu hành xuất thế pháp thí. Nghĩa là các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, phương tiện khéo léo trước thí thế gian thiện pháp hữu tình, sau khiến nhàm lìa thế gian thiện pháp, an trụ Thánh pháp xuất thế vô lậu, cho đến khiến được Nhất thiết trí trí. Vì sao gọi là Thánh pháp xuất thế? Vì các Bồ tát Ma ha tát vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ phân biệt rõ ràng, nói tên pháp thí.

Thiện Hiện phải biết: Tất cả thiện pháp chẳng chung dị sanh, nếu chánh tu học khiến các hữu tình vượt ra thế gian mà trụ yên ổn, nên gọi xuất thế. Nghĩa là ba mươi bảy phần pháp Bồ đề. Ba môn giải thoát, tám giải thoát, chín định thứ lớp. Bốn trí thánh đế. Trí Ba la mật đa, các không thảy. Mười bậc Bồ tát. Năm nhãn, sáu thần thông. Như Lai mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả. Bai mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo. Đà la ni môn, tam ma địa môn. Các thiện pháp vô lậu như thế thảy, tất cả đều gọi Thánh pháp xuất thê. Nếu Bồ tát Ma ha tát vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ phân biệt rõ ràng các pháp như thế gọi là Bồ tát xuất thế pháp thí.

Thiện Hiện! Trong đây vì sao gọi là ba mươi bảy thứ phần pháp Bồ đề? Nghĩa la bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Như vậy gọi là ba mươi bảy thứ phần pháp Bồ đề

Thiện Hiện! Vì sao gọi bốn niệm trụ? Là Bồ tát Ma ha tát đôi trong thân hoặc ngoài thân, hoặc trong ngoài thân, trụ quán khắp thân, chính siêng chính biết nhớ đầy đủ, bỏ tham tiếc đời, trụ quán thân nhóm, trụ quán thân diệt. Do kia đối thân trụ quán khắp thân, trụ quán thân nhóm, trụ quán thân diệt không chỗ nương dựa, đối các thế gian không sở chấp nhận, đấy gọi thứ nhất. Với thọ với tâm với pháp cũng vậy. Đấy gọi bốn niệm trụ.

Thiện Hiện! Vì sao gọi bốn chánh đoạn? Là Bồ tát Ma ha tát vì khiến pháp ác bất thiện chưa sanh hẳn chẳng sanh vậy. Vì khiến pháp ác bất thiện đã sanh dứt diệt hẳn vậy. Vì khiến pháp thiện chưa sanh sanh vậy. Vì khiến pháp thiện đã sanh vững trụ chẳng quên, tu mãn trí bội tăng rộng lớn tác chứng vậy, nên sanh khởi vui muốn phát siêng tinh tiến giục tâm giữ tâm, đấy gọi bốn chánh đoạn.

Thiện Hiện! Vì sao gọi bốn thần túc? Là Bồ tát Ma ha tát Dục tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc. Cần tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc. Tâm tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc. Quán tam ma địa dứt đi trọn nên tu tập thần túc. Đấy gọi bốn thần túc.

Thiện Hiện! Vì sao gọi là năm căn? Là Bồ tát Ma ha tát tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn, huệ căn, đấy gọi là năm căn.

Thiện Hiện! Vì sao gọi là năm lực? Là Bồ tát Ma ha tát tín lực, tinh tiến lực, niệm lực, định lực, huệ lực. Đấy gọi là năm lực.

Thiện Hiện! Vì sao gọi là bảy nhánh đẳng giác? Là Bồ tát Ma ha tát nhánh niệm đẳng giác, nhánh chọn pháp đẳng giác, nhánh tinh tiến đẳng giác, nhánh hỷ đẳng giác, nhánh nhẹ an đẳng giác, nhánh định đẳng giác, nhánh xả đẳng giác. Như vậy gọi là bảy đẳng giác chi.

Thiện Hiện! Vì sao gọi tám nhánh thánh đạo? là Bồ tát Ma ha tát chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định. Như vậy gọi là tám nhánh thánh đạo.

Thiện Hiện! Vì sao gọi ba môn giải thoát? Là Bồ tát Ma ha tát không , vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Như vậy gọi là ba môn giải thoát.

Thiện Hiện! Sao gọi không giải thoát môn? là Bồ tát Ma ha tát đem hành tướng không phi ngã nhiếp tâm chăm tới, đấy gọi không giải thoát môn.

Thiện Hiện! Sao gọi vô tướng giải thoát môn? là Bồ tát Ma ha tát đem hành tướng tịch diệt nhiếp tâm chăm tới, đấy gọi vô tướng giải thoát môn.

Thiện Hiện! Sao gọi vô nguyện giải thoát môn? là Bồ tát Ma ha tát đem hành tướng khổ vô thường nhiếp tâm chăm tới, đấy gọi vô nguyện giải thoát môn.

Thiện Hiện! Vì sao gọi tám giải thoát? Là Bồ tát Ma ha tát có sắc quán các sắc gọi giải thoát thứ nhất. Trong không tưởng sắc, quan các sắc ngoài gọi giải thoát thứ hai. Tịnh thắng giải, thân tác chứng gọi giải thoát thứ ba. Trụ đầy đủ định không vô biên xứ gọi giải thoát thứ tư.Trụ đầy đụ định thức vô biên xứ gọi giải thoát thứ năm. Trụ đầy đủ định vô sở hữu xứ gọi giải thoát thứ sáu Trụ đầy đủ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ gọi giải thoát thứ bảy. Trụ đầy đủ định diệt tưởng thọ gọi giải thoát thứ tám. Đấy gọi tám giải thoát.

Thiện Hiện! Sao gọi chính định thứ lớp? Là Bồ tát Ma ha tát lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, lìa sanh mừng vui vào sơ tĩnh lự trụ đầy đủ gọi định thứ lớp thứ nhất. Nói rộng cho đến vượt tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, vào định diệt tưởng thọ trụ đầy đủ gọi định thứ lớp thứ chín, đây gọi chín định thứ lớp.

Thiện Hiện! Vì sao gọi bốn trí thánh đế? Là Bồ tát Ma ha tát trí khổ, trí tập, trí diệt, trí đạo đấy gọi bốn trí thánh đế.

Thiện Hiện! Sao gọi Ba la mật đa? Là Bồ tát Ma ha tát sở hữu bố thí cho đến trí Ba la mật đa. Như vậy gọi là Ba la mật đa.

Thiện Hiện! Sao gọi trí các không thảy? Là Bồ tát Ma ha tát trí nội không cho đến vô tánh tự tánh không, và trí chơn như cho đến bất tư nghì giới. Như vậy gọi là trí các không thảy.

Thiện Hiện! Sao là mười bậc Bồ tát? Là Bồ tát Ma ha tát Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, như vậy gọi là mười bậc Bồ tát.

Thiện Hiện! Vì sao gọi là năm nhãn? Là Bồ tát Ma ha tát sở cầu nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn, đấy gọi năm nhãn.

Thiện Hiện! Vì sao gọi sáu thần thông? Là Bồ tát Ma ha tát sở học trí thần cảnh chứng thông, trí thiên nhĩ chứng thông, trí tha tâm chứng thông , trí túc trụ tùy niệm chứng thông, trí thiên nhãn chứng thông, trí lậu lận chứng thông, đấy gọi sáu thần thông.

Thiện Hiện! Sao gọi Như Lai mười lực? là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối thị xứ như thật biết thị xứ, đối phi xứ như thật biết phi xứ, gọi lực thứ nhất.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các nghiệp các hữu tình quá khứ, vị lai, hiện tại và các pháp chỗ thọ nhân dị thục đều như thật biết gọi lực thứ hai.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các thế gian chẳng một nhiều thứ các cõi sai khác đều như thật biết, gọi lực thứ ba.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình chẳng một các thứ thắng giải đều như thật biết, gọi lực thứ tư.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tinh các căn hơn kém đều như thật biết, gọi lực thứ năm.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối khắp thú hành đều như thật biết, gọi lực thứ sáu.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp đối tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm thanh tịnh gây dựng sai khác đều như thật biết, gọi lực thứ bảy.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình quá khứ vô lượng các việc túc trụ hoặc một đời, hoặc mười đời, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc vô lượng đời; hoặc một kiếp, hoặc mười kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp, có bao nhiêu các hành, các thuyết, các tướng đều như thật biết, gọi lực thứ tám.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng tịnh thiên nhãn vượt quá hơn người thấy các hữu tình khi tử khi sanh, các việc thiện ác, nói rộng cho đến đối các hữu tình theo nghiệp thế lực sanh thú thiện ác đều như thật biết, gọi lực thứ chín.

Hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các lậu tận vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát đều như thật biết; đối pháp tự lậu tận chơn giải thoát, tự chứng thông huệ mà trụ đầy đỉ, nói rộng cho đến chẳng thọ thân sau, gọi lực thứ mười. Như vậy gọi là Như Lai mười lực.

Thiện Hiện! Sao gọi bốn vô sở úy? Là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta là kẻ Chánh đẳng giác, nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ Phật đối pháp này chẳng phải Chánh đẳng giác. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy nạn kia không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ, tự xưng Ta cư ngôi tôn vị Đại tiên ở giữa đại chúng, chính Sư tử rống, quay xe đại phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian rốt ráo không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ nhất.

Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta đã hết hẳn các lậu. Nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ Phật đối đây lậu chưa được hết hẳn. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy nạn kia không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ. Tự xưng Ta cư ngôi tôn vị Đại tiên, ở giữa đại chúng, chính rống Sư tử, quay xe Đại phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian, rốt ráo không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ hai.

Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta vì chúng các đệ tử nói pháp năng chướng, nhiễm tất bị chướng, nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ có nhiễm pháp này chẳng năng bị chướng. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy nạn kia không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ, tự xưng Ta cư ngôi tôn vị Đại Tiên, ở giữa đại chúng, chính rống Sư tử, quay xe Đại phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian, rốt ráo không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ ba.

Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta vì chúng các đệ tử nói đạo năng xuất, các Thánh tu tập quyết định xuất ly, quyết định thông suốt, chính hết các khổ, làm ngằn mé khổ. Nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian y pháp lập nạn, hoặc khiến nghĩ nhớ có tu đạo đây chẳng chính xuất ly, chẳng chính thông suốt, chẳng hết các khổ, chẳng làm mé khổ. Ta đối nạn kia chính thấy không lý do. Vì chính thấy nạn kia không lý do, được trụ yên ổn không e không sợ, tự xưng Ta cư ngôi tôn vị Đại Tiên, ở giữa đại chúng, chính rống Sư tử, quay xe Đại phạm, tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc thiên ma phạm, hoặc các thế gian, rốt ráo không ai năng quay đúng pháp được. Đấy gọi thứ tư. Như vậy gọi là bốn vô sở úy.

Thiện Hiện! Sao gọi bốn hiểu không ngại? Là hiểu nghĩa không ngại, hiêu pháp không ngại, hiểu lời không ngại, hiểu biện không ngại. Như vậy gọi là bốn hiểu không ngại. Vì sao gọi hiểu nghĩa không ngại? Là trí duyên nghĩa không ngại. Vì sao gọi là hiểu pháp không ngại? Là trí duyên pháp không ngại. Vì sao gọi là hiểu lời không ngại? Là trí duyên lời không ngại. Vì sao gọi là hiểu biện không ngại? Là trí duyên biện nói không ngại.

Thiện Hiện! Vì sao gọi là mười tám pháp Phật bất cộng? Là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường không lỗi lầm, không tiếng vội bạo, không quên mất nhớ, tâm không khẳng định, không các thứ tưởng, không chẳng chọn bỏ, chí muốn không lui, tinh tiến không lui, nhớ nghĩ không lui, Bát nhã không lui, giải thoát không lui, giải thoát trí kiến không lui, tất cả thân nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí mà chuyển. Tất cả ngữ nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí mà chuyển. Tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo theo trí mà chuyển. Hoặc trí hoặc kiến đối đời quá khứ không mắc không ngại, hoặc trí hoặc kiến đối đời vị lai không mắc không ngại, hoặc trí hoặc kiến đối đời hiện tại không mắc không ngại. Đấy gọi là mười tám pháp Phật bất cộng.

Thiện Hiện! Sao gọi ba mươi hai tướng? Là dưới chân chư Phật có tướng bình mãn diệu khéo an trụ in như đáy hộp. Đất tuy cao thấp, tùy chỗ chân đạp thảy đều bằng phẳng, không chẳng xúc đến, đấy là thứ nhất.

Dưới chân chư Phật ngàn vẻ quần tròn, các tướng bánh xe không chẳng tròn đầy, đấy là thứ hai.

Tay chân chư Phật thảy đều mềm mại như múi bông vải hơn hết tất cả, đấy là thứ ba

Tay chân chư Phật, ngón đều thỏn dài, tròn diệu hơn người, tiêu biểu trường thọ, đấy là thứ tư.

Tây chân chư Phật giữa kẽ mỗi ngón như chim nhạn chúa, đều có màng lưới, lẫn lộn sắc vàng, vẽ đồng bức thêu vẽ, đấy là thứ năm

Gót chân chư Phật rộng dài tròn đầy, cùng mu tương xứng, hơn các hữu tình, đấy là thứ sáu.

Mu chân chư Phật dài cao đầy đặn, mềm mại, khéo đẹp, cùng gót tương xứng, đấy là thứ bảy.

Đôi vế chư Phật lần lữa thỏn tròn như đùi nai chúa y- nê-đa-tiên, đấy là thứ tám.

Hai cánh tay chư Phật dài thẳng tròn trặn, như vòi tượng chúa, đứng thẳng rờ đầu gối đấy là thứ chín.

Âm tượng chư Phật thế bướu giấu kín, giống như long mã, cũng như tượng chúa, đấy là thứ mười.

Lỗ lông chư Phật đều sanh một sợi, mềm nhuận xanh biếc, xoay quanh bên hữu, là thứ mười một.

Tóc lông chư Phật thẳng đều mọc lên, xoay quanh bên hữu, mềm nhuận xanh biếc, sắc vàng nghiêm thân, rất nên ưa thích, là thứ mười hai.

Da thân chư Phật nhỏ mỏng nhuận trơn, bụi đất nước thảy đều chẳng dính được, là thứ mười ba.

Da thân chư Phật đều sắc chơn kim, lóng lánh sáng sạch như đài diệu kim các báu trang nghiêm, chúng thấy ưa muốn, là thứ mười bốn.

Chư Phật trong lòng hai chân, hai tay, ót và hai vai bảy chỗ đầy đặn, sáng sạch mềm mại, rất nên ưa thích, là thứ mười lăm.

Vai cổ chư Phật đầy đặn đẹp lạ, là thứ mười sáu.

Hông nách chư Phật thảy đều đầy chắc, là thứ mười bảy.

Dung nghi chư Phật ngay thẳng khôi ngô, là thứ mười tám.

Thân tướng chư Phật cao rộng đoan nghiêm là thứ mười chín.

Thể tướng chư Phật cao ngang lượng bẳng, chung quanh tròn trặn, như cây nặc-cù-đà, là thứ hai mươi.

Cằm ngực và nửa thân trên chư Phật oai dung rộng lớn như sư tử chúa, là hai mươi mốt.

Thường quang chư Phật mỗi mặt một tầm, là hai mươi hai.

Tướng răng chư Phật bốn mươi chiếc ngang bằng, sạch, khít, chân sâu, trắng hơn ngọc kha tuyết, là hai mươi ba.

Bốn nha răng chư Phật trắng đẹpnhọn bén, là hai mươi bốn.

Chư Phật thường được thượng vị trong vị vì mặc yết hầu thẳng, nên năng dẫn ngàn mạch chi nhánh trong thân, sở hữu thành thượng vị, là hai mươi lăm.

Tướng lưỡi chư Phật mỏng sạch rộng dài, năng che cả mặt đến mé tóc bên tai, là hai mươi sáu.

Phạm âm chư Phật từ vận dẫn ra thanh nhã, tùy chúng nhiều ít không chẳng đều nghe. Tiếng tăm vang rền như tiếng trống trời, phát lời đẹp thanh như tiếng chim tần-già, là hai mươi bảy.

Mày mắt chư Phật giống như trâu chúa, xanh biếc ngang bằng, chẳng tạp loạn nhau, là hai mươi tám.

Tròng mắt chư Phật xanh biếc trắng bạch hồng hoàn xen lẫn, sáng sạch phân minh, là hai mươi chín.

Diện luân chư Phật đầy như trăng rằm, tướng mày như cung bắn Thiên Đế, là thứ ba mươi

Giữa chặng mày chư Phật có tướng lông trắng, mềm mại xoay hữu như múi bông vải, trắng đẹp sáng hơn ngọc kha tuyết, là ba mươi mốt.

Ô-sắc-nị-sa trên đỉnh chư Phật cao rõ tròn trăn như ngù lọng trời, là ba mươi hai. Đấy gọi ba mươi hai tướng của chư Phật.

Thiện Hiện! Sao gọi tám mươi tùy hảo? Nghĩa là móng tay chư Phật hẹp dài mỏng nhuận sáng láng sạch sẽ như hoa đồng, đấy là thứ nhất.

Chân tay chư Phật ngón tròn thỏn dài ngay thẳng mềm mại, đốt xương chẳng hiện, đấy là thứ hai.

Chân tay chư Phật ngang bằng không so le, ở giữa thảy đều đầy kín, đấy là thứ ba.

Chân tay chư Phật viên mãn như ý, mềm sạch sáng láng, sắc như hoa sen, đấy là thứ tư.

Mạch gân chư Phật chằng chịt bền vững, ẩn sâu chẳng hiện, đấy là thứ năm.

Hai mắt các chân chư Phật đều ẩn chẳng hiện, đấy là thứ sáu.

Chư Phật bước đi thẳng tới thong thả như long tượng chúa, đấy là thứ bảy.

Chư Phật bước đi oai dung ngay thẳng nghiêm nghị như sư tử chúa, đấy là thứ tám.

Chư Phật bước đi vững bằng thong thả chẳng quá chẳng giảm, giống như trâu chúa, đấy là thứ chín.

Chư Phật bước tiến dừng dung nghi nhàn nhã như chim nhạn chúa, đấy là thứ mười.

Chư Phật xem lui tất xoay bên hữu, cả thân chuyển theo, như rồng voi chúa, là thứ mười một.

Đốt lóng chư Phật tròn thẳng thứ lớp sắp đặt khéo đẹp, là thứ mười hai.

Lóng xương chư Phật liên kết không hở giống như rồng bàng, là thứ mười ba.

Đầu gối chư Phật sắp đặt khéo đẹp vững vàng tròn đầy, là thứ mười bốn.

Chỗ kín chư Phật văn vẻ khéo đẹp, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh tịnh, là thứ mười lăm.

Bửu thân chư Phật nhuận trơn sáng đẹp sạch sẽ, bụi đất chẳng dính, là thứ mười sáu.

Thân dung chư Phật uy nghiêm không sợ thường chẳng khiếp nhược, là thứ mười bảy.

Nhánh thân chư Phật bền chắc dày kín, khéo dính thuộc nhau, là thứ mười tám.

Nhánh thân chư Phật yên định dày nặng, thường chẳng lay động, viên mãn không hoại, là thứ mười chín.

Thân tướng chư Phật vững như núi chúa, chung quanh đoan nghiêm, sáng sạch lìa các bụi mù, là thứ hai mươi.

Thân chư Phật có viên quang chung quanh, với khi đi thảy hằng tự soi sáng, là hai mươi mốt.

Hình bụng chư Phật vuông chính không thiếu, mềm mại chẳng hiện, các tướng trang nghiêm, là hai mươi hai.

Chư Phật rốn sâu, khéo xoay tròn bên hữu, thanh tịnh sáng láng, là hai mươi ba.

Rốn chư Phật dày chẳng lõm chẳng lồi, chung quanh khéo đẹp, là hai mươi bốn.

Da thức chư Phật xa lìa ghẻ lở, cũng không điểm đen bướu thừa các lỗi, là hai mươi lăm.

Lòng tay chư Phật đầu đặn mềm mại, dưới chân yên bằng, là hai mươi sáu.

Chỉ tay chư Phật sâu dài rõ thẳng, nhuận trơn không đứt đoạn là hai mươi bảy.

Sắc môi chư Phật sáng nhuận đỏ hồng đơn, như quả tần bà, trên dưới tương xứng, là hai mươi tám.

Diện môn chư Phật chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, đoan nghiêm đúng lượng, là hai mươi chín.

Tướng lưỡi chư Phật mềm mỏng rộng dài, sắc như đồng đỏ, là thứ ba mươi.

Chư Phật phát tiếng oai chấn sâu xa, như voi chúa rống, rạng rỡ thanh thấu, là ba mươi mốt.

Âm vận chư Phật hay ho đầy đủ, như tiếng vang hang sâu, là ba mươi hai.

Chư Phật mũi cao dài mà ngay thẳng, nơi lỗ mũi chẳng hiện, là ba mươi ba.

Các chiếc răng chư Phật vuông chính trắng đẹp, là ba mươi bốn.

Các chiếc răng nha tròn trắng sạch thỏn dần nhọn bén, là ba mươi lăm

Mắt chư Phật trong, xanh trắng phân minh, là ba mươi sáu.

Nhãn tướng chư Phật dài rộng, giống như tép hoa sen xanh, rất nên ưa thích, là ba mươi bảy.

Mí mắt chư Phật trên dưới ngay thẳng, lông dày dăn chẳng trắng, là ba mươi tám.

Đôi mày chư Phật dài mà chẳng trắng, rậm mà nhỏ mềm, là ba mươi chín.

Đôi mày chư Phật dệt mướt thuận thứ lớp, xanh sắc lưu ly, là thứ bốn mươi.

Đôi mày chư Phậ cao rõ sáng nhuận, hình như trăng đầu tháng, là bốn mươi mốt.

Tai chư Phật dày rộng lớn dài, trái thòng xuống trọn vẹn, là bốn mươi hai.

Hai tai chư Phật xinh đẹp ngang bằng, lìa các lỗi quấy, là bốn mươi ba.

Dung nghi chư Phật hau khiến kẻ thấy không tổn không nhiễm, đều sanh mến kính, là bốn mươi bốn.

Trán chư Phật rộng, viên mãn bằng thẳng, hình tướng đẹp lạ, là bốn mươi lăm.

Thân phần chư Phật nửa trên viên mãn như sư tử chúa, oai nghiêm tuyệt đối, là bốn mươi sáu.

Tóc đầu chư Phật dài thượt xanh biếc, dày khít chẳng bạc, là bốn mươi bảy.

Tóc đầu chư Phật thơm, sạch, nhỏ mịn nhuận láng xoay quanh, là bốn mươi tám.

Tóc đầu chư Phật bằng thẳng không rối, cũng không dính đùm, là bốn mươi chín.

Tóc đầu chư Phật chắc chắn chẳng đứt, hẳn không rơi rụng, là thứ năm mươi

Tóc đầu chư Phật sáng trơn đẹp lạ, bụi đất chẳng dính, là năm mươi mốt

Thân phần chư Phật vững vàng đầy chắc hơn na-la-diên kiên cố, là năm mươi hai

Thân thể chư Phật cao lớn ngay thẳng, là năm mươi ba.

Các lỗ chư Phật thanh tịnh tròn đẹp, là năm mươi bốn.

Nhánh thân chư Phật thế lực thù thắng, không ai sáng ngang, là năm mươi lăm.

Thân tướng chư Phật được chúng ưa xem, thường không chán đủ, là năm mươi sáu.

Diện luân chư Phật dài rộng đúng chỗ, trong trẻo sáng sạch, như thu trăng rằm, là năm mươi bảy.

Nhan mạo chư Phật thư thái sáng láng, trước nói ngậm cười, có thuận không trái, là năm mươi tám.

Diện mạo chư Phật sáng láng vui vẻ, xa lìa các lỗi nhăn nho, xanh đỏ, là năm mươi chín.

Nhánh thân chư Phật thanh tịnh không bản, thường không hôi hám, là thứ sáu mươi.

Trong bao nhiêu các lỗ lông chư Phật thường bay hương thơm như ý vi diệu là sáu mươi mốt.

Diện môn chư Phật thường bay hương thơm tối thượng thù thắng, là sáu mươi hai.

Tướng đầu chư Phật tròn trặn khéo đẹp, như quả mạt đạt na, cũng như lọng trời, là sáu mươi ba.

Lông thân chư Phật xanh ửng sáng sạch như cổ chim công, đỏ hồng dệt đẹp, sắc giống đồng đỏ, là sáu mươi bốn.

Pháp âm chư Phật tùy chúng nhiều ít chẳng thêm chẳng bớt hợp lý không sai, là sáu mươi lăm.

Đỉnh tướng chư Phật không ai thấy được, là sáu mươi sáu.

Tay chân chư Phật màng lưới kẽ ngón rõ ràng trang nghiêm khéo đẹp, sắc như đồng đỏ, là sáu mươi bảy.

Chư Phật khi đi, chân cách đất lượng chừng bốn ngón mà hiện in dấu chân, là sáu mươi tám.

Chư Phật tự trì chẳng nhờ người đỡ, thân không nghiêng động, cũng chẳng lượn xiên, là sáu mươi chín.

Uy đức chư Phật xa động tất cả, kẻ ác tâm thấy mừng, kẻ sợ hãi thấy yên, là thứ bảy mươi.

Âm thanh chư Phật chẳng cao chẳng thấp, theo ý chúng sanh hòa vui cho lời, là bảy mươi mốt.

Chư Phật năng tùy các loại hữu tình lời tiếng ý vui mà vì thuyết pháp, là bảy mươi hai.

Chư Phật một thứ tiếng diễn nói chánh pháp tùy loại hữu tình mỗi khiến được hiểu, là bảy mươi ba.

Chư Phật thuyết pháp đều nương thứ lớp, tất có nhân duyên, lời không chẳng khéo, là bảy mươi bốn.

Chư Phật bình đẳng xem các loại hữu tình khen thiện chê ác mà không ưa ghét, là bảy mươi lăm.

Chư Phật sở vi trước xem sau làm, khuôn phép đầy đủ, khiến biết tịnh thiện, là bảy mươi sáu.

Tướng đẹp chư Phật tất cả hữu tình không ai xem hết, là bảy mươi bảy.

Xương đỉnh chư Phật cứng cỏi tròn đầy, là bảy mươi tám.

Nhan dung chư Phật thường trẻ chẳng già, ưa dạo chỗ cũ là bảy mươi chín.

Tay chân và trước ngục chư Phật đều có tướng đức các tường đẹp đẽ xoay quanh, vẻ giống bức thêu vẽ, sắc như châu đơn, là thứ tám mươi. Đấy gọi tám mươi tùy hảo chư Phật.

Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trọn nên các tướng đẹp nư thế, nên thân quang mặc nhiên năng soi Tam thiên đại thiên thế giới không chẳng khắp đầy. Nếu khi tác ý tức hay soi khắp vô lượng vô biên thế giới. Nhưng vì thương xót các hữu tình nên nhiếp quang thường soi mỗi mặt một tầm. Nếu tung thân quang tức những quang minh nhật nguyệt thảy đều thường chẳng hiện, các loại hữu tình chẳng thể biết được ngày đêm nửa tháng ngày giờ số năm ra làm sự nghiệp, có chẳng được thành tựu. Tiếng tăm Phật mặc nhiên năng khắp Tam thiên đại thiên thế giới, nếu khi tác ý tức hay khắp đầy vô lượng vô biên vô số thế giới. Nhưng vì nhiêu ích các hữu tình nên tiếng tùy lượng chúng không tăng không giảm.

Thiện Hiện! Công đức thắng lợi như thế, đời trước khi Ta ở ngôi Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đã được thành xong, nên nay tướng hảo viên mãn trang nghiêm tất cả hữu tình kẻ thấy vui mừng đều được các thứ nhiêu ích rộng lớn.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng đem hai thứ bố thí của và pháp, thu nhiếp các hữu tình. Đấy là pháp hiếm có rất lạ.

Thiện Hiện! Sao là các Bồ tát Ma ha tát dùng việc ái ngữ nhiếp các hữu tình? Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đem tiếng dịu dàng vì các hữu tình trước nói bố thí Ba la mật đa, kế nói tịnh giới Ba la mật đa, như vậy cho đến sau nói Bát nhã Ba la mật đa phương tiện nhiếp thọ.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát đem tướng dịu dàng nói nhiều sáu thứ Ba la mật đa nhiếp các hữu tình. Sở dĩ vì sao? Vì sáu thứ Ba la mật đa đây năng khắp nhiếp thọ tất cả pháp lành.

Thiện Hiện! Sao là các Bồ tát Ma ha tát dùng việc lợi hành nhiếp các hữu tình? Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm ở trong đêm dài thứ thứ phương tiện khuyên các hữu tình siêng tu bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa và những bao pháp lành vi diệu khác thường không chán mỏi.

Thiện Hiện! Sao là các Bồ tát Ma ha tát dùng việc đồng sự nhiếp các hữu tình? Nghĩa là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đem thắng thần thông và sức đại nguyện hiện ở trong địa ngục bàng sanh, cõi quỷ, người, trời thảy đồng sự nghiệp kia, phương tiện nhiếp thọ khiến được nhiêu íc.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát năng dùng bốn thứ nhiếp sự như thế phương tiện khéo léo nhiếp các hữu tình khiến được lợi ích an vui thù thắng. Đấy là pháp hiếm có rất lạ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ta đem Phật nhãn xem khắp mười phương thế giới chư Phật Căng già sa thảy, có Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm dạy răn dạy trao các Bồ tát Ma ha tát khác rằng: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên khéo học dẫn phát các chữ môn đà la ni. Nghĩa là nên khéo học một chữ hai chữ cho đến khéo học bốn mươi hai chữ, dẫn phát tự tại. Lại nên khéo học tất cả ngữ ngôn đều vào một chữ, hoặc vào hai chữ, cho đến hoặc vào bốn mươi hai chữ, dẫn phát tự tại. Lại nên khéo học một chữ năng nhiếp bốn mưoi hai chữ, bốn mươi hai chữ năng nhiếp một chữ, dẫn phát tự tại.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đều nên khéo học bốn mươi hai chữ vào nơi một chữ, một chữ cũng vào bốn mươi hai chữ. Học như thế rồi, đối môn các chữ dẫn phát khéo léo. Đối dẫn phát chữ được khéo léo rồi, lại đối không chữ dẫn phát khéo léo, như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối pháp khéo léo, đối chữ khéo léo. Vì đối các pháp các chữ khéo léo, đối trong không chữ cũng được khéo léo. Do khéo léo nên năng vì hữu tình vì pháp có chữ thuyết pháp không chữ, vì pháp không chữ thuyết pháp có chữ. Sở dĩ vì sao? Vì lìa chữ không chư không riêng có Phật pháp. Nhưng vượt khỏi các chữ gọi chơn Phật pháp. Vì cớ sao? Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều rốt ráo không, vô ngằn không vậy.

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp và các hữu tình đều rốt ráo không, vô ngằn không nên vượt các chữ ấy, thời tất cả pháp và các hữu tình tự tánh rốt ráo đều bất khả đắc, chúng Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành bát nhã cho đến bố thí Ba la mật đa? Hoặc tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tu hành ba mươi bảy phần pháp Bồ đề. Hoặc tu hành không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa. Hoặc an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Hoặc an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Hoặc tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tu hành đà la ni môn, tam ma địa môn. Hoặc tu hành năm nhãn sáu thần thông. Hoặc tu hành Như lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Hoặc tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Hoặc tu hành ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo? Bồ tát Ma ha tát làm sao trụ dị thục sanh sáu đến bờ kia và các thần thông, vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp?

Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình cũng bất khả đắc, thi thiết hữu tình cũng bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc, nên sắc cho đến ý thức cũng bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ cũng bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới cũng bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới cũng bất khả đắc.Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng bất khả đắc.Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới cũng bất khả đắc.Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Các pháp theo duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử cũng bất khả đắc. Sáu Ba la mật đa cho đến tám mươi tùy hảo cũng bất khả đắc.

Như vậy, Bạch Thế Tôn! Trong bất khả đắc không có các hữu tình và thi thiết kia, cũng không có các sắc thọ tưởng hành thức và thi thiết kia. Cho đến cũng không có tám mươi tùy hảo và thi thiết kia. Tất cả pháp hữu tình và thi thiết đã bất khả đắc, đều vô sở hữu, Bồ tát Ma ha tát làm sao khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì các hữu tình tuyên nói các pháp? Hầu như không có chúng Bồ tát Ma ha tát tự an trụ pháp bất chánh, vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình trụ pháp bất chánh, đem pháp điên đảo an lập hữu tình. Sở dĩ vì sao? Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hãy chẳng đắc Bồ đề huống đắc phần pháp Bồ đề. Hãy chẳng đắc Bồ tát huống đắc pháp Bồ tát. Đã vậy làm sao tu đạo Bồ đề vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp.

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Tất cả hữu tình thi thiết hữu tình và tất cả pháp cùng thi thiết kia đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên đều vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên phải biết nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng không. Phải biết chơn như cho đến bất tư nghì giới cũng không. Phải biết khổ thánh đế cho đến đạo thánh đế cũng không.

Phải biết sắc uẩn không cho đến thức uẩn cũng không. Phải biết nhãn xứ không cho đến ý xứ cũng không. Phải biết sắc xứ không cho đến pháp xứ cũng không. Phải biết nhãn giới không cho đến ý giới cũng không. Phải biết sắc giới không cho đến pháp giới cũng không. Phải biết nhãn thức giới không cho đến ý thức giới cũng không. Phải biết nhãn xúc không cho đến ý xúc cũng không. Phải biết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng không.

Phải biết địa giới không cho đến thức giới cũng không. Phải biết nhân duyên không cho đến tăng thượng duyên cũng không. Phải biết các pháp theo duyên sanh ra không chẳng đều không. Phải biết vô minh không cho đến lão tử cũng không. Phải biết ngã không cho đến kiến giả cũng không. Phải biết bố thí Ba la mật đa không cho đến Bát nhã Ba la mật đa cũng không. Phải biết bốn tĩnh lực không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng không. Phải biết bốn niệm trụ không cho đến tám thánh đạo chi cũng không. Phải biết không giải thoát môn không; vô tướng vô nguyện giải thoát môn cũng không. Phải biết tám giải thoát không cho đến mười biến xứ cũng không.

Phải biết Tịnh quan địa không cho đến Như Lai địa cũng không. Phải biết Cự hỷ địa không cho đến Pháp vân địa cũng không. Phải biết đà la ni môn không, tam ma địa môn cũng không. Phải biết năm nhãn không, sáu thần thông cũng không. Phải biết Như Lai mười lực không, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không. Phải biết đại từ không, đai bi, đại hỷ, đại xả cũng không. Phải biết ba mươi hai tướng không, tám mươi tùy hảo cũng không. Phải biết vô vong thất pháp không, tánh hằng trụ xả cũng không.

Phải biết nhất thiết trí không; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng không. Phải biết quả Dư lưu không, cho đến Độc giác Bồ đề cũng không. Phải biết tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát không, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng không. Phải biết nghiêm tịnh cõi Phật không, thành thục hữu tình cũng không.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thấy tất cả pháp không pháp nào chẳng không rồi, vì các hữu tình tuyên nói các pháp khiến lìa điên đảo. Mặc dù vì hữu tình tuyên nói các pháp mà đối hữu tình và tất cả pháp đều vô sở đắc, đối các không tướng chẳng thêm chẳng bớt, không lấy không bỏ. Do nhân duyên đây tuy nói các pháp mà không chỗ nói.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp khi quán như thế được trí vô chướng. Do được trí đây nên chẳng hoại các pháp, không hai phân biệt, vì các hữu tình như thật tuyên nói khiến lìa vọng tưởng điên đảo chấp trước, tùy kia sở ưng tới quả Tam thừa. Như có Như Lai hóa làm một Phật. Phật này lại năng hóa làm vô lượng trăm ức hữu tình. Khi hóa Phật kia dạy chúng đã hóa ra, hoặc khiến tu hành bố thí, tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa, nói rộng cho đến khiến tu hành nhất thiết tướng trí , hoặc khiến an trụ quả Dư lưu cho đến Độc giác Bồ đề, hoặc khiến an trụ tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, hoặc khiến an trụ chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nơi ý hiểu sao? Khi ấy hoá Phật và chúng hóa ra vả đối các pháp có chỗ phân biệt, có phá hoại chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Các sở biến hoá đối tất cả pháp không phân biệt vậy.

Phật bảo: Thiện Hiện! Do nhân duyên đây phải biết chúng Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì các hữu tình như ưng nói pháp, mặc dù chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng mà năng như thật an lập hữu tình, khiến kia an trụ chỗ bậc nên trụ. Mặc dù đối hữu tình và tất cả pháp đều vô sở đắc, mà khiến hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo chấp trước, vì không buộc không mở làm phương tiện vậy. Sở dĩ vì sao? Sắc cho đến thức bản tánh không buộc không mở. Nếu pháp bản tánh không buộc không mở, pháp ấy chẳng sắc cho đến chẳng thức. Vì cớ sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo tịnh vậy. Nói rộng cho đến các pháp hữu vi và pháp vô vi bản tánh không buộc không mở. Nếu pháp bản tánh không buộc không mở, pháp ấy chẳng hữu vi chẳng vô vi. Vì cớ sao? Vì hữu vi vô vi rốt ráo tịnh vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tuy vì hữu tình tuyên nói các pháp mà đối hữu tình và tánh các pháp đều vô sở đắc. Sở dĩ vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, trụ trong tất cả pháp vô sở đắc. Nghĩa là đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ sắc uẩn không; đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ thọ tưởng hành thức uẩn không. Nói rộng cho đến đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ pháp hữu vi không; đem vô sở trụ mà làm phương tiện trụ pháp vô vi không.

Thiện Hiện phải biết: Sắc uẩn vô sở trụ, thọ tưởng hành thức uẩn cũng vô sở trụ. Sắc uẩn không vô sở trụ, thọ tưởng hành thức uẩn không cũng vô sở trụ. Nói rộng cho đến pháp hữu vi vô sở trụ, pháp vô vi cũng vô sở trụ. Pháp hữu vi không vô sở trụ, pháp vô vi không cũng vô sở trụ. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp như thế và các pháp không đều vô tự tánh đều bất khả đắc. Chẳng phải pháp vô tự tánh bất khả đắc mà có sở trụ.

Thiện Hiện phải biết: Chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp vô tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh, chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp hữu tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp vô tánh. Chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tha tánh chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tha tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự tánh. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp đều bất khả đắc. Pháp bất khả đắc làm sao trụ được? Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm dùng các không đây tu khiển các pháp, cũng năng như thật nói chỉ cho hữu tình.

Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế đối Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, các chúng Hiền thánh đều không tội lỗi. Sở dĩ vì sao? Vì chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn đối pháp tánh đây đều năng tùy giác. Đã tùy giác rồi, vì các hữu tình tuyên nói không trái. Mặc dù hữu tình tuyên nói các pháp mà đối pháp tánh không chuyển không vượt. Sở dĩ vì sao? Thật tánh các pháp tức là pháp giới chơn như thật tế. Pháp giới chơn như thật tế như thế đều chẳng thể chuyển, cũng chẳng thể vượt. Vì cớ sao? Vì pháp giới chơn như thật tế như thế đều vô tự tánh, đều bất khả đắc. Vì chẳng phải bất khả đắc có chuyển vượt vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu chơn pháp giới chơn như thật tế không chuyển vượt ấy, sắc uẩn cho đến hữu vi vô vi cùng chơn pháp giới chơn như thật tế hãy có khác chăng?

Phật nói: Chẳng khác. Sắc uẩn cho đến hữu vi vô vi chẳng khác pháp giới chơn như thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:Nếu sắc cho đến hữu vi vô vi chẳng khác pháp giới chơn như thật tế, vì sao Thế Tôn thi thiết nghiệp đen cảm dị thục đen, chỗ gọi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Thi thiết nghiệp đen trắng cảm dị thục đen trắng chỗ gọi một phần bàng sanh, quỷ giới và một phần người. Thi thiết nghiệp chẳng đen chẳng trắng cảm dị thục chẳng đen chẳng trắng, chỗ gọi quả Dự lưu cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện! Ta nương thế tục thi thiết nhân quả sai khác như thế, chẳng nương thắng nghĩa. Vì Thắng nghĩa đế chẳng thể nói có nhân quả sai khác. Sở dĩ vì sao? Trong Thắng nghĩa đế các pháp tánh tướng chẳng thể phân biệt không nói không chỉ, làm sao có được nhân quả sai khác.

Thiện Hiện phải biết: Trong Thắng nghĩa đế sắc uẩn cho đến hữu vi vô vi không sanh không diệt không nhiễm không tịnh, vì rốt ráo không, vô ngằn không vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567