Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Phong Trào Phật Giáo Sài Gòn Năm 1963

23/04/201318:06(Xem: 12009)
Về Phong Trào Phật Giáo Sài Gòn Năm 1963
300 Năm Phật Giáo Gia Định, Sàigòn


Về Phong Trào Phật Giáo Sài Gòn Năm 1963

PTS Lê Cung
Nguồn: PTS Lê Cung


Trong lịch sử phát triển gần 2000 năm của Phật giáo (PG) Việt Nam, phong trào PG miền Nam năm 1963 có một dấu ấn hết sức quan trọng. Đối với đất nước, phong trào này “đã ghi đậm nét trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân miền Nam” (25, 64). Có thể nói rằng, từ sau thời đại Lý - Trần đến nay, trong nhiệm vụ phục vụ dân tộc và đạo pháp của PG Việt Nam, chưa có sự kiện nào có qui mô và tiếng vang rộng lớn như phong trào PG miền Nam năm 1963. Tuy nhiên, phải khách quan mà thừa nhận rằng, trong suốt 35 năm qua, cả giới sử học Việt Nam và phía PG vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào ngang tầm với phong trào này. Trong ý hướng tiến đến việc nghiên cứu phong trào PG miền Nam năm 1963 một cách có hệ thống và toàn diện, bài viết này xin được góp phần tìm hiểu phong trào PG Sài Gòn năm 1963.

* * *


Ngày 6-5-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm (NĐD) ra lệnh cấm treo cờ PG thế giới trong dịp lễ Phật Đản 2507-1963 bằng Công điện số 9159. Tiếp theo, chính quyền NĐD gây ra vụ thảm sát tại Đài Phát thanh Huế đêm 8-5-1963 làm 8 Phật tử thiệt mạng và nhiều người khác bị thương. Tin “tình trạng bi đát” ở Huế lan nhanh vào Sài Gòn khiến cho phong trào PG ở đây phát khởi. Mở đầu, ngày 9-5-1963, dưới hình thức của một “lá tâm thư” gởi toàn thể Tăng tín đồ, giới lãnh đạo PG Sài Gòn đã vạch trần những tội ác của chính quyền NĐD trong suốt gần 9 năm thống trị, rằng “Phật tử chúng ta (cả xuất gia và tại gia) có nơi bị chôn sống, bị vu khống, bị tù đày, bị thiên cư, bị nhục mạ, ngày nay lại thêm một cái tát đau đớn nữa là lá cờ PG quốc tế - linh hồn của PG - bị hủy bỏ ngay ngày kỷ niệm đấng Giáo chủ của chúng ta, đến nỗi cuộc hy sinh vì đạo đã phải diễn ra tại Huế”, đồng thời kêu gọi “toàn thể Phật giáo đồ, không phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại kiều, hễ ai còn nhiệt tâm vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn người như một, sẵn sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo” (16).

Ngày 10-5-1963, trong cuộc mít-tinh của Tăng Ni, Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, giới lãnh đạo PG miền Nam đã đưa ra Tuyên ngôn gồm 5 nguyện vọng tối thiểu (*), khẳng định mục tiêu và quyết tâm tranh đấu của mình: “Chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho đến lúc nào những nguyện vọng hợp lý trên đây được thực hiện” (1).

Trong khí thế phong trào ở Huế đang lên mạnh, ngày 14-5-1963, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ra tuyên bố vạch rõ: “Cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền phát-xít Mỹ-Diệm đối với đồng bào biểu tình tay không ngày 8-5 ở Huế là một hành động tội ác tày trời không thể tha thứ được đối với nhân dân ta nói chung và đối với đồng bào theo đạo Phật nói riêng... Cuộc đàn áp đẫm máu lần này đã bóc trần lời của Mỹ-Diệm vẫn thường vỗ ngực xưng là hữu thần, là tôn trọng tự do tín ngưỡng, và nhất định nó sẽ càng nung nấu thêm lòng căm thù và chí kiên quyết tiêu diệt chúng của tín đồ các tôn giáo ở miền Nam Việt Nam” (9, 227). Trong tình hình đó, ngày 15-5-1963, NĐD phải chịu tiếp phái đoàn PG, gồm các vị Tăng già, cư sĩ cao cấp của Nam tông và Bắc tông tại Sài Gòn. Tại cuộc gặp mặt này, ngoài 5 nguyện vọng đã nêu trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963, phái đoàn PG Sài Gòn còn ghi thêm 2 nguyện vọng sau:

“1- Chính phủ đảm bảo an ninh cho một phái đoàn ra thăm PG đồ tại Huế và an ủi các gia đình nạn nhân.
“2- Ra lệnh cho các cấp quân dân chính đừng làm điều gì trở ngại những buổi lễ cầu siêu cho vong linh nạn nhân ở khắp các chùa toàn quốc theo chỉ thị của Tổng hội PG” (43, 66).

Cuộc gặp hai bên kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ, nhưng không một nguyện vọng nào của PG được giải quyết; ngược lại, NĐD cho rằng thủ phạm tại Đài Phát thanh Huế là do phía những người cộng sản gây ra.

Khi phái đoàn PG trở về chùa Xá Lợi, họ đã bị Tăng Ni, Phật tử phản ứng dữ dội. Điều này thể hiện rõ trong văn thư ngày 17-5-1963 của trưởng phái đoàn PG gởi cho Bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu: “Chúng tôi trở về tới chùa Xá Lợi được một số Tăng Ni chừng vài trăm vị đã túc trực tại đó để chào đón phái đoàn và yêu cầu chúng tôi cho biết kết quả cuộc tiếp kiến Tổng thống... Thuyết trình xong thì Tăng chúng nhao nhao phát biểu ý kiến, cho rằng phái đoàn đã không đem lại kết quả nào cụ thể cả, chỉ có vấn đề cờ được thỏa mãn một phần nào mà thôi. Rồi phái đoàn chúng tôi bị chỉ trích kịch liệt” (38).

Không chịu lùi bước trước những ngang ngược của chính quyền NĐD, ngày 16-5-1963, giới lãnh đạo PG Sài Gòn tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, chính thức công bố bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Về cuộc hội ngày hôm trước, giới lãnh đạo PG cho biết không một ai thỏa mãn. Tiếp theo, ngày 17-5-1963, tại chùa Ấn Quang, một cuộc trưng bày những hình ảnh về vụ thảm sát tại Huế cũng được tổ chức. Tất cả đã có một sức thuyết phục to lớn đối với dư luận về cái lý mà PG phải đứng dậy đấu tranh.

Ngày 21-5-1963, một cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân bị thảm sát tại Huế được tổ chức trên toàn miền Nam, thu hút hàng triệu tín đồ tham gia. Tại chùa Ấn Quang, từ sáng sớm có rất đông PG đồ tập trung để dự lễ cầu siêu. Số người tham gia đông ngoài sức dự kiến của Ban tổ chức. Sau lễ cầu siêu, dưới hình thức “rước linh”, gần 1.000 Tăng Ni đã tổ chức một cuộc biểu tình hòa bình từ chùa Ấn Quang về chùa Xá Lợi. Họ chỉ mang theo một biểu ngữ viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh: “Tưởng nhớ những Phật tử Việt Nam đã chết vì chính nghĩa ở Huế”. Đoàn biểu tình đi lặng lẽ, không hô khẩu hiệu, nhưng một hệ thống loa phóng thanh gắn ở dọc đường đã phát đi những khẩu hiệu đòi thực hiện những yêu sách của PG. Nhân dân Sài Gòn đã làm đúng yêu cầu của giới lãnh đạo PG là ủng hộ cuộc đấu tranh nhưng không tham gia tuần hành. Lần đầu tiên, tại Sài Gòn, PG đã chính thức đưa cuộc đấu tranh từ trong nhà chùa ra ngoài đường phố, tới các công trường.

Ngày 25-5-1963, một hội nghị đại biểu của 11 tông phái và các đoàn thể PG được tổ chức tại chùa Xá Lợi để thảo luận kế hoạch đấu tranh. Hội nghị cho thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG (UBLPBVPG). Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện sự thống nhất ý chí và lực lượng của PG Sài Gòn trong cuộc đấu tranh. Hội nghị ra Tuyên ngôn “ủng hộ toàn diện 5 nguyện vọng tối thiểu... Nguyện đoàn kết đến cùng trong cuộc tranh thủ bất bạo động và hợp pháp để thực hiện những nguyện vọng ấy” (43, 73).

Trước những yêu sách của PG, chính quyền NĐD trước sau vẫn không thay đổi. Thái độ này đã làm cho giới lãnh đạo PG nhận thức rằng các cuộc điều đình và những yêu sách nhất định không thể đưa lại kết quả, mà cần phải có những biện pháp quyết liệt hơn. Điều này được tỏ rõ trong thư văn ngày 24-5-1963 của Hòa thượng (HT) Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi NĐD: “Để cho những nguyện vọng tối thiểu và hoàn toàn thuộc phạm vi tín ngưỡng ghi trong bản Tuyên ngôn và bản Phụ đính của chúng tôi được thấu hiểu và chấp thuận, tôi thiết nghĩ PG đồ - mà Tăng sĩ PG là phần chính - phải có một cách nào hơn những việc đã làm. Do đó, tôi đã chỉ thị cho các vị lãnh đạo thuộc sáu tập đoàn PG Việt Nam sẽ tuyệt thực 48 giờ đồng hồ, có bác sĩ giám hộ, kể từ 14 giờ 30 ngày 30-5-1963” (43, 78).

Chấp hành chỉ thị trên đây, ngày 30-5-1963, từ 14 giờ 30, cuộc tuyệt thực của giới lãnh đạo PG được tiến hành trên toàn miền Nam. Tại Sài Gòn, trước giờ tuyệt thực, gần 400 Tăng Ni đã biểu tình ngồi trước trụ sở Quốc hội Diệm. Chính quyền NĐD đã huy động lực lượng cảnh sát, công an mật vụ, lực lượng đặc biệt chống biểu tình và chỉ cần đoàn biểu tình có một bạo động nhỏ nhoi để “bạo động” gấp ngàn lần. Nhưng đoàn biểu tình chỉ có những đầu trọc và những bàn tay chắp, khiến bạo lực phải khoanh tay và thất bại trước sức mạnh tinh thần (29). Cùng với Sài Gòn, những cuộc biểu tình phản đối chính quyền NĐD đàn áp PG diễn ra trên khắp miền Nam, đặc biệt tình hình ở Huế trở nên hết sức căng thẳng. Các chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang đều bị lực lượng Diệm phong tỏa.

Trong lúc đó, khắp nơi trên thế giới đưa tin về cuộc đấu tranh chính nghĩa của PG, phóng viên cùng quan sát viên quốc tế đổ tới Sài Gòn càng lúc càng đông. Để giảm bớt tình hình căng thẳng, ngày 1-6, Diệm cách chức các viên chức cao cấp trong bộ máy chính quyền ở Thừa Thiên-Huế. Tới ngày 4-6, chính quyền NĐD cho thành lập Ủy ban Liên bộ (UBLB) để “nghiên cứu và đề xuất từng bước nhằm giải quyết những vấn đề đang tồn tại từ ngày 8-5” (45, 126).

Mặc dầu ý thức được rằng đây chỉ là một âm mưu hoãn binh của chính quyền NĐD, song tuân thủ đúng đường lối bất bạo động, phía PG vẫn chấp nhận “hợp tác” với UBLB. Ngày 5-6, cuộc hội đàm hai bên được tiến hành. Cuộc hội đàm kéo dài 6 giờ đồng hồ, nhưng không đem lại một kết quả cụ thể nào, trừ việc thỏa thuận cử một phái đoàn ra Huế để giải quyết tình trạng đang căng thẳng tại đây. Tuy nhiên, chính quyền NĐD đã tìm cách đánh lừa dư luận bằng cách phát đi một “Thông cáo chung” nói rằng “hai bên đã gặp gỡ trong bầu không khí thân ái và hiểu biết lẫn nhau” (20). Giới lãnh đạo PG đã vạch rõ rằng họ không hề ký một bản tuyên bố chung nào cả: “Chúng tôi từ chối không ký vào bản tuyên bố chung và việc công khai rằng bản tuyên bố chung đó đã được ký kết là một biểu hiện của sự thiếu thiện chí của Chính phủ” (20).

Trước thái độ cương quyết của giới lãnh đạo PG, chính quyền NĐD buộc phải rút bỏ lệnh phong tỏa các chùa ở Huế, để được xem như là một “thiện chí” trong cách giải quyết. Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền NĐD vẫn ngấm ngầm bắt cóc, thủ tiêu Tăng Ni, Phật tử, vu khống họ là “cộng sản nằm vùng”, cho công an mật vụ len lỏi vào các quán ăn, tiệm cà-phê để theo dõi và bắt giam những người bàn tán về cuộc đấu tranh của PG. Tại Huế, chính quyền NĐD xúi giục các gia đình có con em tử nạn trong vụ đàn áp tại Đài Phát thanh, xin rút ra khỏi danh sách Phật tử, danh sách Thánh tử đạo. Tại Sài Gòn, Diệm cho mật vụ giả danh Phật tử, Tăng Ni vào các chùa để do thám và xúi giục nhằm chia rẽ hàng ngũ Phật giáo. Nổi bật nhất là chính quyền NĐD tìm cách làm mất uy tín Tổng hội PG Việt Nam, coi nó như là một nhóm phân liệt, bằng cách cho khánh thành một ngôi chùa mới ở Sài Gòn cho phái PG Cổ sơn môn, một giáo phái không được Tổng hội PG Việt Nam thừa nhận. Jerrold Schecter viết: “Cách lập luận của Chính phủ là phái Cổ sơn môn sẽ chia rẽ hàng ngũ những người PG và sẽ làm mất giá trị và uy tín phong trào của họ. Đó là một chiến thuật quen thuộc của Diệm nhằm làm chia rẽ lực lượng chống đối ông” (46,176). Ngày 8-6-1963, Phong trào Phụ nữ Liên đới ra thông cáo lên án những người PG. Trong tình thế ấy, giới lãnh đạo PG bị bắt buộc phải đưa cuộc đấu tranh lên một mức độ cao hơn.

Ngày 11-6-1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám-Nguyễn Đình Chiểu), HT Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn Tăng Ni, Phật tử cùng những quan sát viên quốc tế. Lực lượng Diệm được điều động đến để hòng phá tan cuộc tự thiêu, nhưng bị thất bại vì Tăng Ni, Phật tử đã kiên quyết bảo vệ bằng cách vây quanh nhiều vòng. Có người nằm lăn trước xe cứu hỏa, xe cảnh sát không cho can thiệp. “Cuộc hy sinh phi thường và dũng cảm của HT Thích Quảng Đức, hình ảnh cụ ngồi ngay thẳng như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh như một làn sóng điện làm sôi nổi dư luận trong cả nước Việt Nam và trên thế giới. Ảnh của vị HT Việt Nam Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được đăng trên hầu hết các báo khắp năm châu, với những dòng chữ nói lên sự khâm phục” (9, 342).

Thật vậy, ở trong nước, “cái chết vô úy của HT Quảng Đức là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người, một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng” (4). Hành động cao cả của Thích Quảng Đức đã làm tăng thêm sự công phẫn của nhân dân miền Nam, kể cả tín đồ Thiên Chúa giáo, đối với chính quyền NĐD. Nó được xem như là một lời kêu gọi khẩn thiết đối với tất cả những ai có lương tri hãy đứng lên chống lại chế độ độc tài gia đình trị NĐD. Ngày 12-6, tại chiến khu, Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN đã long trọng tổ chức lễ truy điệu Thích Quảng Đức. Xã luận báo Nhân Dân, số ra ngày 13-6 viết: “Gương hy sinh anh dũng của HT Thích Quảng Đức là một sự tố cáo, lên án trước dư luận toàn thế giới chế độ độc tài cực kỳ tàn bạo của bọn Mỹ-Diệm. Chế độ ấy phải bị đánh đổ. Mười bốn triệu đồng bào miền Nam quyết đánh đổ chế độ ấy” (19).

Về phía Giáo hội Thiên Chúa giáo, ngay từ đầu của cuộc đấu tranh, có người đã lên tiếng tố cáo Diệm và bày tỏ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của PG. Sau cái chết của Thích Quảng Đức, ngày 16-6-1963, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, cai quản giáo khu Sài Gòn, đã chính thức lên tiếng trong một bức thư luân lưu. Bức thư xác định rõ: “Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam hoàn toàn đứng ngoài cuộc tranh chấp, mặc dù vai trò chủ động gây ra cuộc tranh chấp là tín đồ Thiên Chúa giáo” (33, 166). Trong bức thư thứ hai gởi cho các hàng tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo trước lúc lên đường đi La Mã tham dự Công đồng Vatican II, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh: “Giáo hội không những không gây nên biến cố, mà còn đau đớn vì những tai họa đã và còn là ác quá của biến cố” (33, 167).

Đối với thế giới, sự hy sinh của Thích Quảng Đức là “một hành động tiêu biểu vĩ đại. Nó không chỉ chống lại chế độ Diệm, để chỉ sự hiện hữu của PG và được để ý tới, mà nó còn có ý nghĩa chống lại sự bất công, bất chính của toàn thế giới... Với một hành động lặng thinh, không nói một lời, một vị HT Việt Nam đã nêu ra một tấm gương sáng rùng rợn, một kháng nghị cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi xấu xa, đê hèn của loài quỷ sứ đang còn tồn tại trong thế giới này” (7, 37-38). “Đây là một trạng thái mới lạ và huyền ảo của bất bạo động. Nó chứng tỏ rõ rệt cái uy quyền tối thượng của tinh thần. Không một bạo lực nào có thể làm suy giảm được tâm hồn, sức chịu đựng của một cá thể đối với mọi ức chế đàn áp chính trị độc tài thật vô biên” (26, 93).

Ngày 30-6-1963, trong một bài giảng tại một nhà thờ lớn ở New York, mục sư Donalds Harrington đã xem cái chết của Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giê-su, Michel Servetus, Jeanne d’ Arc. Ông cho rằng hành động mổ bụng của người Nhật cũng không thể nào so sánh nổi với sự tự thiêu của Thích Quảng Đức, tuy rằng gan dạ như nhau, bởi vì “sự tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao nhiêu sinh linh đang chìm đắm trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của PG và dân tộc” (26, 112).

“Tại Hoa Thịnh Đốn ngày 12-6-1963, nhân dân Mỹ đã đón nghe một cách xúc động tin cuộc biểu tình tranh đấu của giới Phật tử miền Nam” (11). Vụ tự thiêu đã gây nên một chấn động mạnh, đặc biệt làm cho dư luận Mỹ quay sang chống NĐD và gia đình y. “Uy thế của Mỹ-Diệm bị một cú đánh tinh thần mạnh như trời giáng” (9, 343).

Trên thực tế, cái chết của Thích Quảng Đức đã “có một tầm quan trọng rất lớn và đã chuyển mạnh cuộc vận động của PG sang một thế mới, trên cả hai bình diện quốc nội và quốc tế... Nó thúc đẩy cuộc vận động cho PG ở Việt Nam cũng như ở quốc tế tiến mạnh, tiến nhanh” (28).

Thật vậy, cái chết của Thích Quảng Đức đã làm rung chuyển chính quyền NĐD. Chiều ngày 11-6-1963, chính quyền NĐD ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi đang đặt thi hài của Thích Quảng Đức. Khắp các nẻo đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát được huy động để ngăn chặn làn sóng người đang đổ xô về đây. Buổi tối cùng ngày, qua đài truyền thanh, NĐD đọc thông điệp lên án vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức là do “một số người bị đầu độc gây án mạng” (37) và “kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế” (37). Lời lẽ trong thông điệp một lần nữa bộc lộ bản chất độc tài của Diệm, khi y tuyên bố: “ Sau lưng PG trong nước còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi” (37).

Mặc dầu vậy, những con đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát đã bị làn sóng người tràn ngập. Ngày 12-6-1963, giới lãnh đạo cao cấp của PG từ Huế vào Sài Gòn trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh ở đây. Đám tang của Thích Quảng Đức được ấn định vào ngày 16-6 và giới lãnh đạo PG dự định sẽ tổ chức vào dịp này một cuộc biểu tình lớn để phản kháng chính quyền NĐD không chịu giải quyết các nguyện vọng đã đề ra. Lo sợ một sự bùng nổ lớn vào ngày 16-6, chính quyền NĐD cấp tốc mở cuộc điều đình với giới lãnh đạo PG. Buổi họp đầu tiên được tổ chức từ ngày 14-6. Sau 4 buổi họp, một bản Thông cáo chung được ký kết vào lúc 2 giờ sáng ngày 16-6-1963.

Nội dung bản Thông cáo chung về cơ bản thỏa mãn được 5 nguyện vọng mà giới lãnh đạo PG đã đề ra trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Đứng về phương diện thương thuyết, việc ký kết bản Thông cáo chung là một thắng lợi lớn của phía PG.

Dĩ nhiên, giới lãnh đạo PG quá thừa hiểu bản chất của chính quyền NĐD, nên họ không tin tưởng một cách ngây thơ rằng bản Thông cáo chung sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Trong Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni, Phật tử ngày 17-6, HT Thích Tịnh Khiết, lãnh đạo tối cao của UBLPBVPG, viết: “Một điều quan trọng mà tất cả Tăng Ni và Phật tử đều thắc mắc tự hỏi : Liệu những lời cam kết được ghi trong bản Thông cáo này có được thực thi đúng đắn khắp nơi trong nước hay không ? Điều đó còn đợi thời gian trả lời, tuy nhiên chúng ta tin tưởng ở những lời tuyên bố của Tổng thống và UBLB, nếu những lời cam kết không được thực thi đúng thì đó không phải là trách nhiệm của chúng ta” (43, 143-144).

Để tỏ thiện chí, giới lãnh đạo PG còn ra lệnh hoãn đám tang Thích Quảng Đức và kêu gọi quần chúng ở nhà (vì đám tang đã được hoãn lại) và “hãy trở lại nếp sống bình thường, thành tâm cầu nguyện cho bản Thông cáo chung, một văn kiện được cam kết long trọng giữa Chính phủ và PG được thi hành nghiêm chỉnh” (43, 144).

Về phía quần chúng Phật tử, mặc dầu có lời kêu gọi của giới lãnh đạo PG, nhưng sáng ngày 16-6, một khối lượng quần chúng 700.000 người đã đổ ra đường phố kéo về chùa Xá Lợi, nơi đặt thi hài của Thích Quảng Đức. Cuộc xô xát giữa quần chúng và lực lượng cảnh sát đặc biệt của Diệm xảy ra ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản. Thanh niên, học sinh, phụ nữ, bà già đã hăng hái chiến đấu hàng mấy giờ đồng hồ. “Quần chúng hòa với nhau như những giọt nước trong đại dương và trong tình yêu, người ta tự thấy mình lớn lên và không còn sợ hãi nữa” (28). “Đây là cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm nay. Nó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc tài phát-xít Mỹ-Diệm, đẩy chúng vào tình trạng bị cô lập hơn bao giờ hết” (24).

Thái độ hòa hoãn của giới lãnh đạo PG đã làm nhiều người nóng nảy bất mãn. Họ sợ rằng giới lãnh đạo PG chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn 5 nguyện vọng, chứ không nghĩ đến nguyện vọng của quần chúng về tự do, dân chủ và công bằng. Để cho quần chúng khỏi ngộ nhận về mục tiêu đấu tranh, trong lần giải thích về bản Thông cáo chung ngày 23-6 tại chùa Ấn Quang, giới lãnh đạo PG đã chỉ ra rằng: “Có người đã đi tới chỗ cho rằng các nhà lãnh đạo PG đã bị mua chuộc”. Về nguyện vọng của quần chúng, giới lãnh đạo PG cho rằng: “Có bình đẳng tôn giáo sẽ có bình đẳng về mọi mặt. Bình đẳng chẳng phải là thực chất thiết yếu của dân chủ, tự do ư ? PGViệt Nam đã hiểu rõ nhu cầu của dân tộc và đã đặt cuộc vận động trong cuộc đấu tranh của dân tộc” (28).

Về phía chính quyền NĐD, chúng ra lệnh loan truyền bản Thông cáo chung ngay khi vừa được ký kết bằng xe phóng thanh của Bộ Thông tin. Điện tín đánh đi các tỉnh loan tin về nội dung của bản Thông cáo chung. Đài Phát thanh Sài Gòn loan tin trên ngay khi trời chưa sáng. Thực ra, đối với chính quyền NĐD, việc ký kết Thông cáo chung chỉ là một kế hoãn binh, một sự nhượng bộ tạm thời để chuẩn bị cho một cuộc đàn áp đại quy mô nhằm đè bẹp phong trào. Âm mưu này được tiết lộ trong một bức mật điện mang số 13242/VP/TT ngày 19-6-1963 của Văn phòng Phủ Tổng thống đánh đi cho các Đại biểu Chính phủ các miền, Tư lệnh các vùng, nguyên văn như sau: “Để tạm thời làm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, Tổng thống và ông Cố vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi hãy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh. Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gởi đến sau. Ngay từ bây giờ, hãy chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới, hãy theo dõi, điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả sĩ quan và công chức cao cấp” (15, 421). Trong một cuộc họp của 18 tướng tá vào đầu tháng 7-1963, Ngô Đình Nhu tuyên bố: “Nếu chính phủ này không giải quyết vấn đề PG, nó sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chánh quân sự” (46, 197). Theo Nhu, “bất cứ chính phủ nào thay thế chính phủ này trước hết phải đập tan những người PG” (46, 182).

Vạch trần những âm mưu trên đây của chính quyền NĐD, ngày 21-6, Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN ra lời kêu gọi đồng bào miền Nam và tín đồ theo đạo Phật hãy nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh. Lời kêu gọi viết: “Hiện nay, tuy ngoài mặt bọn Mỹ-Diệm chịu nhận giải quyết một số yêu sách của đồng bào theo đạo Phật, nhưng cuộc đấu tranh chưa kết thúc. Với bản chất ngoan cố và xảo quyệt, Mỹ-Diệm vẫn tìm đủ mọi cách để hãm hại và đàn áp đồng bào... Vì vậy, đồng bào theo đạo Phật cũng như các tầng lớp nhân dân quyết không vì những lời hứa hẹn xảo quyệt của bọn Mỹ-Diệm mà buông lơi và bỏ dở cuộc đấu tranh. Ngược lại, chúng ta cần tăng cường đoàn kết hơn nữa để kịp thời vạch trần mọi mưu đồ xảo quyệt của chúng, buộc chúng phải tôn trọng những lời chúng đã hứa, trả lại tự do cho những người bị bắt, bồi thường cho những người bị thương, những gia đình có người chết và chấm dứt ngay những hành động khủng bố trả thù đối với đồng bào theo đạo Phật và các tầng lớp nhân dân” (21).

Đúng như nhận định trên đây, ngay sau khi Thông cáo chung được ký kết, bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, chính quyền NĐD liên tiếp gây ra những vụ vi phạm Thông cáo chung. Sau đây là một số vụ vi phạm tiêu biểu tại Sài Gòn:

- Ngày 18-6, chính quyền NĐD cho phái Lục hòa Tăng thành lập Tổng hội PG, lấy tên là Tổng hội PG Cổ sơn môn để chống lại phong trào PG. Tổ chức này mới xuất hiện đã bị đồng bào Sài Gòn đả kích mạnh mẽ. Ngày 29-6, Tổng hội PG Cổ sơn môn đánh điện cho Hội PG Sri Lanka, tố cáo Tổng hội PG Việt Nam, “một chi nhánh của Hội PG Sri Lanka”, đang lợi dụng danh nghĩa của Hội để hoạt động chính trị và yêu cầu Hội PG Sri Lanka lên tiếng phản đối.

Ngay sau khi nhận được điện văn, ông W.P.Daluwatte, Tổng Thư ký Hội PG Sri Lanka, đã có điện tín trả lời cho PG Cổ sơn môn rằng: “Hội chúng tôi không có chi nhánh nào ở Việt Nam cũng như ở nơi khác... Mặt khác, chúng tôi cũng biết rằng tại Việt Nam có một Tổng hội PG, và theo như chỗ chúng tôi biết, Tổng hội này có đủ uy tín để đại diện và thay lời cho Phật tử Việt Nam. Chúng tôi tin chắc rằng Tổng hội PG Việt Nam này không bao giờ làm những điều gì trái hoặc thái độ nào có thể gọi là phản PG... Hơn nữa, PG Sri Lanka đã tỏ thái độ rõ rệt của họ về những biến cố vừa rồi ở Việt Nam và họ đã phản đối mạnh mẽ những hành động kỳ thị tôn giáo và những đối xử có tánh cách lăng nhục. Chúng tôi đã yêu cầu Chính phủ chúng tôi và Hội PG Thế giới dùng mọi biện pháp khả dĩ xoa dịu và cải thiện những lỗi lầm đã xảy ra. Chúng tôi đang tiếp tục công việc này, quý Ngài có thể phổ biến bức thư này theo ý muốn của quý Ngài” (33, 66-67).

- Ngày 1-7, trong một lần giải thích về Thông cáo chung tại trụ sở Thanh niên Cộng hòa, Ngô Đình Nhu ra sức công kích, nhục mạ PG, gán cho những người biểu tình đấu tranh chống đối từ ngày 8-5 là những “phần tử phiến loạn”. Đối với giới lãnh đạo PG, Nhu cho là “rất hăng hái lợi dụng xuyên tạc một cách trắng trợn và ngoan cố để đầu độc một số tín đồ và gây áp lực với các vị đại đức từ bi, hầu phát động một chiến dịch bất tuân pháp luật”, rằng “sự nguy hiểm trong việc thiếu giáo dục, thiếu học tập, thiếu cảnh giác nhân dân, để một số bất cứ lúc nào cũng trở thành cuồng tín” (43, 150)... Về sự hy sinh của Thích Quảng Đức, Nhu cho là “một vụ làm chết người có tổ chức, bằng cách tưới xăng đốt một vị HT” (43, 151).

Trong lúc phía PG đang ở trong thế hòa hoãn thì chính quyền NĐD quyết định đem các nhân vật tham gia “vụ đảo chánh hụt 11-11-1960” và “nhóm Caravelle” ra xử trước Tòa án Quân sự đặc biệt vào ngày 8-7, trong ý đồ để cảnh cáo và “dằn mặt” những phần tử lăm le đảo chánh; đồng thời để đánh lệch sự chú ý của quần chúng, đưa họ ra khỏi phong trào. Để phản đối chính quyền NĐD, trước đó một ngày (7-7-1963), nhà văn Nhất Linh uống thuốc độc tự tử. Cái chết của Nhất Linh gây xúc động mạnh trong quần chúng và là một đòn nặng đánh vào chế độ Diệm. Deepe, đại diện báo Newsweek tại Sài Gòn lúc đó nhận định rằng: “Sau vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức, cái chết của Nhất Linh sẽ đóng thêm một cái đinh vào quan tài của ông Tổng thống Diệm” (15, 203).

Mặt khác, để đề phòng một cuộc tấn công quân sự trong nội bộ chống lại chính phủ, Diệm cách chức một số sĩ quan giữ những nhiệm vụ quan trọng, thuyên chuyển vòng quanh để các sĩ quan không liên kết được với nhau, đồng thời ra sức ve vãn mua chuộc, như tặng huân chương cao nhất cho hơn 100 sĩ quan cao cấp hoặc lập ra cái gọi là Quốc gia Nghĩa tử cuộc để đảm bảo quyền lợi cho những binh lính, sĩ quan tử trận. Chính Mỹ cũng thừa nhận Diệm là “một tên gian ngoan, nhất mực bênh vực quyền lợi cho gia đình, hay đàn áp một cách thô bạo những khuynh hướng công kích lại” (10).

Tiếp theo, ngày 9-7, bằng Nghị định số 358-BNV/KS, chính quyền NĐD quy định thể thức treo cờ PG chỉ dành riêng cho Tổng hội PG Việt Nam. Tiếp theo, ngày 11-7, UBLB gởi văn thư số 16/UBLB cho giới lãnh đạo PG, trong đó nói rõ trách nhiệm về vụ thảm sát tại Đài Phát thanh Huế (8-5-1963) không thuộc trách nhiệm của chính quyền NĐD, mà là thuộc những người cộng sản: “Những nạn nhân chết đều do chất nổ “plastic” của Việt cộng (chất này, các lực lượng võ trang Việt Nam Cộng hòa không có), chớ không phải bị xe tăng hay xe thiết giáp đằng, như đã có trong luận điệu trước đây” (3).

“Chiến tranh một phía” của chính quyền NĐD không cho phép giới lãnh đạo PG hòa hoãn được nữa, buộc họ phải phát động trở lại cuộc đấu tranh. Trong văn thư số 83 ngày 14-7 gởi NĐD, HT Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam, khẳng định rằng: “Vì sự tồn vong của PG, tôi kính thưa Tổng thống tường, kể từ hôm nay, với tư cách là lãnh đạo tối cao, tôi thấy có bổn phận chỉ thị cho Tăng Ni và thiện tín phát động một phong trào đòi hỏi sự thực thi bản Thông cáo chung dưới mọi hình thức bất bạo động và trong sự tôn trọng các điều khoản của bản Thông cáo chung ấy” (39). Cũng trong ngày hôm đó, ông gởi Thông bạch kêu gọi toàn thể Tăng tín đồ “nhất tề thực hiện phong trào” (35).

Hưởng ứng lời kêu gọi của giới lãnh đạo PG, cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử trên toàn miền Nam tiếp tục trở lại với quy mô và cường độ cao hơn trước. Tại Sài Gòn, chiều ngày 16-7, gần 200 Tăng Ni biểu tình trước tư dinh Đại sứ Mỹ. Họ đòi Mỹ và các nước khác không được viện trợ cho chính quyền NĐD. Chính quyền Mỹ phải chịu trách nhiệm trước chính sách áp bức PG tại miền Nam. Sau cuộc biểu tình, họ trở về chùa Xá Lợi và tham gia cuộc tuyệt thực.

Ngày 17-7, nhịp độ cuộc đấu tranh gia tăng, chỉ trong buổi sáng đã có tới 2 cuộc biểu tình. Cuộc biểu tình thứ nhất xuất phát từ chùa Giác Minh với mục đích như biểu ngữ đã viết: “Chúng tôi đi thăm thầy chúng tôi đang tuyệt thực để đòi thực thi bản Thông cáo chung”. Tuy nhiên, trước lúc cuộc biểu tình xuất phát, chùa Giác Minh đã bị chính quyền NĐD bao vây với các lớp hàng rào kẽm gai. Nhiều xe phun nước và lực lượng cảnh sát được huy động để mở cuộc đàn áp. Quần chúng phẫn nộ đã vượt qua hàng rào kẽm gai, tràn ra đường phố, nhiều biểu ngữ có nội dung cứng rắn xuất hiện, như: “Chúng tôi đã bị lường gạt quá nhiều”, “Cờ PG phải là cờ của tất cả PG đồ”, “Yêu cầu Chính phủ giữ đúng lời thành tín đã hứa”, và khi không còn vượt qua được nữa, đoàn người ngồi xuống tụng niệm. Cuộc biểu tình đã bị đàn áp dữ dội làm nhiều người bị thương. Đoàn biểu tình rút trở lại chùa Giác Minh. Chính quyền NĐD cho phong tỏa chùa, làm trên 600 Tăng Ni bị vây hãm phải chịu đói khát trong suốt 54 giờ đồng hồ.

Cuộc biểu tình thứ hai xuất phát từ chùa Xá Lợi. Bằng cách “đánh lừa” sự cản đường của lực lượng cảnh sát Diệm, Tăng Ni từ chùa Xá Lợi đã từ nhiều ngả đường khác nhau, đến tập hợp trước chợ Bến Thành. Họ đã căng lên nhiều biểu ngữ đòi chính quyền NĐD phải thi hành đầy đủ và nghiêm chỉnh các thỏa thuận ghi trong Thông cáo chung. Đại diện của đoàn biểu tình đã lên tiếng tố cáo: “Chúng tôi tới đây để tỏ cùng quốc dân đồng bào biết rằng : Bản Thông cáo chung đã ký kết hơn tháng nay nhưng Chính phủ đã không thực thi nghiêm chỉnh, mà còn dùng đủ mọi cách để khủng bố, bao vây, bắt bớ, đàn áp, xuyên tạc PG đồ” (15, 440). Đông đảo quần chúng từ chợ đổ ra và từ các ngả đường kéo đến nhập cuộc tham gia đấu tranh, khí thế hết sức sôi nổi. Giám đốc Cảnh sát của Diệm trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp. Tăng Ni bị cảnh sát bắt quẳng lên xe bịt bùng và họ đã chống lại quyết liệt bằng cách xiết chặt lấy tay nhau.

Không khuất phục được ý chí đấu tranh của Tăng Ni, Giám đốc Cảnh sát bày trò thương lượng, bằng cách hứa sẽ chở Tăng Ni về chùa Xá Lợi. Nhưng khi Tăng Ni lên xe, chúng lại cho xe chạy về hướng Lục tỉnh. Biết mình bị lừa, Tăng Ni đã sử dụng rất nhiều biện pháp (như đập cửa xe, đạp thắng, gạt tay lái, mở cửa xe phóng xuống đường). Kết cục, xe phải dừng lại, Tăng Ni thoát ra khỏi xe, tập hợp lại để tiếp tục đấu tranh. Chính quyền NĐD đã điều động một lực lượng lớn cảnh sát để đàn áp. Tăng Ni bị đánh đập, bị bắt quẳng lên xe chở về An dưỡng địa Phú Lâm. Tường thuật về cuộc đàn áp này, tờ Star and Stripes số ra ngày 18-7-1963, viết : “Với sự trợ lực của lính mũ sắt, cảnh sát chiến đấu đã dùng báng súng và gậy gộc đánh các người biểu tình rồi túm cổ họ vất lên xe camion của nhà binh đang đậu bên cạnh. Tăng Ni, đàn bà và trẻ con bị cảnh sát đánh ngã lăn ra đường. Rất nhiều người đổ máu. Cà sa vàng của Tăng Ni và áo dài của đàn bà bị xé rách tả tơi trong khi họ bị dồn lên xe” (8, 220). Và khi về An dưỡng địa, Tăng Ni vẫn tiếp tục đấu tranh. Chính quyền NĐD buộc phải trả họ về chùa Xá Lợi sau 4 ngày giam giữ, chịu đủ mọi thứ ngược đãi.

Trước sự phục hồi phong trào, ngày 18-7, NĐD ra “hiệu triệu” chấp thuận việc treo cờ PG “sẽ được áp dụng cho tất cả môn phái nào tự ý công nhận PG kỳ”, đề nghị giới lãnh đạo PG hợp tác “để cùng nghiên cứu, điều tra và giải quyết tại chỗ, nếu cần, những khiếu nại liên quan đến sự thực thi Thông cáo chung” và kêu gọi “quốc dân đồng bào ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của Chính phủ trong vấn đề Phật giáo” (12).

Trên thực tế, “ý chí hòa giải tột bực của Chính phủ...” cũng chỉ là sự tiếp nối những thủ đoạn chính trị như trước đây nhằm đánh lừa dư luận. Ngay khi Diệm ra lời “hiệu triệu”, các chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Giác Minh vẫn tiếp tục bị phong tỏa. Ngày 19-7, giới lãnh đạo PG gởi văn thư số 94 cho chính quyền NĐD, khẳng định: “Toàn thể Tăng Ni chúng tôi trong Ủy ban Liên phái thà cam chịu chết chứ không chịu để cho lòng tin tưởng của chúng tôi nơi thành tín của Chính phủ bị thực tế đánh đổ một lần nữa” và yêu cầu giải quyết hết thảy những vấn đề đã xảy ra từ ngày Phật Đản (8-5-1963), họ “mới có thể hợp tác với UBLB mà nghiên cứu, xem xét những vấn đề khác, để cho cuộc hòa giải được hoàn toàn tốt đẹp” (40).

Ngày 21-7, một nhóm thanh niên mặc thường phục len lỏi vào đám đông quần chúng Phật tử tại chùa Xá Lợi, phân phát tài liệu giả mạo. Một người trong nhóm họ bị bắt quả tang, y khai nhận lệnh cấp trên đến chùa Xá Lợi để phát những tài liệu giả mạo nói trên. Tiếp theo, ngày 23-7, trong lúc Sư bà Diệu Huệ đang tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, để công bố ý nguyện tự thiêu của bà để góp phần bảo vệ PG, thì bên ngoài, chính quyền NĐD tổ chức một cuộc biểu tình mạo danh thương phế binh, lên án và xuyên tạc cuộc đấu tranh của PG. Tuy vậy, việc làm của chính quyền NĐD không đánh lừa được dư luận, ngày hôm sau (24-7), một nhóm thương phế binh gởi thư cho giới lãnh đạo PG, lên án cuộc biểu tình và bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với phong trào: “Chúng con nguyện xin chung góp một phần nào cuộc đấu tranh hợp pháp với tinh thần bất bạo động của đồng bào Phật tử cho đến khi nào sự bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng được hoàn toàn thực thi trên lời nói cũng như việc làm trên toàn lãnh thổ Việt Nam” (43, 238).

Trong lúc phong trào đang được đẩy mạnh thì tín đồ các tôn giáo khác cũng lên tiếng tố cáo chính quyền NĐD đàn áp PG và bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh của PG.

Ngày 20-7-1963, Đoàn Sinh viên Liên giáo tại Sài Gòn ra lời hiệu triệu, nói rằng: “Việc tàn sát PG đồ tại Huế trong ngày lễ Phật Đản vừa qua, việc giở trò lừa bịp giả ký kết, thỏa thuận để xoa dịu những lúc lòng công phẫn trong nhân dân lên quá cao rồi lại tiếp tục bắt bớ, tra tấn, tàn sát đẫm máu, tất cả những việc ấy đã đem lại lợi ích gì cho quốc gia, dân tộc ? Phải chăng chỉ để thỏa mãn lòng đố kỵ nhỏ nhen, óc kỳ thị tôn giáo hẹp hòi của một vài cá nhân?... Các tôn giáo trong nước đều tố cáo hành vi hạn chế tín ngưỡng phản Hiến pháp của chính quyền. Ngay cả những tín đồ Thiên Chúa giáo vô tư cũng lên án hành động của chính quyền là hẹp hòi, bẩn thỉu” (17) và khẳng định rằng: “Đoàn Sinh viên Liên giáo chúng tôi gồm đủ thành phần của các tôn giáo: PG, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Tin Lành giáo, Cao Đài giáo, Bahai giáo... được thành lập với mục đích ủng hộ PG đấu tranh ôn hòa đòi tự do tín ngưỡng và hành giáo” (17).

Ngày 24-7, đại diện một nhóm sinh viên và thanh niên Thiên Chúa giáo tại Sài Gòn gởi thư đến đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Việt Nam. Bức thư viết: “Sau khi theo dõi những biến cố xảy ra tại Sài Gòn cũng như ở Huế từ 8-5 đến nay, cũng như sau khi đã chứng kiến tận mắt cái chết vô cùng can đảm của nhà sư Thích Quảng Đức và các cuộc biểu tình bất bạo động mới đây của Tăng Ni, chúng con là một nhóm sinh viên Công giáo yêu chuộng tự do và công lý không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đau khổ, bị đánh đập, bị bắt bớ của những người dù rằng khác tín ngưỡng nhưng cũng là đồng bào anh em với chúng con.

“Hành động đàn áp nói trên của chính phủ Công giáo đối với PG đồ đã làm tổn thương nhiều đến thanh danh của hàng giáo phẩm Việt Nam nói riêng và Giáo hội nói chung. Không những thế, nó còn gây ra những phản ứng vô cùng bất lợi cho Giáo hội Công giáo trên khắp các quốc gia Á châu... Chúng con tin chắc rằng Đức Cha cũng đã khách quan nhận xét, đã phê phán và phúc trình về Tòa thánh những sự việc đã diễn ra” (41).

Ngày 25-7, một nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau đã gởi thư cho giới lãnh đạo PG. Bức thư viết: “Mặc dầu chúng tôi là đồng bào Công giáo, nhưng ngay từ khi xảy ra những cuộc tàn sát, đàn áp dã man của nhà cầm quyền đối với đồng bào PG, chúng tôi rất đau lòng vì chính những kẻ xuẩn động đã gây ra thảm cảnh và những tiếp diễn của những thảm cảnh đó là những người đã được ánh sáng Phúc âm rọi tới như chúng tôi. Còn đâu trong người của họ tinh thần công bằng, bác ái, kính Chúa, yêu người như mình ta vậy? Họ đã phản bội tinh thần Công giáo của chúng tôi” (43, 239).

Ngày 30-7, nhân ngày lễ chung thất của Thích Quảng Đức, giới lãnh đạo PG đã ra Thông bạch vạch rõ thực trạng xã hội miền Nam dưới chính quyền NĐD: “Sự suy đồi của nền đạo đức dân tộc... nền đạo giáo vẫn bị hăm dọa, quốc gia lâm vào tình trạng chia rẽ đổ nát, người làm kẻ hưởng, nỗi bất bình oan khúc không sao kể xiết” (36), và kêu gọi mọi giới đồng bào hãy đình công bãi thị để phản đối thái độ ngoan cố và độc ác của chính quyền NĐD đối với PG.

Hưởng ứng lời kêu gọi trên, tại Sài Gòn, từ 5 giờ sáng, đồng bào đã tấp nập đổ về chùa Xá Lợi, “ngoài thanh niên ra, hầu hết những người đến dự lễ đều là đàn bà. Họ đều trẻ, khá hấp dẫn và duyên dáng trong bộ áo dài và quần trắng, hoặc cả bà già nhăn nheo, răng bị nhuộm đen vì ăn trầu. Tất cả đều có đính băng nhỏ màu vàng trước ngực, một biểu hiện thương tiếc HT Thích Quảng Đức” (46, 193).

Sau buổi lễ, giới lãnh đạo PG ra Tuyên ngôn tố cáo chính quyền NĐD không chịu thi hành Thông cáo chung và khẳng định lại một lần nữa quyết tâm tranh đấu của mình “để đưa cuộc đấu tranh đến thành công” (34, 112).

Trong lúc cuộc đấu tranh của PG được phục hồi và đang phát triển mạnh mẽ khắp trên các đô thị miền Nam, nhất là ở Huế và Sài Gòn, thì Đại sứ Mỹ Frederick E.Nolting, trong một cuộc phỏng vấn của Don Baker, ký giả của Hãng thông tấn UPI, đã bào chữa cho chính quyền NĐD. Nolting nói: “Hơn hai năm tôi sống ở Việt Nam, tôi chưa bao giờ nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo” (43, 298).

Tiếp theo, ngày 3-8, trong cuộc nói chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân lên tiếng công kích và mạ lỵ PG, rằng “hoạt động của PG là một hình thức phản bội xấu xa...” (46, 196). Về sự tự thiêu của Thích Quảng Đức, Trần Lệ Xuân cho là sư "nướng sư". Trả lời phỏng vấn của ký giả báo New York Times, Trần Lệ Xuân nói: “Tôi còn đánh sư gấp 10 lần như thế nữa à. Phương pháp giải quyết vấn đề PG là phớt tỉnh, không cần biết tới” (43, 307).

Trước thái độ ngang ngược của Mỹ-Diệm, mức độ phong trào đột ngột gia tăng. Trong vòng chưa đầy nửa tháng (4 đến 16-8) đã có tới 4 cuộc tự thiêu. Riêng Huế, phong trào lên rất mạnh, đã có 2 cuộc tự thiêu. Ngày 17-6, Linh mục Cao Văn Luận từ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế, các khoa trưởng và giáo chức và giáo sinh đại học từ chức tập thể, sinh viên đồng loạt bãi khóa. Tại Sài Gòn, ngày 12-8, nữ sinh Mai Thị Tuyết An tự chặt tay trái của mình để phản đối chính quyền NĐD; ngày 18-8, một cuộc lễ cầu siêu cho tất cả các vị tử đạo được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Sau lễ cầu siêu, Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn kêu gọi quần chúng tham gia tuyệt thực tại chỗ, có tới 10.000 người tham gia. Suốt ngày hôm đó, đông đảo đồng bào Sài Gòn kéo đến chùa Xá Lợi để ủng hộ cuộc tuyệt thực, khí thế đấu tranh của quần chúng hết sức sôi nổi.

Để cứu nguy cho chế độ, chính quyền NĐD đã cho thực hiện “kế hoạch nước lũ”, “cương quyết thanh trừng các phần tử phản bội và quá khích trong các giới Tăng Ni, công chức, giáo sư, sinh viên, cũng như trong các đoàn thể nhân dân” (13) nhằm giải quyết dứt điểm “vụ PG”. "Thời gian ấn định cho việc thực hiện xong kế hoạch là từ 21-8 đến 30-8-1963" (13). Đêm 20 rạng ngày 21-8, ch��nh quyền NĐD cho quân tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được dùng làm cơ sở đấu tranh trên toàn miền Nam.

Tại Sài Gòn, cảnh sát dã chiến và lực lượng đặc biệt của Ngô Đình Nhu mặc quân phục (âm mưu của lối cải trang này nhằm để đánh lừa dư luận rằng chính quân đội đã ủng hộ Diệm trong việc “thanh trừng những phần tử phản bội và quá khích”, làm cho phía PG tập trung mũi nhọn về phía quân đội, như vậy quân đội sẽ đứng về phía Diệm) tấn công các chùa và bắt giữ Tăng Ni, Phật tử. Tại chùa Xá Lợi, trụ sở của UBLPBVPG, cuộc tấn công diễn ra rất ác liệt. Mặc dầu có mật báo cho biết chính quyền NĐD sẽ mở cuộc tấn công, nhưng giới lãnh đạo PG vẫn không một ai chịu lùi bước. Tăng Ni, Phật tử đã chống trả mãnh liệt, cho đến lúc kiệt sức thì bị bắt tống lên xe chở vào trại giam. Hầu hết các nhà sư trong giới lãnh đạo PG đã bị bắt trong cuộc tấn công này.

Ở chùa Ấn Quang, theo Phiếu đệ trình số 0289 ngày 22-8-1963 của Tư lệnh Quân đoàn III của Diệm, thì cuộc tấn công của lực lượng Diệm cũng vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của Tăng tín đồ Phật tử: “Việc khám xét chùa Ấn Quang cũng gặp trở ngại vì chùa đã tổ chức phòng thủ và báo động. Khi lực lượng an ninh tiến vào chùa thì gặp một hàng rào kẽm gai có truyền điện nên một số nhân viên ta bị điện giật và bị thương. Một số Tăng Ni canh gác trong chùa dùng gậy định chống trả lúc đầu, nhưng sau đó lại rút lui lên lầu. Các sư liền sử dụng máy phóng thanh kêu gọi đồng bào quanh vùng thức dậy để chứng kiến quân đội tấn công chùa. Trong chùa, trống đánh ầm ĩ để báo động và sử dụng điện thoại để liên lạc với các chùa khác.

“Các Tăng Ni tiếp tục ném đá và ve chai vào các toán an ninh. Đặc biệt là các Tăng Ni có ném một chất hóa học cay mắt và một chai a-xít vào trung đội an ninh trong lúc tiến công vào chùa, nhưng may không có nhân viên nào bị thương” (27).

Cùng lúc với “kế hoạch nước lũ”, Diệm đọc tuyên cáo và ban hành sắc lệnh giới nghiêm, công khai đặt miền Nam trong sự cai trị của chế độ quân phiệt. Sắc lệnh giới nghiêm cho phép quân đội có quyền “xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ những người xét có hại cho an ninh công cộng” (Điều 3), “Tất cả mọi sự vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của Tòa án Quân sự” (Điều 4) (31). Ngày 21 và những ngày kế tiếp, chính quyền NĐD đã cho người đi bắt thêm khoảng 2.000 người khác tại nhà riêng của họ, trong đó đa số là giáo sư, luật sư và sinh viên, đông nhất là ở Sài Gòn và Huế.

Bằng việc đánh phá chùa chiền, bắt giữ Tăng Ni và ban hành lệnh giới nghiêm, chế độ gia đình trị NĐD đã “thực sự dẫm trúng vỏ chuối do PG quăng ra” (30), đã tự chọn cho mình một tuyệt lộ.

Sau “kế hoạch nước lũ”, chính quyền NĐD thi hành một loạt âm mưu gian xảo nhằm đánh lừa dư luận, hòng tránh được sự nổi dậy của quần chúng. Ngày 22-8, chính quyền NĐD ra thông cáo cho biết đã khám xét và tịch thu được một số khí giới và dụng cụ bất hợp pháp tại chùa Xá Lợi, Ấn Quang... Ngày 24 và 25-8, anh em Diệm tạo ra một số thư giả mạo của giới lãnh đạo PG gởi cho NĐD, như thư của HT Thích Tịnh Khiết nói rằng HT ủy nhiệm cho một số Thượng tọa (TT) trong Giáo hội Tăng già toàn quốc để trông nom Phật sự, hoặc kiến nghị của 5 vị TT ở Huế nói rằng “trong chế độ cộng hòa nhân vị do Tổng thống NĐD lãnh đạo, chúng tôi xác nhận PG được tùy duyên phát triển tự do tín ngưỡng và hành đạo. Tổng thống và Chính phủ không chủ trương đàn áp và kỳ thị tôn giáo”, rằng “trong cuộc đấu tranh cho 5 nguyện vọng của PG Việt Nam đệ đạt lên Tổng thống, chúng tôi xác nhận đã được Tổng thống giải quyết, thực thi và hòa giải tột bực” (14).

Ngày 26-8, chính quyền NĐD thành lập Ủy ban Liên hiệp Bảo vệ PG thuần túy. Tổ chức này họp báo lên án giới lãnh đạo PG và tán thành cuộc đại khủng bố của chính quyền NĐD. Ngày 10-9, Trần Lệ Xuân lên đường đi châu Âu và châu Mỹ để làm cái nhiệm vụ mà y gọi là “giải độc” cho thế giới. Nhưng đến đâu, Lệ Xuân cũng đều bị nhân dân thế giới tẩy chay, đặc biệt là người Việt Nam ở hải ngoại đã chống lại y một cách quyết liệt, có nơi y đã bị nhân dân ném trứng thối và cà chua vào mặt.

Bằng tất cả những biện pháp trên đây, chính quyền NĐD vẫn không tài nào dập tắt được phong trào. Thật vậy, sau cuộc tấn công vào chùa chiền, phong trào không những không bị đè bẹp mà còn phát triển sâu rộng trong hầu hết các tầng lớp nhân dân. Liền sau “kế hoạch nước lũ”, ngày 22-8, MTDTGPMNVN ra tuyên bố chỉ rõ: “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay là tín đồ PG cũng như nhân dân các đô thị kiên quyết giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu tranh... Tinh thần bất khuất trước sau vẫn là võ khí bất khả chiến thắng của chúng ta. Với ý chí và tinh thần ấy, chúng ta sẽ làm cho Mỹ-Diệm bị thất bại nhục nhã” (6).

Thật vậy, những ngày sau 21-8, cả Sài Gòn rung động trước sự phát triển của phong trào. Nhiều bộ trưởng, khoa trưởng, giáo sư đại học từ chức. Ngày 22-8, một nhóm giáo chức rải truyền đơn lên án chính quyền NĐD tấn công chùa và kêu gọi trí thức vùng dậy đấu tranh: “Chúng ta phải làm gì trong khi khắp nơi, đồng nghiệp của chúng ta thẳng thừng từ bỏ chức vụ để đòi hỏi sự giải quyết vấn đề kỳ thị tôn giáo của Chính phủ. Hơn thế nữa, mới đây, khoảng 1 giờ đêm 20 rạng ngày 21-8-1963, để xác định tính chất tàn ác, vô nhân đạo, Chính phủ NĐD đã cho quân đội tàn phá tất cả chùa chiền ở thủ đô và toàn quốc, bắt giết các vị Tăng Ni và các cấp lãnh đạo PG một cách dã man.

“Quý vị nghĩ sao trước lời kêu gọi này?
“Chúng tôi đang đợi phản ứng của quý vị, là những thức giả có nhiệm vụ tiên phong trong giai đoạn đấu tranh này” (32).

Về phía sinh viên, ngày 22-8, Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên Liên khoa được thành lập, hai hôm sau (24-8) đổi tên là Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên và Học sinh. Ủy ban này “tuyên bố bãi khóa, nghỉ học để đấu tranh cho tự do tín ngưỡng” (42). Hầu hết các trường đại học, cao đẳng đều bãi khóa. Ngày 24-8, tại Trường Đại học Khoa học có tới 1.200 sinh viên tới trường để thi vào năm dự bị, nhưng không chịu vào phòng thi, họ xé phiếu báo danh, hô các khẩu hiệu: “Đả đảo Chính phủ” và hô hào bãi khóa. Tại Trường Đại học Dược khoa, 700 sinh viên đến trường nhưng không chịu vào lớp. Truyền đơn của UBLPBVPG dán trên bảng đen kêu gọi đình công, bãi thị, bãi khóa để đấu tranh bảo vệ cho sự sống còn của đạo pháp và dân tộc. Tại Trường Đại học Y và Nha khoa, sinh viên đã xông vào phòng hội đồng xé đề thi để lộ đề thi toán. Tại Trường Đại học Luật khoa, có trên 1.200 sinh viên họp mít-tinh lên án chính quyền NĐD và kêu gọi bãi khóa để đấu tranh (42).

Tiếp theo, sáng ngày 25-8, bất chấp lệnh giới nghiêm của chính quyền NĐD, thanh niên, sinh viên, học sinh từ nhiều hướng khác nhau đổ về trước chợ Bến Thành tổ chức biểu tình lên án chính quyền NĐD. Đông đảo đồng bào từ trong chợ đổ ra đường hưởng ứng cuộc biểu tình. Cuộc đàn áp diễn ra, thanh niên, sinh viên, học sinh đã chống trả quyết liệt. Cảnh sát Diệm bắn vào đoàn biểu tình, nữ sinh Quách Thị Trang hy sinh và có tới 2.000 nam nữ sinh viên, học sinh bị bắt đưa về giam tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Chính quyền NĐD ra huấn lệnh cho phép các lực lượng an ninh được bắn vào bất cứ đám đông nào tụ tập trên đường phố mà không xin phép. Để đẩy lùi cao trào nổi dậy của sinh viên, chính quyền NĐD ra lệnh đóng cửa các trường đại học và cao đẳng, lùng bắt cán bộ chỉ đạo phong trào.

Lên án hành động trên đây của chính quy���n NĐD, trong Lời tuyên bố ngày 18-8-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Gần đây, ở miền Nam Việt Nam lại xảy ra thêm một tình trạng cực kỳ nghiêm trọng và đau thương. Bọn NĐD đốt phá chùa chiền, khủng bố sư sãi và đồng bào theo đạo Phật. Chúng đóng cửa trường học, bắt bớ hàng loạt giáo sư và sinh viên, học sinh. Tội ác dã man của chúng, trời đất không thể dung. Hành động hung tàn của chúng, nhân dân ta đều căm giận, cả thế giới đều lên tiếng phản đối, nhân dân tiến bộ Mỹ cũng tỏ lòng bất bình... Trước tình thế ấy, đồng bào miền Nam ta đoàn kết nhất trí, không phân biệt sĩ nông công thương, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, kiên quyết đấu tranh để giành lại tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam: “Dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào miền Nam được sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhất định giành được thắng lợi” (18).

Sau ngày 25-8, nhìn bên ngoài, chính quyền NĐD dường như có vẻ làm chủ tình hình. Tuy nhiên, trên thực tế, phong trào đang tìm đối sách thích ứng trước sự khủng bố dã man của chính quyền NĐD. Ngày 6-9, đài BBC trong phần bình luận, cho rằng: “Diệm đã nắm vững và Hoa Thịnh Đốn đã nhượng bộ, không đòi vợ chồng Nhu đi nữa” (30). Như để cải chính một cách hùng hồn, ngày 7-9, học sinh các trường bãi khóa. Tại Trường Trung học Võ Trường Toản, học sinh đánh nhau hàng giờ với cảnh sát chiến đấu và đã hô những khẩu hiệu đòi Mỹ chấm dứt viện trợ cho chính quyền NĐD và tuyên bố là Mỹ đã đi với Diệm, không đi với dân Việt Nam. Rất nhiều học sinh nam nữ bị bắt tống lên xe hơi có mang dấu hiệu viện trợ Mỹ để đưa đến trại giam. Buổi chiều hôm đó, phụ huynh học sinh đã tụ tập ở Nha Cảnh sát, biểu tình đòi con. Đoàn biểu tình đã chỉ trích Mỹ ủng hộ Diệm.

Ngày 8-9, học sinh Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng bãi khóa. Cuộc chiến đấu của học sinh chống lại lực lượng cảnh sát Diệm diễn ra rất dữ dội. Trong lúc học sinh đang hô hào bãi khóa biểu tình, cảnh sát chiến đấu được huy động tới bao vây và đàn áp. Học sinh đã dùng búa và các khí cụ của nhà trường chống lại cảnh sát. Hai bên giao tranh suốt buổi sáng làm cho một số cảnh sát Diệm bị thương tích trầm trọng.

Cùng ngày, học sinh Trường Chu Văn An bãi khóa. Tại đây, học sinh đã căng lên nhiều biểu ngữ viết bằng máu tố cáo chính quyền NĐD chà đạp tự do tín ngưỡng, đòi Mỹ ngưng viện trợ cho Diệm. Cuộc chiến đấu chống sự đàn áp của cảnh sát Diệm diễn ra rất mãnh liệt. Học sinh đã dùng bàn ghế và các dụng cụ sẵn có chống lại sự tấn công của cảnh sát. Hai đợt tấn công đầu của cảnh sát Diệm đều bị đẩy lùi. Đợt thứ ba, chính quyền NĐD huy động thêm lực lượng quân đội mới đàn áp được. Có tới 1.200 học sinh bị bắt đưa về trại giam An Nhơn ở Gò Vấp.

Cùng với phong trào đấu tranh mãnh liệt của quần chúng, một số nhà sư trong giới lãnh đạo PG trốn thoát được cuộc khủng bố, hoặc bị quản thúc, vẫn tiếp tục bí mật hoạt động lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho những Tăng Ni, Phật tử bị bắt. Nhiều thư của giới lãnh đạo PG bí mật gởi Tổng Thư ký Liên hiệp quốc và cho phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc khi phái đoàn này đến miền Nam. Thời gian này, nhiều đoàn thể được thành lập gấp rút để đối phó với tình hình, như Đoàn Thanh niên cứu nguy PG, Thanh niên Tăng đoàn Việt Nam, Thanh niên Quốc Tuệ, Thanh niên Ái quốc đoàn. Các đoàn thể này đã tiến hành các hoạt động bí mật, như rải truyền đơn tố cáo chính quyền NĐD và ra lời kêu gọi nhân dân vùng lên chống bạo quyền. Lời kêu gọi của Đoàn Thanh niên Quốc Tuệ viết: “Gia đình họ Ngô chẳng từ một hành động tàn bạo nào! Chúng bất chấp dư luận, bất chấp lời phản đối của nhân dân trong nước và thế giới. Chúng đã bị vinh hoa che mờ mất lương tri và không còn lấy một chút đạo đức sơ đẳng của con người.

“Thậm chí phá chùa, bắt sư, xả súng vào các đám biểu tình là một hành động man rợ chưa từng có trong lịch sử loài người.
“Các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên và đồng bào!
“Giờ phút lịch sử đã điểm.
“Tất cả chúng ta hãy kết khối vùng lên, hô to khẩu hiệu:
“Chiến đấu ! Chiến đấu ! Quét sạch chế độ bạo tàn !” (43, 443-444)

Trong điều kiện lưới mật vụ cũng như lực lượng chống biểu tình của Diệm giăng ra dày đặc, trong phong trào quần chúng xuất hiện nhiều hình thức đấu tranh mới, như các bà mẹ đã lấy bong bóng kết theo những biểu ngữ mang nội dung chống Diệm thả lên không trung; hoặc là những tấm áp-phích hí họa mô tả chế độ độc tài gia đình trị NĐD; hoặc ở chợ Bến Thành có hình thức thả khỉ mang tên những anh em Diệm v.v...

Trong lúc những hoạt động chống đối của quần chúng liên tục diễn ra bằng đủ mọi hình thức, thì trưa ngày 5-10, Đại đức (ĐĐ) Thích Quảng Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành. Một số nhà báo Mỹ bị lực lượng Diệm đánh khi họ đang chứng kiến vụ tự thiêu này. Dư luận Mỹ sôi nổi phản đối Diệm. Trong điều kiện phong trào đang gặp rất nhiều khó khăn, ngọn lửa Thích Quảng Hương đã chứng tỏ cho dư luận trong nước và quốc tế biết rằng “vụ PG” vẫn còn nguyên vẹn và có tác động mạnh mẽ đến Liên hiệp quốc trong phiên họp ngày 7-10-1963 tại New York khi bàn đến vấn đề PG Việt Nam. Tại phiên họp này, đại biểu Sri Lanka tố cáo chính quyền NĐD đàn áp PG và vi phạm nhân quyền, và đề nghị cử một phái đoàn sang miền Nam điều tra “vụ PG”. Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận và đồng ý hoãn việc thảo luận “vụ PG” cho đến khi có phúc trình của phái đoàn về vấn đề này.

Vào lúc 0 giờ 30 ngày 24-10, phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc đến Sài Gòn. Giữa lúc phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc đang hoạt động, thì vào 10 giờ ngày 27-10, ĐĐ Thích Thiện Mỹ tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn). Sự hy sinh của Thích Thiện Mỹ được xem như là lời kêu gọi khẩn cấp đối với Liên hiệp quốc trong việc tố cáo chế độ bạo tàn NĐD trước diễn đàn quốc tế, hầu mong sớm chấm dứt nỗi thống khổ của Tăng tín đồ PG miền Nam.

Cùng với phong trào đô thị, nổi bật là phong trào PG, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam không ngừng phát triển, làm cho mâu thuẫn Mỹ-Diệm từng bước phát triển và trở nên gay gắt không thể nào khắc phục được. Thật vậy, từ sau chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963), Mỹ đã tính đến việc thay Diệm. Tờ New York Times, ngày 5-2-1963 nhận định rằng: “Bây giờ mà thay ngựa ở miền Nam là một việc làm nguy hiểm, nhưng thà nguy hiểm mà sẽ đem lại những khả năng thành công, còn sợ nguy hiểm thì chắc chắn sẽ thất bại” (22). Tờ Tin tức hàng ngày Washington viết: “Tổng thống Diệm phải hiểu rằng, giữa việc cứu vớt chế độ ông ta và việc cứu vớt bản thân ông ta, thì việc sau là thứ yếu” (22). Tuy nhiên, đây chỉ là ý nghĩ bước đầu của kế hoạch “thay ngựa” của Mỹ.

Từ tháng 5 trở đi, trước những thất bại liên tiếp và nặng nề về chính trị và quân sự, chính quyền Kennedy bắt đầu gây sức ép với Diệm. Trong một cuộc tiếp xúc với Diệm, Truheart - đại diện Mỹ - chỉ ra rằng: “Chính quyền Kennedy không ưa thích rối ren” (46, 135). Mâu thuẫn Mỹ-Diệm càng trở nên căng thẳng, nhất là từ sau khi chính quyền NĐD tấn công chùa và ban hành lệnh giới nghiêm. Ngày 24-8, sau khi đến Sài Gòn nhận chức Đại sứ được hai ngày, Cabodge Lodge nhận được điện văn từ Nhà Trắng, trong đó vạch rõ: “Cố vấn Ngô Đình Nhu chịu trách nhiệm về sự tấn công đàn áp chùa chiền. Đại sứ Hoa Kỳ phải minh danh: Chính lực lượng đặc biệt của ông Nhu, chứ không phải quân đội tham dự... Hoa Kỳ không thể tha thứ tình trạng quyền hành nằm trong tay Ngô Đình Nhu. Tổng thống NĐD được dành một cơ hội để loại trừ Ngô Đình Nhu và tay chân, phải thay thế họ bằng những nhân vật quân sự và chính trị có khả năng nhất... Nếu Tổng thống Diệm vẫn còn ngoan cố, thì chúng ta (người Mỹ) sẽ đi tới chỗ không thể tiếp tục ủng hộ ông nữa

Ông Đại sứ có thể loan báo cùng các vị tư lệnh quân sự liên hệ rằng: “Chúng ta sẽ trực tiếp yểm trợ cho họ trong mọi trường hợp tạm thời gián đoạn của một chính quyền trung ương” (5, 227-228).

Tại Sài Gòn, trong một cuộc tiếp xúc với Diệm, Lodge đã chính thức yêu cầu Diệm gạt bỏ Nhu, nhưng không được Diệm chấp nhận. Ngày 2-9-1963, Tổng thống Kennedy tuyên bố: “Bằng việc thay đổi chính sách và thay đổi cả người nữa, có thể giành được thắng lợi ở Việt Nam” (9, 395). Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa quyết định dứt khoát việc thay Diệm. Sau khi Mc. Namara và Taylor sang miền Nam vào cuối tháng 9 trở về báo cáo tình hình, ngày 2-10, chính quyền Kennedy ra một bản tuyên bố 5 điểm, trong đó nói rằng: “Tình hình chính trị tại Nam Việt Nam vẫn còn hết sức nghiêm trọng. Mỹ vẫn tiếp tục phản đối các hành động đàn áp tại Nam Việt Nam” (44, 234). Tại Sài Gòn, Lodge trách mắng Diệm “đừng phá hoại các cố gắng chiến tranh của Mỹ” (2). Mặt khác, trong tháng 10, Mỹ gia tăng áp lực kinh tế bằng cách cắt bỏ viện trợ cho lực lượng đặc biệt của Nhu và một phần “viện trợ thương mãi hóa”. Mỹ còn tạo ra những động tác đánh lừa Diệm về tình hình, như Mỹ đồng ý cho Diệm tổ chức bầu cử “quốc hội”; Lodge báo tin cho Diệm hay y về Mỹ để thảo luận lại chính sách đối với Diệm; Đô đốc Felt, Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đi dự Hội nghị Đông-Nam Á, đến Sài Gòn. Cả Felt và Lodge giả vờ ghé thăm Diệm vào sáng ngày 1-11-1963.

Miếng đất tốt cho một cuộc đảo chánh quân sự đã được Mỹ chuẩn bị ráo riết bằng mọi cách. Ngày 1-11-1963, cuộc đảo chánh thực sự đã diễn ra. Anh em Diệm-Nhu bị giết chết. Chế độ độc tài gia đình trị NĐD sau 9 năm thống trị miền Nam bị sụp đổ. Phong trào PG miền Nam nói chung, phong trào PG Sài Gòn kết thúc.

* * *


Đối diện với “cái khổ” của dân tộc và đạo pháp bị ngoại bang dày xéo, bị bàn tay bạo quyền thống trị, Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn cũng như Tăng Ni, Phật tử trên toàn miền Nam đã cùng với nhân dân miền Nam buộc phải đứng dậy đấu tranh. Bạo quyền NĐD đã sử dụng hết mọi phương kế để bóp chết phong trào từ trong trứng nước, nhưng cái đức của PG: “Từ bi, cứu khổ cứu nạn, vô ngã vị tha” vốn được nuôi dưỡng từ mạch sống của dân tộc, đã vươn dậy cùng với cả dân tộc quật khởi. Chính quyền NĐD bị đánh đổ.

Nhìn lại lịch sử dân tộc và lịch sử PG kể từ khi được du nhập vào nước ta, điều khẳng định là trên cả hai bình diện dựng nước và giữ nước cũng như trong đấu tranh chống bất công cường quyền, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam đã khẳng định là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đã góp tiếng nói và công sức vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn năm 1963 góp thêm một cứ liệu hùng hồn chứng minh cho nhận định trên đây.

Điều cần nhấn mạnh thêm là Sài Gòn - thủ đô của “Việt Nam Cộng hòa”, cứ điểm vững mạnh nhất cả về mặt chính trị và quân sự của Mỹ-Diệm, nơi mà anh em Diệm-Nhu dốc hết sức lực để đàn áp, khủng bố, nhưng qua thực tế đấu tranh cho thấy Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn đã đóng trọn ý nghĩa vị trí tiền tiêu của mình trong phong trào PG miền Nam năm 1963, góp phần rất xứng đáng trong cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền NĐD.«





CHÚ THÍCH

(*) 5 nguyện vọng như sau : 1- Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ của PG ; 2- Yêu cầu PG phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên Chúa đa được ghi trongDụ số 10 ; 3- Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG ; 4- Yêu cầu cho Tăng, tín đồ PG được tự do truyền đạo và hành đạo ; 5- Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.
Tài liệu tiếng Việt
1- Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ PG Việt Nam đọc trong cuộc metting của Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, ngày 10-5-1963. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.
2- Hồng Chuyên. Từ lâu Mỹ đã chuẩn bị đảo chính quân sự để thay Diệm. Báo Nhân Dân, ngày 3-11-1963, tr.3.
3- Công văn số 16 ngày 17-7-1963 của UBLB gởi TT Thích Thiện Minh, Trưởng phái đoàn PG. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.HS.8353.
4- Diễn từ của HT Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam, sau lễ hỏa thiêu nhục thân của HT Thích Quảng Đức. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
5- Kiêm Đạt. Chiến tranh Việt Nam. Nxb Đại Nam, Chicago, Illinois, USA, 1992.
6- Đó là một bằng chứng hùng hồn nhất về sự suy yếu, lúng túng, cô lập của chính quyền Diệm (Tuyên bố của MTDTGPMNVN ngày 22-8-1963). Tuần báo Thống Nhất, số 323, ngày 30-8-1963, tr.3.
7- Thích Mãn Giác. Ông René De Berval. Nguyệt san Liên Hoa, Huế, ngày 27-2-1963.
8- Tuệ Giác. Việt Nam PG tranh đấu sưã. Nxb Hoa Nghiêm, Sài Gòn, 1964.
9- Trần Văn Giàu. Miền Nam giữ vững thành đồng, tập II. Nxb Khoa học, Hà Nội, 1966.
10- T.H. Nội tình nhà Diệm đang rối ren nghiêm trọng. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 15-8-1963, tr.4.
11- Hành động phát-xít của Mỹ-Diệm đàn áp đồng bào Pg miền Nam đang bị dư luận thế giới lên án. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 15-6-1963, tr.1.
12- Hiệu triệu của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (18-7-1963). Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8468.
13- Kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Tổng hội PG tại Thừa Thiên. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8466, tr.1-5.
14- Kiến nghị của 5 vị TT ở Huế gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8466.
15- Nguyễn Lang. Việt Nam PG sử luận, tập III. Nxb Văn học, Hà Nội, 1994.
16- Lá tâm thư ngày 9-5-1963 của TT Thích Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi quý HT, TT, ĐĐ Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
17- Lời hiệu triệu của Đoàn Sinh viên Liên giáo gởi toàn thể sinh viên, học sinh Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
18- Lời tuyên bố ngày 28-8-1963 của Hồ Chủ tịch về tình hình miền Nam Việt Nam hiện nay. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 29-8-1963, tr.1.
19- Lửa căm hờn đang rực cháy. Xã luận báo Nhân Dân, ngày 13-6-1963, tr.1.
20- Hùng Lý. Cửa từ bi nổi cơn phẫn nôå. Báo Nhân Dân, ngày 12-6-1963, tr.4.
21- MTDTGPMNVN kêu gọi đồng bào và tín đồ theo đạo Phật nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh. Báo Nhân Dân, ngày 22-6-1963, tr.4.
22- M.N. Về vai trò của PG miền Nam trong cuộc lật đổ chế độ độc tài NĐD. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 89, tháng 8-1966, tr.4-10.
23- Thích Đức Nghiệp. Hồi ký đặc biệt về vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức. Đạo Phật Việt Nam. Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, 191-210.
24- Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III. Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.
25- Những văn kiện chủ yếu của MTDTGPMNVN (từ 12-1963 đến 10-1964). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1964.
26- Quốc Oai. PG tranh đấu. Nxb Tân Sanh, Sài Gòn, 1964.
27- Phiếu đệ trình số 0289/QĐ III/VPTL ngày 22-8-1963 của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tư lệnh vùng III chiến thuật, kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS 209.
28- Tâm Phong. Nhớ lại cuộc vận động của PG. Tuần báo Hải Triều Âm, số 20, ngày 24-8-1963, tr.10-11.
29- Tâm Phong. Nhớ lại cuộc vận động của PG. Tuần báo Hải Triều Âm, số 18, ngày 30-8-1963, tr.5.
30- Tâm Phong. Nhớ lại cuộc vận động của PG. Tuần báo Thiện Mỹ, số 1, ngày 27-11-1963, tr.12.
31- Sắc lệnh ngày 20-8-1963 tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04 KS.8468.
32- Tài liệu rải ngoài đường và trong trường học. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS.686.
33- Nam Thanh. Cuộc đấu tranh của PG Việt Nam. Viện Hóa đạo, Sài Gòn, 1964.
34- Nguyễn Thanh. Sự thật cuộc đấu tranh PG Việt Nam. Nxb Hoa Đạo, Sài Gòn, 1964.
35- Thông bạch số 84 ngày 16-7-1963 của Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi toàn thể Tăng đồ và tín đồ trong nước. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
36- Thông bạch của HT Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam và của UBLPBVPG gởi toàn thể PG đồ trong nước nhân ngày lễ chung thất của HT Thích Quảng Đức. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
37- Thông điệp của Tổng thống gởi đồng bào thủ đô, ngày 11-6-1963. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8464.
38- Thư văn của phái đoàn PG Việt Nam gởi ông Bộ trưởng Công dân vụ ngày 17-5-1963. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
39- Thư văn số 83 ngày 14-7-1963 của HT Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
40- Thư văn của TT Thích Tâm Châu gởi, Chủ tịch UBLPBVPG gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
41- Thư ngày 24-7-1963 của đại diện một nhóm sinh viên và thanh niên Thiên Chúa giáo tại Sài Gòn gởi đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican tại Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
42- Tin về hoạt động tôn giáo (mật) số 17357/TCSQG/CII/2/M ngày 24-8-1963. Bộ Nội vụ, Nha Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS.686.
43- Quốc Tuệ. Công cuộc đấu tranh của PG Việt Nam. Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964.
Tài liệu tiếng Anh
44- Hammer, Ellen J. A Death in November (American in Vietnam in 1963). E.p.Dutton, New York, USA, 1987.
45- Nivolon, Francois. The Vietnam Buddhist Crisis. Far Eastern Economics Review, No.2, Volume XLI, July 11, 1963.
46- Schecter, Jerrold. The New Face of Buddha. John Weatherhill, Tokyo, 1967.
Ý kiến bạn đọc
11/12/201823:31
Khách
Bài viết theo luận điệu tuyên truyền của cs toàn là Mỹ Diệm ,chúng ta người Phật tử Vn có những niềm Đau khi vc chiếm Miền Nam chúng đàn áp khắc nghiệt hơn ,thời NĐD ,các ni sư tự thiêu tại Chùa được sư chống đàn áp của csvn. Và cái Chết của Hoà thượng Thích thiện Minh tại trai giam Hàm tân năm 1978 và Hoà Thượng Thích trí Thủ ,Tất cả cơ sở Phật giáo bị tịch biên ,cộng sản Vn tàn đọc hơn NĐD Thời NĐD còn có Quốc tế can thiệp và quan tâm , cho nên dù sao chính quyền Miền Nam vẫn tốt hơn tụi cs bây giờ nhiều lần chế độ ông Diệm có những cái xấu và sai trái , nhưng người Dân còn được xuống đường chống chế độ và đạp đỗ chế độ đó ,còn bây giờ ông Lê cung viết như con Vẹt ,toàn là Mỹ Diệm ,nhân dân ta ,coi xong muốn chữi ,Phật giáo thời ông Diệm bị đàn áp Dân miền nam đã cùng quân đội dẹp bõ không cần bọn ăn ké cs nhào vào tung hê ./
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567