Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9-5. Bố tát và thuyết giới

22/04/201317:21(Xem: 7586)
9-5. Bố tát và thuyết giới

NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001

TOÀN TẬP

TÂM NHƯ TRÍ THỦ

--- o0o ---

TẬP 2

LUẬT TỲ KHEO

YẾT MA YẾU CHỈ

Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ Soạn

CHƯƠNG NĂM

BỐ TÁT VÀ THUYẾT GIỚI

TIẾT MỘT

DUYÊN KHỞI VÀ Ý NGHĨA

Luật Tứ phần, chương nói về sự thuyết giới, có ghi duyên khởi thuyết giới như sau: ([1])

Lúc bấy giờ, đức Phật trú tại Vương xá thành, nước Ma kiệt đà. Các nhóm ngoại đạo tại đây cứ mỗi tháng trong các ngày mồng 8, 14, 15, 23, 29 và 30, cùng tập họp về một chỗ để cùng giảng đạo, và thọ dụng các sự cúng dường các đệ tử tại gia. Không khí sinh hoạt của họ vào ngày ấy rất thân mật.

Vào một hôm, lúc vua Tần bà sa la, đệ tử tại gia của Phật đang ngự trên lầu hoàng cung, nhìn thấy các nhóm ngoại đạo đang tụ tập về một chỗ như vậy, bèn tự nghĩ rằng: "Trong thành này, những người Phạm chí mỗi tháng tụ họp sáu ngày, trong không khí thân mật như thế. Nếu chúng tỳ kheo đệ tử Phật cùng tụ họp như vậy thì phước lạc cho những người đệ tử tại gia biết bao.” Rồi nhà vua ngự đến chỗ Phật đang ngụ, trình bày ý nghĩ của mình, đức Thế Tôn chấp nhận sự đề nghị bằng cách im lặng.

Sau khi vua Tần bà sa la rời chỗ ngồi trở về hoàng cung đức Thế Tôn gọi các tỳ kheo đến và chấp thuận cho chúng tỳ kheo hành sự bố tát.

Bố tát là dịch âm từ tiếng Phạn Posadha. Từ này là một dạng hỗn chủng của tiếng Phạn Phật giáo; trong Pàli nó được nói là uposatha. Từ này trong tiếng Phạn tiêu chuẩn được gọi là upavasatha, nghĩa đen của từ này là "sống gần" hay "ngày phụng sự.” Nguyên lai trong truyền thống Vệ đà mỗi tháng thường có những ngày hiến tế lễ Soma. Trước đó một ngày, tế sư phải dọn mình bằng cách nhịn ăn, tiết chế các thứ dục lạc, và vào trong hỏa thất, tức ngôi nhà thờ lửa. do ý nghĩa này, từ upavasatha được hiểu theo nghĩa bóng là "ngày kiêng cữ" hoặc "ngày nhịn ăn" hoặc nói theo Hán "ngày trai.” Tục lệ các ngày trai như vậy có trong nhiều tôn giáo. Ngay ở Trung quốc, khi các vua chúa muốn cử hành các lễ tế thiên địa hay tông miếu, thường phải có những ngày gọi là trai giới.

Như vậy, đức Phật đã chấp nhận ngày trai giới trong tập tục của truyền thống Vệ đà, nhưng hướng đến mục đích khác hơn. Ngày đó các tỳ kheo cùng sống trong một cương giới đều phải tập họp lại một chỗ để thuyết giới, tức đọc giới bổn Ba la đề mộc xoa. Từ đó, bố tát và thuyết giới trở thành phận sự thường xuyên và định kỳ mà một tỳ kheo không thể thiếu sót. Nếu thiếu sót, tỳ kheo ấy phạm tội ba dật đề và phải được xử trị như pháp.

Luật tạng cũng có kể rằng, vào một lúc nọ tôn giả Đại Kiếp tân na đang trú ở một nơi thanh vắng, đến kỳ tăng thuyết giới, tôn giả tự nghĩ rằng mình vốn là người trì giới thanh tịnh thì sự nghe thuyết giới xét ra không cần thiết. Nhưng biết được ý nghĩa này, Phật đã đích thân đến bảo tôn giả rằng: "Này Kiếp tân na, quả thật điều ngươi nghĩ dù ngươi có đến nghe thuyết giới hay không nghe thuyết giới thì ngươi vẫn là người thanh tịnh bậc nhất. nhưng này Kiếp tân na, đối với việc thuyết giới, ngươi phải cung kính, tôn trọng và chấp hành. Nếu ngươi không cung kính, tôn trọng và chấp hành thì còn ai sẽ là người cung kính, tôn trọng, chấp hành sự thuyết giới? ([2])

Nhưng thuyết giới là thuyết những gì? Luật tạng cho biết đây cũng là câu hỏi mà các tỳ kheo đã từng hỏi Phật, khi Ngài thiết lập sự thuyết giới định kỳ nửa tháng. Khi được các tỳ kheo hỏi như vậy, Ngài chỉ dạy, đó là ngày chúng tỳ kheo hòa hiệp tụng đọc ba la đề mộc xoa, và nội dung của Ba la đề mộc xoa ấy được rút gọn trong bài kệ:

Không làm các điều ác,

Thực hành các điều thiện.

Giữa tâm ý trong sạch,

Chư Phật dạy như vậy.

Ba la đề mộc xoa được lưu truyền giữa các bộ phái khác nhau không phải chỉ đơn giản có như thế. Nó là một hệ thống những điều cấm kỵ, qui định những trường hợp vi phạm và không vi phạm, cùng các hình thức xử trị và sám hối cho những tỳ kheo vi phạm. Nói cách khác, đây là bộ luật của tăng. Khi bộ luật này được hoàn chỉnh thành hệ thống gồm năm thiên và bảy tụ, thì việc thuyết giới không còn đơn giản là đọc bài kệ bốn câu như đã nói. Thuyết giới kể từ bây giờ là đọc lại toàn bộ ba la đề mộc xoa ấy. Tỳ kheo nào trong nửa tháng có vi phạm điều nào trong đó, phải sám hối và tùy theo tội nặng nhẹ đã được quy định mà sám hối cho đúng pháp.

Tuy vậy, định kỳ thuyết giới không có nghĩa là định kỳ sám hối. Bởi vậy, theo nguyên tắc cơ bản của việc chấp hành các học xứ, thì khi nào một tỳ kheo tự thấy mình có tội, hay được người khác chỉ cho biết, thì phải sám hối ngay. Nếu trong ngày hôm đó mà không sám hối kịp, tội căn bản sẽ kéo theo một số tội tòng sinh khác, hoặc phú tàng hay cố ý vọng ngữ nặng hay nhẹ tùy theo trường hợp.

Vậy thì, định kỳ thuyết giới có mục đích gì?

Chúng ta biết rằng, tăng đoàn đệ tử của Phật được thiết lập trên nguyên tắc hòa hiệp và dân chủ. Ba la đề mộc xoa là sợi dây ràng buộc các thành viên của cộng đồng tăng lữ bằng kỷ luật tu đạo vào đời sống hòa hiệp tập thể. Việc thuyết giới định kỳ là biểu hiện của đời sống ấy. Nơi trú xứ mà các tỳ kheo không hòa hiệp thuyết giới theo định kỳ nửa tháng, nơi ấy tăng đoàn được coi là bị chia rẽ. Do vậy, việc thuyết giới định kỳ có mục đích chủ yếu là duy trì sinh mạng tồn tại của tăng đoàn theo tinh thần hòa hiệp và thanh tịnh. Duy trì sự hòa hiệp và thanh tịnh này là bổn phận tất yếu, không thể thiếu sót của bất cứ tỳ kheo nào.

Ngoài ra, ngày bố tát không những chỉ giới hạn trong sự thuyết giới của tăng. Nó cũng được mở rộng cho các đệ tử tại gia dưới hình thức thọ trì tám học xứ, gọi là giới cận trụ, trong thời hạn một ngày một đêm. Chính do sự kiện này mà từ ô ba bà na (upavasatha) hay bố tát (posatha) được hiểu theo một ý nghĩa rất rộng rãi. Ý nghĩa này được phân tích theo luận Câu xá như sau: ([3])

Trước hết, về từ ô ba bà sa, tiếng Phạn là Upavasathaxét về một từ nguyên, có nghĩa là cận trụ, tức "sống gần', và sống gần ở đây có nghĩa là "gần gũi đời sống cao thượng của thánh giả A la hán.” Như chúng ta đã biết, theo nguyên nghĩa, ngày cận trụ là ngày một đệ tử dọn mình cho thanh tịnh để phụng sự, và do đó, cận trụ, theo nghĩa bóng lại được hiểu là trai, tức kiêng cữ. Sự kiêng cữ chủ yếu là tiết chế ăn uống và các sự hưởng thụ dục lạc khác. do vậy, tám giới cận trụ cũng được gọi là bát quan trai giới.

Thứ nữa, về từ bố tát, phiên âm của từ tiếng Phạn posatha. Đây là từ ngữ có hình thái của tiếng Phạn hỗn chủng của đạo Phật, mà pàli đọc là uposatha, và tiếng phạn cổ điển của nó là upavasathanhư đã biết. Tuy vậy, từ posatha này cũng được luận Câu xá giải thích rằng nó xuất phát từ hai động từ PUS: nuôi lớn, và DHÀ: đặt để hay duy trì. Do ý nghĩa này, Hán dịch nó là trường tịnh, tức nuôi lớn sự thanh tịnh hay các thiện pháp.

Nói tóm lại, ngày bố tát theo phạm vi nghĩa rộng, là ngày trao giới để dọn mình, và trường tịnh để nuôi lớn thiện pháp, là ngày mà các đệ tử tại gia tham dự đời sống tu đạo để học tập theo nghĩa hẹp, giới hạn trong phạm vi sinh hoạt của Tăng, thì đó là ngày định kỳ thuyết giới, để duy trì và phát triển sinh mạng của Tăng trong tinh thần hòa hiệp và thanh tịnh.

---------------------------
TIẾT HAI

CÁC GIAI ĐOẠN TIẾN HÀNH

I. DỰ KỲ SÁM HỐI

Ngày bố tát của Tăng là ngày thuyết giới định kỳ, theo Phật chế, mỗi tháng hai lần, vào các ngày mười lăm và ba mươi hoặc hai mươi chín nếu tháng thiếu (tháng âm lịch). Mặc dù không được qui định rõ trong các bản luật, nhưng các luật sư Trung quốc thêm vào một ngày dự kỳ sám hối, được tiến hành trước ngày thuyết giới định kỳ một ngày. Mục đích của việc dự kỳ sám hối này là để kiểm điểm việc trì giới của các tỳ kheo trong nửa tháng qua. Tỳ kheo nào có tội mà chưa kịp sám hối thì phải như pháp mà sám hối. Tỳ kheo nào có tội nhưng không biết hay không nhớ do cố ý phú tàng hay vị thông suốt các học xứ, sẽ được các tỳ kheo chỉ điểm cho để sám hối cho trong sạch. Bởi vì việc chỉ điểm sự vi phạm học xứ không phải đơn giản, không phải chỉ xét theo tội danh và tội tướng là đủ. Bằng sáu tội danh và tội tướng còn phải xét đến các điều kiện hoàn cảnh, động cơ vi phạm, quá trình tâm lý và hành động trước khi vi phạm, trong và sau khi vi phạm. Do những điều kiện phức tạp ấy mà việc định tội thường gây tranh luận và tranh chấp, đôi khi nó đưa đến sự chia rẽ trong Tăng. Để tránh sự kiện này có thể xảy ra ngay trong lúc thuyết giới, làm tổn thương sự hòa hiệp của Tăng, do đó cần có dự kỳ sám hối.

Dự kỳ sám hối nếu được thực hiện đầy đủ chi tiết thì nó cũng tương đương với sự thuyết giới, duy chỉ không có tác pháp yết ma. Tức là, trong dự kỳ sám hối, kiểm điểm xem các học xứ có tỳ kheo nào vi phạm mà không biết, hay biết mà cố ý che giấu và không chịu sám hối. Khi một tỳ kheo bị kết tội, theo một tội danh nào đó, gồm cả tội căn bản và các tội tòng sanh, vị ấy phải sám hội cho thanh tịnh trước khi Tăng thuyết giới.

Các hình thái vi phạm, các biện pháp xử trị, và các phương pháp sám hối, đều được qui định trong giới bổn tỳ kheo, ở đây xin phép khỏi nhắc đến.

Trong nguyên tắc sám hối, người có tội phải hướng đến người thanh tịnh, nói rõ tội danh mình phạm mà sám hối. Nếu trong một trú xứ mà toàn thể Tăng đều phạm tội, hay nghi ngờ có phạm tội mà chưa kịp có đủ thời gian để thẩm cứu, thì phải thỉnh một tỳ kheo thanh tịnh ở trú xứ khác đến để tác pháp sám hối cho. Nếu không thể thỉnh được tỳ kheo thanh tịnh nào đến, thì tăng ở đây phải sai hai hoặc ba tỳ kheo sang trú xứ khác có tỳ kheo thanh tịnh mà xin tác pháp sám hối. Sau khi tác pháp, các tỳ kheo này được coi là thanh tịnh, sẽ trở về trú xứ của mình mà tác pháp cho các tỳ kheo khác. Thảng hoặc, không thể thỉnh cũng không thể sai, thời gian gấp rút, hay vì lý do nào khác, toàn thể Tăng trong trú xứ này phải tac1 pháp yết ma sám hối tập thể.

II. NHẬT KỲ SÁM HỐI

Theo phạm vi rộng rãi, thì mỗi tháng có từ 4 đến 8 ngày bố tát, gồm các ngày 7 và 8, 14 và 15, 22 và 23, 29 và 30. Đây là những ngày để cho chúng đệ tử tại gia thọ giới cận trụ, học tập đời sống xuất gia. Nhưng trong sinh hoạt của Tăng, mỗi tháng chỉ có hai ngày bốt tát, là những ngày định kỳ thuyết giới. Đây là định kỳ bắt buộc.

Nếu có những trường hợp nạn duyên, tức những tai họa bất ngờ xảy đến cho Tăng, không thể giữ đúng hạn kỳ thuyết giới, thì ngày thuyết giới có thể triển hạn, dời sang ngày khác. Những tai họa được kể là do vua chúa đưa đến, do đạo tặc, do nước, do lửa, do bệnh, do người, do ma quỉ, hay do ác thú. Việc thuyết giới không tác pháp được trong hai ngày theo định kỳ chính thức mà thực hiện trong khoảng giữa hạn kỳ này với hạn kỳ sau, được gọi là trung gian bố tát. Trừ hai ngày chính thức trong tháng, và một ngày trước ngày đó những ngày còn lại đều được gọi là trung gian. Như vậy, nếu hạn kỳ 15 phải thuyết giới, nhưng do tai họa bất ngờ, việc thuyết giới được dời sang ngày 16, hoặc ngày thuận tiện nào đó trong những ngày tiếp theo, triển hạn lâu nhất đến ngày 28 hoặc 27 nếu tháng thiếu. Nếu thuyết giới vào ngày 30 bị đình chỉ, thì sự triển hạn cũng tương tợ, và lâu nhất là đến ngày 13. Theo đó thì việc thuyết giới không được tiến hành trong hai ngày liên tiếp nhau; mà cần phải cách khoảng ít nhất một ngày. Có hai lý do cần phải có ngày cách khoảng này. Thứ nhất, trong trường hợp phạm vi cương giới rộng rãi, một tỳ kheo ở xa giới trường nhất phải đi bộ hết một ngày mới đến được địa điểm thuyết giới, thì việc thuyết giới cách nhật như vậy mới có đủ thời gian để tập hợp các tỳ kheo. Thứ hai, cũng nói là để có đủ thời gian tác pháp sám hối, hầu có sự thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng trước khi thuyết giới.

Như vậy, nếu hạn kỳ chót của ngày trung gian bố tát mà Tăng vẫn chưa thuyết giới được, thì sự thuyết giới của định kỳ trước sẽ được hợp làm một với định kỳ sau. Trong một định kỳ, tại một trú xứ, không được thuyết giới hai lần. Sự thuyết giới hai lần trong một định kỳ là dấu hiệu sự chia rẽ trong Tăng, do đó tuyệt đối không được phép làm.

Việc triển hạn ngày thuyết giới, ngoài lý do vì tám tai họa bất ngờ như đã kể, còn có một lý do trọng yếu khác. Đó là tranh chấp giữa Tăng chưa được giải quyết. Sự tranh chấp này phần lớn do tranh luận để kết tội một tỳ kheo vi phạm một học xứ nào đó. Nếu sự tranh chấp này được giải quyết êm đẹp, khiến Tăng hòa hợp như cũ trước khi thuyết giới, thì bấy giờ Tăng cần phải tác pháp yết ma đình chỉ tranh chấp để cùng thuyết giới chung. Văn bạch yết ma như sau:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Chúng tăng do bởi tránh sự khiến xảy ra tranh chấp, khiến Tăng không hòa hợp. Tăng bị tan vỡ, Tăng bị hoen ố, tăng bị chia rẽ thành hai nhóm. Nay người phạm tội đã nhận biết mình phạm tội, và đã sám hối, sự hoen ố của Tăng đã được diệt trừ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp thuận hòa hiệp thuyết giới. đây là lời tác bạch.

Bạch yết ma được thành tựu như vậy rồi. Tăng mới cùng hòa hợp thuyết giới như thường lệ. Thảng hoặc, tại một trú xứ nào đó, các tỳ kheo ở đây đang hòa hợp và không có dấu hiệu gì để phải triển hạn ngày thuyết giới. Nhưng bất ngờ các tỳ kheo ở đây hay biết rằng có một số tỳ kheo ở các trú xứ khác ưa tranh chấp hay đang tranh chấp và đang đến trú xứ này để thuyết giới. Muốn tránh sự tranh chấp có thể xảy ra khiến Tăng không thể hòa hợp thuyết giới, thì các tỳ kheo ở trú xứ này nên thuyết giới trước một ngày, trước khi các tỳ kheo các trú xứ kia đến. Như định kỳ thường xuyên là ngày 15 thì việc thuyết giới nên nói vào ngày 14. Trường hợp không tiên liệu trước sự việc xảy ra như vậy để thuyết giới trước, mà trong lúc các tỳ kheo tại trú xứ này đang tập họp vào giới trường để tác pháp thuyết giới, bấy giờ mới nhận biết, thì các tỳ kheo thường trú tại trú xứ này có thể âm thầm rút lui khỏi giới trường, ra ngoài phạm vi đại giới, kết tiểu giới để thuyết giới; nhường lại giới trường và cả đại giới cho nhóm tỳ kheo khách đang có vấn đề tranh chấp ấy. Nếu có thể rút lui khỏi giới trường và đại giới, thì Tăng thường trú nên tác pháp yết ma dời ngày thuyết giới. Văn bạch yết ma như sau:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận ngày hôm nay tăng không thuyết giới, mà dời lại đến ngày 14 (hay15) tháng đen (haytháng trắng) sẽ thuyết giới. Đây là lời tác bạch.

Sau khi tác pháp dời ngày thuyết giới đến hết ngày triển hạn mà nhóm tỳ kheo khách vẫn chưa dời đi chỗ khác khiến Tăng thường trú không thể hòa hợp thuyết giới, thì Tăng ở đây lại tác pháp dời thêm ngày nữa. Văn bạch như sau:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng chấp thuận ngày hôm nay Tăng không thuyết giới, mà dời lại đến ngày 15 (hay) tháng trắng (haytháng đen) sẽ thuyết giới. Đây là lời tác bạch.

Nếu dời thêm một hạn kỳ như vậy nữa mà nhóm tỳ kheo khách vẫn chưa chịu đi khỏi, thì Tăng thường trú cần áp dụng luật cưỡng bức các tỳ kheo khách ấy phải hòa hợp thuyết giới.

III. TẬP TĂNG HÒA HỢP

Theo nguyên tắc chung, mỗi loại yết ma đều có bốn trường hợp cần nghiệm xét để biết thành tựu hay không thành tựu. Bốn trường hợp tổng quát này là:

1.biệt chúng phi pháp;

2.biệt chúng như pháp;

3.hòa hợp phi pháp;

4.hòa hợp như pháp.

Trong đó, trường hợp thứ tư được nói là yết ma thành tựu. Yết ma thuyết giới cũng không ngoàibốn trường hợp tổng quát vừa nêu. Chi tiết các trường hợp này đã được nói trong chương I, nên không nhắc lại.

Để cho yết ma thuyết giới được thành tựu, khi tác pháp cần phải cứu xét cẩn thận các trường hợp biệt chúng và phi pháp. Trong văn để thuyết giới, vì đây là loại tác pháp định kỳ thường xuyên, và là phận sự của tất cả tỳ kheo không trừ một ai, do đó có một vấn đề riêng biệt không giống các loại yết ma khác.

Muốn cho Tăng hoàn toàn hòa hợp thuyết giới, có bốn vấn đề cần lưu ý: địa điểm thuyết giới, thời gian, nhân số và phương thức tập hợp. Địa điểm thuyết giới là giới trường và đại giới sống chung của tỳ kheo trong cùng một trú xứ. Vấn đề này đã được nói rõ trong chương II, về cương giới. Thời gian thuyết giới là các ngày định kỳ bố tát của Tăng cũng đã được nói rõ ở đoạn trên. Nhân số, là số tỳ kheo sống chung cùng trú xứ; trong đây có vấn đề kiểm điểm tăng số bằng phương pháp hành xá la, tức đếm thẻ, và việc gởi dục của các tỳ kheo vì những duyên sự chính đáng không dự nghe thuyết giới. Về phương thức tập họp, là sự đánh hiệu kiền chùy; điều này cũng đã được nói rõ trong chương I, tổng quát về các thủ tục tiến hành tác pháp yết ma. Trong mục này, sẽ chỉ nói riêng về vấn đề hòa hợp. Việc kiểm điểm tăng số bằng cách đếm thẻ và việc gởi dục cũng như thuyết dục sẽ được nói trong các mục kế tiếp.

Trước khi đi vào một số chi tiết trong vấn đề tập tăng hòa hợp, ở đây cần nhắc lại điều đã được nói trong chương I, đó là: hai phân loại tổng quát về Tăng, gồm tăng thường trú và Tăng chiêu đề. Tăng thường trú là một cộng đồng gồm các tỳ kheo cùng sống chung trong một cương giới già lam trong một khoảng thời gian nào đó. Đời sống nguyên thủy của tỳ kheo, không hề định cư lâu dài tại một trú xứ. Do sự phát triển chế độ tăng viện về sau, có những tỳ kheo định cư hoặc vĩnh viễn hoặc lâu dài tại một trú xứ. Dù vậy trong tinh thần luật chế, tăng thường trú không phải là chủ nhân của trú xứ ấy. Cho nên, khi có vấn đề tăng sự gì xảy ra cần giải quyết theo các nguyên tắc của luật chế, tại một trú xứ nào, thì sự giải quyết phải dựa trên tinh thần dân chủ và bình đẳng, không phân biệt tăng thường trú hay tăng khách mà tất cả đều có những quyền lợi và những bổn phận ngang nhau.

Còn Tăng chiêu đề, tức tăng bốn phương, chỉ cho các tỳ kheo không thuộc về một trú xứ nào cả. Họ đến hay đi tùy sở thích, tùy nhu cầu hành đạo và hóa đạo. Nhưng khi họ đến một trú xứ nào, thì họ được coi là thuộc trú xứ đó, cùng dự các tăng sự và cùng được phân chia đồng đều các lợi dưỡng ngang như các tỳ kheo thường trú ở đó. Quyền lợi và bổn phận của họ trong vấn đề thuyết giới cũng vậy.

Như vậy, không có trú xứ nào thuộc hẳn về nhóm tăng nào làm chủ, dù là Tăng thường trú hay tăng chiêu đề. Điều này cần ghi nhận để có thể hiểu rõ các sự việc có thể xảy ra sau đây.

Về hạn kỳ thuyết giới. Tại một trú xứ, các tỳ kheo thường trú ở đây tất nhiên có định kỳ thuyết giới theo sự thuận tiện của họ. Nếu không có duyên sự bất ngờ nào xảy ra, đến định kỳ thuyết giới, các tỳ kheo thường trú của trú xứ này tập tăng hòa hợp thuyết giới theo thường lệ. Nhưng nếu vào ngày thuyết giới, có một số tỳ kheo từ các trú xứ khác đến, hoặc các tỳ kheo thuộc tăng chiêu đề đến dự thuyết giới, thì hạn kỳ thuyết giới cần được giải quyết linh động tùy theo yêu cầu. Thí dụ, các tỳ kheo thường trú theo thông lệ thuyết giới vào ngày 15. Nhưng ngày 14 có các tỳ kheo đến, họ muốn thuyết giới vào ngày 14 để có thể phù hợp với hoàn cảnh của họ. Trong trường hợp này, nếu số tỳ kheo thường trú ít hơn tỳ kheo khách, thì thẩm quyền thuộc về sự đồng ý chung của các tỳ kheo khách, mà thuyết giới vào ngày 14. Trái lại, nếu số tỳ kheo khách ít hơn họ phải tuân theo thông lệ và quyết định của các tỳ kheo thoe thường trú. Chúng ta cũng nên nhắc lại rằng, trong một nửa tháng, tại một trú xứ không được phép có hai ngày thuyết giới trừ trường hợp trung gian thuyết giới nhưng cũng không được phép thuyết giới trong hai ngày liên tiếp. Nói đơn giản, tỳ kheo thường trú không thể tự nói mình là chủ nhân của trú xứ mà tự quyết định thuyết giới hay không thuyết giới vào ngày nào, bất chấp ý kiến của tỳ kheo khách.

Về thể thức thuyết giới: Trong khi các tỳ kheo đang thuyết giới, có một số các tỳ kheo khách đến. Trường hợp này có một số chi tiết khác nhau.

Tỳ kheo khách, bất kể là một hay nhiều, khi đến một trú xứ nào mà nơi đó tăng đang thuyết giới, nhất thiết phải tham dự, không được phép ở ngoài. Nếu không tham dự, tỳ kheo này phạm tội biệt chúng, và cần được xử trị như pháp. Nếu họ đến trễ, khi Tăng đã tụng xong phần tựa, hay xong toàn bộ giới kinh, các tỳ kheo khách này phải bạch Tăng rằng mình thanh tịnh. Trong trường hợp số tỳ kheo khách bằng hay đông hơn số tỳ kheo đang thuyết giới, họ có thể yêu cầu thuyết lại từ đầu, nhưng chỉ đọc từ phần tựa trở xuống chứ không bạch yết ma nữa.

Ở trú xứ nào chỉ có một cho đến ba tỳ kheo thường trú, không thể tác pháp yết ma thuyết giới, đến ngày thuyết giới các tỳ kheo này dọn sẵn các chỗ ngồi nghe thuyết giới và chờ xem có tỳ kheo khách nào đến cho đủ số tăng thuyết giới. Nếu chờ không được, họ tác pháp đối thủ với nhau. Lần lượt một tỳ kheo này hướng đến hai tỳ kheo khác, hoặc lạy hoặc quỳ hoặc đứng chắp tay, tùy theo giới lạp lớn nhỏ và bạch rằng:

Bạch hai Đại đức, xin ghi nhận cho rằng, hôm nay là ngày 15 (hoặc14) tháng trắng (hoặcđen) ngày chúng tăng thuyết giới. Tôi tỳ kheo… thanh tịnh. (nói ba lần)

Hai tỳ kheo kia đáp: Thiện (hoặc nói: Lành thay)

Tỳ kheo tác pháp bạch: Nhĩ.

Nếu chỉ có hai tỳ kheo tác pháp với nhau thì chỉ nói: "bạch Đại đức…" bỏ tiếng "hai.” Nếu chỉ có một tỳ kheo duy nhất thì tác pháp tâm niệm thuyết giới; tự mình nói như vầy:

Hôm nay là ngày 15 (hay14) tháng trắng (hoặcđen) là ngày chúng tăng thuyết giới. Tôi tỳ kheo… thanh tịnh.(nói ba lần)

Ngày thuyết giới mà tỳ kheo nào không nói như vậy, phạm tội ba dật đề. Vào ngày thuyết giới, khi các tỳ kheo đến một trú xứ nào, phải lưu tâm nhận xét Tăng ở đây đã thuyết giới chưa. Khi đến một trú xứ, vào trong giới trường, thấy có dấu hiệu chuẩn bị thuyết giới, nhưng không thấy có tỳ kheo thường trú nào ở đó, các tỳ kheo khách phải đi tìm kiếm; nếu không tìm thấy, phải gọi lớn; nếu gọi mà cũng không thấy, họ có thể cùng nhau hòa hợp tác pháp thuyết giới như là những tỳ kheo thường trú vậy.

Còn các tỳ kheo thường trú, sau khi thuyết giới có việc cần đi phải dặn người ở lại, hoặc dặn sa di, hoặc dặn người giữ vườn rằng Tăng ở đây đã thuyết giới xong. Nếu hoàn toàn không có ai để dặn như vậy cả, họ phải làm dấu như rải hoa, hay viết giấy dán vào một chỗ nào đó để báo cho biết rằng ở đây đã thuyết giới. Như vậy, tránh cho các tỳ kheo khách đến biết rằng trú xứ này Tăng đã thuyết giới, bèn không hòa hiệp thuyết giới. Bởi vì cùng một trú xứ một ngày không được phép hai lần thuyết giới.

IV. VIỆC KIỂM TĂNG

Thủ tục kiểm tăng số, danh từ luật gọi là hành xá la hay hành trù, nghĩa là phát và đếm thẻ. Công dụng của việc hành xá la đã được nói trong chương I. Trong vấn đề thuyết giới ở đây, việc hành xá la có mục đích kiểm điểm số tỳ kheo hiện diện. Bởi vì tất cả các tỳ kheo cùng sống chung trong một trú xứ, trừ những vị có duyên sự đặc biệt thì phải gởi dục, còn tất cả phải tập họp nghe thuyết giới. Khi kiểm điểm tăng số nếu phát hiện có tỳ kheo nào vắng mặt không lý do, Tăng phải cho đi tìm khắp trong cương giới của trú xứ. Nếu tỳ kheo ấy đã ra khỏi trú xứ thì thôi, còn nếu đang ở trong phạm vi của trú xứ thì phải gọi đến. Tăng tập họp thuyết giới mà thiếu một tỳ kheo trong cùng trú xứ, Tăng yết ma bất thành, vì đây là dấu hiệu có sự chia rẽ trong Tăng.

Trong thời kỳ đức Thích tôn tại thế, và cả trong thời luật tạng, được hình thành, do sự ghi chép bằng văn tự chưa được phổ biến, cho nên phải dùng đến thẻ kiểm điểm tăng số. Người phát thẻ và thâu thẻ để đếm phải được Tăng sai. Thẻ được phát cho tất cả tỳ kheo hiện diện, luôn cả tỳ kheo thường trú và tỳ kheo khách, sau đó thâu lại và đếm để biết số tỳ kheo đang hiện diện là bao nhiêu. Tỳ kheo hành xá la xong, bạch trình Tăng biết kết quả.

Các công việc hành xá la này đều có yết ma cả, và đều kể chung là yết ma thuyết giới. Do đó, khi tác pháp chỉ có một tiền phương tiện chung. Tuy nhiên, ngày nay do sự tiện lợi của việc ghi chép, vấn đề kiểm điểm tăng số được tiến hành đơn giản hơn nhiều, và cũng rất chính xác. Bởi vì các tỳ kheo thường trú trong một trú xứ đều có danh sách cả. Khi dò theo danh sách này, có thể biết ai khiếm diện, có hay không có lý do chính đáng. Ngoài ra, các tỳ kheo khách từ các trú xứ khác đến, đều có thể thông báo cho người chấp sự của trú xứ sự hiện diện của mình. Vì những lý do như vậy nên hiện nay trong tác pháp yết ma thuyết giới mục hành xá la không mấy khi được thực hiện. Người chấp sự của tăng có bổn phận kiểm điểm tăng số, rồi trình tăng biết. Văn tác bạch tăng số như sau:

Bạch Đại đức tăng, hôm nay là ngày… tháng… ngày chúng tăng thuyết giới. Tôi đã kiểm điểm tăng số, gồm (bao nhiêu)sa di và (bao nhiêu)tỳ kheo.

V. GỞI DỤC VÀ THUYẾT TỊNH

Sau khi nghe tiếng hiệu kiền chùy, tất cả tỳ kheo trong cùng trú xứ phải vân tập vào giới trường để nghe thuyết giới, không một ai được phép khiếm diện, trừ những vị có duyên sự đặc biệt, như duyên sự Tam bảo, bịnh nặng, hay phải săn sóc người bịnh. Những vị này phải gởi dục và thuyết tịnh. Gởi dục nghĩa là gởi ý muốn của mình đến tăng. Ý muốn ở đây là sự nhất trí của mình về việc tăng yết ma thuyết giới. Thuyết tịnh là nhờ người trình lên Tăng rằng mình thanh tịnh, không có phạm học xứ nào. Khi gởi dục, gồm luôn cả thuyết tịnh.

Người nhận dục phải là một tỳ kheo sẽ hiện diện khi tăng tác pháp yết ma thuyết giới. Vị tỳ kheo nhận ducï có thể là hàng Thượng tọa hoặc trung tọa hay hạ tọa. Nhưng hàng Thượng tọa có thể không nhận dục nếu không muốn; còn các tỳ kheo khác không được phép không nhận dục. Tuy nhiên, để có sự thuyết dục giữa Tăng không phiền phức, thường việc nhận dục do một tỳ kheo phụ trách.

Thời gian để gởi dục và thuyết tịnh được thực hiện trong khoảng từ khi ánh sáng ban mai bắt đầu cho đến khi Tăng tác pháp. Nếu gởi dục xong mà sau đó người gởi dục mới ra khỏi phạm vi cương giới của trú xứ, trong lúc tăng đang thuyết giới thì sự thuyết dục bất thành. Chỉ cần bước ra khỏi các đường ranh của trú xứ là việc thuyết dục đã bất thành, chứ không đợi phải đi đâu xa.

Việc gởi dục tổng quát có hai cách: bằng lời nói hoặc bằng cách ra dấu. Tức là, nếu người bịnh nặng không nói được, khi muốn gởi dục chỉ cần phát biểu một cử chỉ nào đó, bằng cách đưa tay ra dấu hay lấy mắt ra dấu, hay ra dấu bằng bất cứ động tác nào của thân thể, để người khác biết rằng mình muốn gởi dục. Văn gởi dục, muốn nói vắn tắt hay nói đầy đủ tùy ý, tùy hoàn cảnh của mình. Văn gởi dục đầy đủ được nói như sau:

Đại đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… vì (duyên sự). Tăng sự như pháp, xin gởi dục và thanh tịnh. (nói một lần)

Người nhận dục đáp: Thiện.

Người gởi dục nói: Nhĩ.

Trường hợp tỳ kheo bịnh nặng, cho đến cả việc ra dấu để gởi dục cũng không làm được, thì thế nào?

Theo luật chế, Tăng phải cho người khiêng tỳ kheo bịnh ấy vào giới trường. Nếu không thể khiêng, vì sự dao động làm đau nhức người bịnh và không có cách nào khác hơn nữa, thì Tăng phải ra khỏi phạm vi cương giới của trú xứ, kết tiểu giới mà thuyết giới. Nếu không có cách nào khác, thì không có thể biệt chúng thuyết giới. Sự việc này có mục đích tránh bất cứ dấu hiệu chia rẽ nào có thể xảy ra giữa Tăng.

Người nhận dục, sau khi đã nhận dục của các tỳ kheo khác, có công việc bất ngờ xảy đến cần phải ra khỏi trú xứ trước khi đi, phải chuyển việc thuyết dục đến một tỳ kheo khác. Văn chuyển việc gởi dục như sau:

Đại đức nhất tâm niệm. Tôi tỳ kheo… đã nhận sự gởi dục của tỳ kheo… Tỳ kheo kia, và bản thân tôi, vì (duyên sự)tăng sự như pháp, xin gởi dục và thanh tịnh. (nói 1 lần)

VI. YẾT MA CÔNG NHẬN BỆNH CUỒNG SI

Tỳ kheo cuồng si là người bất thường, nhưng không điên hay hoàn toàn mất trí. Vị ấy có khi nhớ và biết rằng Tăng thuyết giới bèn đến dự; hoặc có khi không nhớ và không đến dự. Nếu tỳ kheo tuy bất thường, nhưng luôn vẫn nhớ và biết việc Tăng thuyết giới, hoặc ngược lại, hoàn toàn không hay biết gì về việc ấy cả. Trong cả hai trường hợp vừa kể Tăng không tác pháp yết ma công nhận cuồng si cho tỳ kheo thứ hai này. Chỉ tác pháp cho trường hợp tỳ kheo đầu. Tỳ kheo tâm tánh thất thường nào đã được Tăng tác pháp yết ma công nhận là cuồng si rồi, khi Tăng thuyết giới, có nhớ thì đến dự, nhược bằng không nhớ thì thôi và không cần gởi dục dù vẫn ở trong phạm vi cương giới của trú xứ trong lúc Tăng thuyết giới mà không hề mang tội biệt chúng. Văn bạch yết ma như sau, tập Tăng, vấn đáp tiền phương tiện theo thông lệ. Tỳ kheo yết ma bạch Tăng:

Đại đức tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… kia tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ hoặc không nhớ việc thuyết giới, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp nhận tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo… kia là người tâm loạn cuồng si. Nếu khi Tăng tác pháp yết ma thuyết giới, tỳ kheo ấy có thể nhớ hay không nhớ, có thể đến dự hay không đến dự. Đây là lời tác bạch. Đại đức tăng, xin lắng nghe, tỳ kheo… kia tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ việc thuyết giới, hoặc không nhớ việc thuyết giới, đến dự hoặc không đến dự. Tăng nay tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo ấy là người tâm loạn cuồng si. Nếu khi Tăng thuyết giới, tỳ kheo ấy có thể nhớ, hoặc không nhớ, có thể đến dự hoặc không đến dự. Các trưởng lão nào chấp thuận, Tăng nay tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo ấy là người tâm loạn cuồng si, nếu khi Tăng tác pháp yết ma thuyết giới, tỳ kheo ấy có thể nhớ hay không nhớ, có thể đến dự hoặc không đến dự, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận, tác pháp yết ma công nhận tỳ kheo… là người tâm loạn cuồng ci, có nhớ hoặc không nhớ, có đến hoặc không đến dự thuyết giới, vì đã im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

Một thời gian sau, nếu tỳ kheo đã được công nhận là bất thường đó hết bệnh, Tăng cần tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si, để vị ấy trở lại sinh hoạt bình thường như các tỳ kheo khác.

Tập họp Tăng, vấn đáp tiền phương tiện như thông lệ. Tỳ kheo khỏi bịnh ấy bước ra đảnh lễ Tăng ba lạy rồi quỳ xuống, trình Tăng rằng mình đã lành bịnh cuồng si, yêu cầu Tăng tác pháp giải bịnh cuồng si cho.

Vị tỳ kheo yết ma nói:

Đại đức đã khỏi bịnh cuồng si, Đại đức nên thỉnh cầu Tăng tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si. Nếu Tăng chấp thuận, sẽ vì Đại đức mà tác pháp.

Tỳ kheo đương sự quì bạch Tăng:

Đại đức tăng, xin lắng nghe. Con tỳ kheo… trước đây mắc bịnh cuồng si, khi thuyết giới, hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Tăng đã vì con tác pháp yết ma công nhận bịnh cuồng si. Nay con đã khỏi bịnh cuồng si, trí nhớ đã phục hồi, cầu xin yết ma giải bịnh cuồng si. Ngưỡng mong Tăng vì con, tỳ kheo… tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si. Xin thương tưởng con. (nói ba lần)

Tỳ kheo yết ma bạch Tăng:

Đại đức tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… này, trứớc đây mắc bịnh cuồng si, khi thuyết giới, hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Tăng đã tác pháp yết ma công nhận bịnh cuồng si ấy. Nay bịnh cuồng si đã khỏi, tỳ kheo này cầu xin yết ma giải bịnh cuồng si. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng nay chấp thuận, Tăng tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si cho tỳ kheo… này. Đây là lời tác bạch.

Đại đức tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo… này trước đây mắc bịnh cuồng si, khi thuyết giới hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến dự hoặc không đến dự. Tăng đã tác pháp yết ma công nhận bịnh cuồng si ấy. Nay bịnh cuồng si đã khỏi, tỳ kheo này xin cầu yết ma giải bịnh cuồng si. Các Trưởng lão nào chấp thuận, Tăng nay tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si cho tỳ kheo… thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận tác pháp yết ma giải bịnh cuồng si cho tỳ kheo… vì đã im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

VII. GIÁO THỌ NI

Mỗi nửa tháng, các tỳ kheo ni phải sai người sang Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ. Đây là một trong tám kỉnh pháp, là nền tảng cho sự tồn tại của ni chúng. Theo tinh thần của điều khoản này, đức Phật trao trách nhiệm giáo dục các tỳ kheo ni cho các tỳ kheo về pháp và luật. Tỳ kheo nào không được tăng sai, không được phép tự ý sang dạy dỗ ni chúng. Nếu làm trái, là phạm ba dật đề. Như vậy, bổn phận của ni chúng là trong mỗi nửa tháng phải sai người sang tỳ kheo tăng thỉnh giáo thọ sư, và bổn phận của tỳ kheo tăng là phải sai người giáo thọ ni theo lời thỉnh cầu ấy.

Người được tăng sai giáo thọ ni phải đủ mười đức tánh:

1.đã đủ hai mươi hạ;

2.giới luật đầy đủ;

3.đa văn, kiến thức rộng rãi;

4.thông suốt hai bộ luật (tỳ kheo và tỳ kheo ni);

5.quyết đoán không do dự, liên hệ đến các vấn đề pháp và luật;

6.không xuất thân từ thành phần hèn hạ;

7.dung mạo khả quan;

8.giỏi thuyết pháp;

9.có thể thuyết pháp khích lệ, khiến mọi người hoan hỉ;

10.chưa từng phạm các giới trọng.

Ni tăng yết ma sai người thỉnh giáo thọ

Ni chúng tập họp, tác pháp tiền phương tiện như thông lệ. Vị tỳ kheo ni yết ma hỏi:

Trong chúng đây ai có thể làm người thọ sai, sang Đại tăng thỉnh cầu giáo thọ?

Tỳ kheo ni nào có khả năng làm người thọ sai, lên tiếng bạch:

Tôi tỳ kheo ni… có thể đi thỉnh cầu.

Bấy giờ tỳ kheo ni yết ma tác pháp sai người cầu giáo thọ.

Đại đức ni tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ theo thông lệ nửa tháng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức ni tăng, xin lắng nghe. Tăng sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến đại tăng cầu thỉnh giáo thọ theo lệ nửa tháng. Các Trưởng lão ni nào chấp thuận Tăng sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ theo thông lệ nửa tháng thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận, Tăng sai tỳ kheo ni… thay tỳ kheo ni tăng đến Đại tăng cầu thỉnh giáo thọ theo thông lệ nửa tháng, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

Tỳ kheo ni thọ sai cần có một hoặc hai tỳ kheo ni khác đi theo làm bạn đồng hành. Những người đi theo không cần tác pháp yết ma. Theo luật ni, khi đi vào chùa tăng, phải bạch trước, nếu không như vậy là phạm ba dật đề.

Việc bạch tăng cầu thỉnh giáo thọ có thể trực tiếp trong lúc Tăng yết ma thuyết giới và gọi vào; hoặc gián tiếp, tức nhờ một tỳ kheo chấp sự của Tăng, khi Tăng yết ma thuyết giới, hỏi đến việc ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới, thì bạch Tăng cầu thỉnh hộ. Nếu trực tiếp thỉnh cầu văn bạch sẽ được nói rõ sau trong mục yết ma thuyết giới. Dưới đây là văn bạch chúc thỉnh, nghĩa là nhờ bạch tăng thỉnh hộ.

Bạch Đại đức (nói tên chùa ni)tỳ kheo ni tăng thanh tịnh hòa hợp, đảnh lễ tỳ kheo tăng cầu thỉnh giáo thọ sư, ngưỡng mong Đại đức vì chúng con bạch Tăng. Từ mẫn cố.(nói ba lần)

Tỳ kheo được thọ chúc nhận lời thỉnh cầu của ni. Ngày hôm sau, khi Tăng tác pháp thuyết giới, đến đoạn hỏi có ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh cầu giáo thọ không, thì vị này chuyển lời thỉnh cầu của ni chúng lên Tăng rằng:

Bạch Đại đức tăng (nói tên chùa ni)tỳ kheo ni tăng thanh tịnh hòa hợp, đảnh lễ tỳ kheo tăng cầu thỉnh giáo thọ sư.(nói ba lần)

Thượng tọa hỏi khắp trong Tăng rằng ai có thể đảm nhiệm việc giáo thọ ni hay không. Nếu không có tỳ kheo nào có thể đảm nhiệm việc này, Thượng tọa nói với tỳ kheo thọ chúc:

Nay đã thỉnh khắp trong Tăng nhưng không có ai đảm nhiệm việc giáo thọ ni. Nếu khi ni chúng sai người trở lại, Đại đức chuyển lời giáo giới vắn tắt, của Tăng rằng Tăng giáo sắc tỳ kheo ni tăng tinh cần hành đạo. Cẩn thận chớ buông lung.

Tỳ kheo thọ chúc đáp:

Y giáo phụng hành.

Sau đó, khi ni chúng sai người trở lại để biết kết quả, tỳ kheo thọ chúc bảo cho ni chúng biết giáo giới của Tăng như thế nào. Nếu Tăng không sai người giáo thọ ni, thì tỳ kheo thọ chúc chuyển lời giáo giới của Tăng đến ni chúng như sau:

Hôm qua (hayhôm nay) tôi đã vì ni chúng thỉnh giáo thọ sư. Nhưng trong Tăng không có ai đảm trách việc giáo thọ ni. Tăng có lời giáo giới vắn tắt cho ni chúng rằng: ni chúng hãy tinh cần hành đạo như luật mà hành trì, cẩn thận chớ buông lung.

Tỳ kheo ni thọ sai đáp:

Y giáo phụng hành.

Trái lại, trong trường hợp có Tăng sai tỳ kheo giáo thọ ni, thì người thọ chúc, sau khi Tăng đã yết ma sai giáo thọ ni, đến vị tỳ kheo Tăng sai bạch rằng:

Đại đức đã từ bi chấp thuận giáo thọ ni chúng. Xin Đại đức ấn định thời gian, tôi sẽ báo cho ni chúng biết để tiện việc đón rước.

Tỳ kheo được Tăng sai nói rõ ngày giờ thuận tiện đối với mình. Việc ổn định ngày sang giáo thọ ni chúng cần tránh những ngày mồng 1, mồng 2, mồng 3, các ngày 14 và 15, tránh những ngày mà ni chúng có thể tác pháp thuyết giới.

Việc giáo thọ trên đây là trình bày những điểm chính được qui định trong luật. Ngày nay, nhất là trong hiện tình phát triển công tác giáo dục tăng ni, việc dạy kinh, luật và luận cho cả ni và tăng đều có qui củ tương đối, và được thực hiện thường xuyên, theo chương trình được ấn định cụ thể. Do đó, sự việc ni cầu giáo thọ sư chỉ được chấp hành cho đúng nguyên tắc của luật chế mà thôi, chứ trong thực tế thì không phải đợi mỗi nửa tháng mới có việc ni chúng sai người cầu giáo thọ. Mỗi kỳ thuyết giới, ni chúng sai người sang tỳ kheo tăng thỉnh cầu giáo thọ là một điều trong tám kỉnh pháp mà Phật đã chế định phải được chấp hành nghiêm chỉnh, Do đó, dù Tăng có người sang giáo thọ hay không, việc thỉnh tỳ kheo tăng sang ni chúng để giáo giới là phận sự của ni chúng không được xao lãng bỏ qua.

VIII. THUYẾT GIỚI CHO SA DI

Theo tinh thần luật chế, những người chưa thọ cụ túc không được phép dự nghe các tỳ kheo thuyết giới. Các sa di cũng không ra ngoài qui định này. Tuy nhiên, vì đã dự vào hàng xuất gia, mặc dù chưa thọ đại giới, nhưng những phận sự của tỳ kheo như thuyết giới, an cư và tự tứ, sa di cũng cần phải tham dự. Do đó, trong các nghi thuyết giới được hành trì ở Trung hoa, cũng như ở Việt nam. Các luật sư đều có phần nói riêng về sự thuyết giới cho sa di. Việc thuyết giới này có một số điểm khác nhau giữa Tứ phần hành sự sao của Đạo Tuyên ([4])và Yết ma chỉ nam của Chiêu Minh luật sư. Thông lệ ở Việt Nam chấp hành theo nghi thức Yết ma chỉ nam có thêm một số chi tiết như sau:

Sau khi nghe tiếng hiệu kiền chùy họp Tăng thuyết giới, các sa di cũng theo thầy duy na vào giữa Tăng. Duy na xướng:

Các sa di theo thứ tự tấn đường.

Nghe tiếng khánh chí thành đảnh lễ Đại tăng ba lạy.

Lạy xong, quì xuống, nghe Thượng tọa giáo giới.

Thượng tọa nói:

Này các sa di, hôm nay là ngày… ngày chúng tăng hòa hợp thuyết giới. Các ngươi hãy nghiêm xét trong nửa tháng vừa qua đối với mười giới sa di có điều nào trái phạm hay không. Nay ta hỏi các ngươi, phải theo sự thực mà đáp. Không được phép che dấu. Nếu che dấu tội lỗi của mình, tội lỗi càng thêm nặng, và các ngươi không xứng đáng là đệ tử xuất gia của Phật.

Mười giới của sa di là:

1.Không được sát sinh. Các ngươi có trái phạm không?

2.Không được trộm cắp. Các ngươi có trái phạm không?

3.Không được dâm dục. Các ngươi có trái phạm không?

4.Không được nói dối. Các ngươi có trái phạm không?

5.Không được uống các thứ rượu say sưa làm loạn tánh tình. Các ngươi có trái phạm không?

6.Không được trang sức thân thể bằng các thứ hương hoa. Các ngươi có trái phạm không?

7.Không được ca múa hát xướng và cố ý xem nghe. Các ngươi có trái phạm không?

8.Không được nằm ngồi trên giường ghế cao rộng, phóng túng thân tâm. Các ngươi có trái phạm không?

9.Không được ăn phi thời, trừ bịnh duyên. Các ngươi có trái phạm không?

10.Không được cất chứa vàng bạc, châu báu làm của riêng. Các ngươi có trái phạm không?

Này các sa di. Thân người khó được, giới pháp khó gặp. Thời gian trôi mau, đạo nghiệp khó thành tựu. Các ngươi phải thanh tịnh thân khẩu ý, siêng học kinh luật luận. Cẩn thận chớ buông lung.

Các sa di đồng thanh đáp:

Y giáo phụng hành.

Tiếp theo, đồng đảnh lễ Đại tăng ba lạy, và theo thứ tự ra khỏi giới trường. Tại một nơi ngoài giới trường, các sa di cùng tụng đọc giới kinh của sa di.

Nhưng theo Hành sự sao 4 của Đạo Tuyên, thì sa di có thể dự nghe một phần giới kinh của tỳ kheo. Một phần đây là phần đầu gồm các bài kệ tán khởi cho đến khi Tăng tác pháp yết ma thuyết giới thì đi ra; và sau đó, khi Tăng thuyết giới đến hết bảy pháp diệt tránh, các sa di lại được gọi vào để nghe phần cuối, sau các bài kệ giới kinh của bảy đức Phật, tức từ các bài kệ tán thán giới cho đến hết. Trong phần tác pháp thuyết giới sau đây sẽ được soạn theo quan điểm này của hành sự sao, có thêm một số chi tiết.

TIẾT BA

CHÍNH THỨC THUYẾT GIỚI

I. CÁC THỂ THỨC THUYẾT GIỚI

Trừ nạn duyên, tức ngoại trừ tám tai họa bất ngờ xảy đến, toàn bộ giới kinh, từ đầu đến cuối, từ các bài kệ tán khởi, bốn pháp ba la di, cho đến bảy pháp diệt tránh, cùng với các bài kệ giới kinh và những bài kệ tán thán giới, cần phải được tụng đọc đầy đủ chi tiết. Người tụng giới phải là hàng Thượng tọa. Nếu Thượng tọa không thuộc, có thể theo thứ tự từ trên xuống dưới, ai thuộc thì được cử làm người tụng giới. Nếu chúng chỉ bốn người mà không ai thuộc, Thượng tọa phải đi khỏi giới, tự mình tác pháp tâm niệm thuyết giới.([5])ba vị còn lại trong giới, tác pháp đối thú thuyết giới với nhau. Đây là một hình thức phạt Thượng tọa vì không thuộc giới kinh.

Người thuyết giới không được đọc theo giọng ca, giọng tán, phải đọc bằng giọng nói bình thường, đọc lớn, rõ, không quá nhanh và quá chậm, để mọi người đều có thể nghe rõ chi tiết.

Có mấy điểm quan trọng cần phải ghi nhớ trong tác pháp yết ma thuyết giới:

1.Túc số tăng: tối thiểu từ bốn tỳ kheo trở lên. Dưới số này, từ ba vị trở xuống, chỉ được phép tác pháp đối thủ thuyết giới. Nếu chỉ có một người, tâm niệm thuyết giới.

2.Ngồi gần nhau, để có thể người này với tay chạm đến thân thể người bên cạnh.([6])Cách ngồi này có công dụng là trong trường hợp phạm vi giới trường không đủ dung số lượng các tỳ kheo đến nghe thuyết giới quá đông, cần ngồi lan ra ngoài đường ranh của giới trường mới đủ chỗ, ngồi như vậy thì Tăng vẫn được coi là trong cùng một giới trường. Trong lúc ngồi nghe giới, các tỳ kheo phải chăm chú nghe, không được phép nhập định; cũng nên tránh cả việc lần chuỗi.

3.Trong cùng một giới. Tức tất cả tỳ kheo phải tập họp trong phạm vi của giới trường đã ấn định. Nếu không có giới trường, Tăng phải tác pháp yết ma kết tiểu giới để thuyết giới. Các tỳ kheo đang có mặt trong cùng trú xứ đã được kết giới cần phải được tập họp vào giới trường. Ai không tập họp, phạm tội biệt chúng. Trừ những người có duyên sự cần phải gởi dục và thuyết tịnh.

4.Tăng phải hoàn toàn thanh tịnh. Những người chưa thọ cụ túc, những người dầu đã thọ cụ túc nhưng nếu Tăng phát hiện ra là thuộc vào một trong mười ba trường hợp chướng pháp, hay già nạn (chi tiết xem chương III ở trên) và các tỳ kheo phạm ba la di, tất cả đều phải được đuổi ra khỏi giới trường. Tỳ kheo nào đang hành pháp phú tàng, sau khi Tăng hành xá la xong (nếu có hành xá la), hoặc sau khi tác pháp tiền phương tiện xong, tức đến chỗ hỏi và đáp rằng: "Tăng nay hòa hợp để làm gì? – yết ma thuyết giới" thì duy na gọi vị này ra trình bạch Tăng rằng mình đang hành pháp phú tàng. Còn lại, những người phạm các điều khoản khác cần phải sám hối như pháp cho thanh tịnh trước khi Thượng tọa bạch yết ma thuyết giới.

Trong thể thức thuyết giới chi tiết cuối mỗi phần của giới kinh đều có hỏi về sự thanh tịnh của các tỳ kheo đối với các điều vừa nói xong. Như đã nói ở điều 4 trên đây khi thuyết giới, Tăng phải hoàn toàøn thanh tịnh. Nhưng cũng có nhiều trường hợp người phạm giới mà không ý thức về sự trái phạm của mình, hoặc do không biết, hoặc do không nhớ, thì mỗi khi vị tụng giới hỏi đến sự thanh tịnh, người tự thấy mình có phạm phải bước ra phát lồ sám hối. Tuy nhiên, trong khi Tăng đang chăm chú theo dõi như vậy, người ấy đột nhiên bước ra nhận tội, có thể gây xáo trộn, do đó, chỉ nên nói riêng với người bên cạnh, hoặc tự tâm niềm rằng "Tôi tỳ kheo… phạm tội… chờ Tăng thuyết giới xong tôi sẽ sám hối.” Hoặc nếu cảm thấy có phạm nhưng còn nghi ngờ, thì tự tâm niệm rằng: "Tôi tỳ kheo… đối với điều… còn nghi ngờ. Chờ khi nào hết nghi ngờ, tôi sẽ như pháp sám hối."

Trên đây là nói về thể thức thuyết giới chi tiết. Nếu gặp nạn duyên, có thể thuyết giới tóm lược. Tùy theo nạn duyên sẽ đến nhanh hay chậm, đủ để thuyết giới đến mức nào, phải tùy theo đó mà thuyết. Luật quy định có tất cả năm thể thức thuyết giới.

1.Thuyết giới chi tiết: nói từ đầu đến cuối đầy đủ của giới kinh.

2.Thuyết giới tóm lược: nói từ bài tựa, bốn ba la di, mười ba tăng tàn, hai bất định, rồi nói tóm lược: Thưa các đại đức, tôi đã thuyết xong tựa giới kinh, đã thuyết xong bốn pháp ba la di, đã thuyết xong mười ba pháp tăng già bà thi sa, đã thuyết xong hai pháp bất định. Còn lại ba mươi pháp ni tát kỳ ba dật đề, chín mươi pháp ba dật đề, bốn pháp ba la đề xá ni, một trăm pháp chúng học, bảy pháp diệt tránh, như Tăng thường nghe.

3.Thuyết giới tóm lược: nói từ tựa giới kinh, bốn ba la di, mười ba tăng tàn, rồi tóm lược: Thưa các đái đức, tôi đã thuyết (…)còn lại hai pháp bất định (…)như Tăng thường nghe.

4.Thuyết tóm lược, nói từ tựa giới kinh, bốn ba la di rồi tóm lược (…)

5.Thuyết giới tóm lược, chỉ nói bài tựa giới kinh rồi tóm lược, như trên.

Trong thể thức tóm lược trên, thay vì lược bằng cách nêu tên hay danh mục của từng học xứ của các phần còn lại như thế, cũng có thể tóm lược bằng một câu: Còn lại các pháp như Tăng thường nghe.

II. TÁC PHÁP THUYẾT GIỚI

1.Tập tăng: Đến giờ thuyết giới, sa di hay các tỳ kheo nhỏ đánh hiệu kiền chùy. Tất cả tỳ kheo và sa di đồng vân tập vào giới trường.

2.Lễ Tổ lễ Phật: Tùy nghi, vì không phải là điều khoản bắt buộc. Nhưng cần thiết phải sám hối cho thanh tịnh trước khi Tăng tác pháp.

3.Kiểm tăng số: Tỳ kheo chấp sự hay duy na, sau khi kiểm điểm tăng số, lễ Tăng và bạch:

Bạch Đại đức tăng, hôm nay là ngày…. Ngày bố tát chúng tăng thuyết giới. Tôi đã kiểm điểm tăng số, gồm (bao nhiêu)tỳ kheo và (bao nhiêu)sa di.

4.Đọc phần kệ tán khởi: Thượng tọa thăng tòa thuyết giới, đọc các bài kệ tán khởi:

Cúi đầu lễ chư Phật.

Tôn pháp tỳ kheo tăng,

Nay nói tỳ ni pháp

Để chánh pháp thường tồn

Như lai lập cấm giới,

Nửa tháng nói một lần.

5. Tác pháp riêng cho sa di

Duy na xướng:

Các sa di đi thứ tự xuất ban.

Các sa di bước ra đảnh lễ đại Tăng ba lạy, rồi quỳ xuống, một sa di đại diện thay chúng bạch rằng: ([7])

Bạch Đại đức tăng sa di chúng con (mỗi người tự nói pháp danh)cúi đầu đảnh lễ đâi Tăng. Sa di chúng con (mỗi người tự nói pháp danh)tự nghĩ nay nhờ phước báo của túc duyên mà đời này được gặp ánh từ quang của đấng Đại giác, được nghe di giáo vàng ngọc của đức Thế tôn; chúng con sám hối một lòng mộ đạo, cắt ái từ thân, theo Phật xuất gia phụng sự Tam bảo. Phật chế sa di học năm đức và mười pháp số, để làm rạng rỡ chánh đạo, kiểm nghiệm ngưòi tà. Nay chúng con đối trước đại Tăng xin tụng đọc lại. Ngưỡng mong đại Tăng thùy từ chứng giám.

Năm đức của sa di theo kinh Phước điền là:

1.Phát tâm lìa bỏ thế tục, vì hâm mộ chánh pháp.

2.Hủy bỏ cái đẹp của hình hài, vì để thích ứng với pháp phục.

3.Vĩnh viễn cắt bỏ ái ân, vì không còn thân thích nữa.

4.Khinh thường tính mạng, vì tôn sùng Phật pháp.

5.Chí cầu Đại thừa, vì để hóa độ chúng sanh.

Mười giới của sa di là:

1.Không sát sinh.

2.Không trộm cắp.

3.Không dâm dục.

4.Không nói dối.

5.Không uống rượu làm say loạn tính tình.

6.Không trang sức thân thể bằng các thứ hương hoa như người thế tục.

7.Không ca múa hát xướng và cố ý xem nghe.

8.Không nằm ngồi trên giường ghế cao rộng.

9.Không ăn phi thời, trừ bịnh duyên.

10.Không cất chứa vàng bạc châu báu làm của riêng.

Chúng con đã nói xong năm đức và mười giới. Cúi nguyện Tam bảo tồn tại lâu dài trong thế gian để cứu vớt chúng sanh.

Nay Tăng bố tát, diễn thuyết đại tỳ ni, là pháp tối tôn, tối thắng, mầu nhiệm, là việc mà chúng con chưa được dự phần. Bởi vì chúng con tuổi đời còn thiếu, chướng ngại giới pháp chưa sạch, cho nên không dám dự vào địa vị Tăng luôn thanh tịnh. Nay chúng con cúi đầu đảnh lễ đại Tăng. Nguyện tăng từ bi, bố tát hoan hỷ.

Thượng tọa giáo giới:

Này các sa di, nay chúng tăng bố tát thuyết giới. Các ngươi chưa thọ cụ túc nên chưa được dự nghe. Vậy hãy lui ra ngoài, theo phận sự của sa di mà tụng đọc giới luật. chờ khi nào đánh khánh làm hiệu gọi vào. Hãy thứ tự trở lại giới trưòng. Cẩn thận chớ buông lung.

Các sa di đồng thanh đáp:

Y giáo phụng hành.

Đảnh lễ đại Tăng ba lạy, rồi lui khỏi giới trường. Cùng nhau đến một chỗ khác, tụng đọc giới kinh của sa di. Chờ khi nghe tiếng khánh, Tăng gọi thì trở lại giới trường để dự nghe phần cuối trong giới kinh của tỳ kheo.

III. YẾT MA THUYẾT GIỚI

Thượng tọa tác pháp yết ma thuyết giới, hỏi:

- Tăng đã họp chưa?

Duy na đáp:

- Tăng đã họp.

- Hòa hiệp không ?

- Hòa hiệp.

- Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?

- Đã ra.

- Các tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không ?

Nếu không có ai gởi dục và thanh tịnh thì đáp:

- Không.

- Nếu có, người thọ dục bước ra, lễ Tăng và bạch:

- Bạch Đại đức tăng, con có nhận dục và thanh tịnh của tỳ kheo… tăng sự như pháp, tỳ kheo ấy xin gởi dục và thanh tịnh.

- Thiện.

- Nhĩ.

Thượng tọa hỏi tiếp:

- Có ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới không?

Nếu có người thọ chúc, thì bước ra lễ Tăng, và trình lại thỉnh cầu của ni chúng, như đã nói ở trên. Nếu ni trực tiếp thỉnh thì cho gọi vào.

Các tỳ kheo ni thọ sai đảnh lễ Tăng ba lạy, quỳ xuống và bạch:

Đại đức tăng (nói tên chùa ni)tỳ kheo ni tăng thanh tịnh hòa hiệp, Tăng sai tỳ kheo ni chúng con (…)đến trước đại Tăng, đảnh lễ Tăng cầu thỉnh giáo thọ sư. Ngưỡng mong Tăng vì ni chúng giáo giới. Từ mẫn cố.(nói ba lần)

Nếu không có tỳ kheo nào đảm nhiệm việc giáo thọ ni, Thượng tọa nói với các tỳ kheo ni thọ sai:

Nay lần lượt thỉnh cầu khắp trong Tăng từ trên xuống dưới, nhưng không ai đảm nhiệm việc giáo thọ ni. Tuy nhiên, Tăng nói rằng, ni chúng hãy y luật hành trì, cẩn thận chớ buông lung.

Ni thọ sai đáp:

Y giáo phụng hành.

Sau khi ni thọ sai đảnh lễ Tăng và ra khỏi giới trường, Thượng tọa hỏi tiếp:

- Tăng nay hòa hiệp để làm gì?

- Yết ma thuyết giới.

Ngay đây, nếu có tỳ kheo đang hành pháp phú tàng, thì duy na gọi vị ấy ra đảnh lễ Tăng, và tình Tăng rằng mình đang hành pháp phú tàng. Sau đó trở về chỗ cũ để nghe thuyết giới.

Thượng tọa bạch yết ma:

Đại đức tăng, xin lắng nghe. Hôm nay là ngày… tháng … ngày bố tát, chúng tăng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng; Tăng nay chấp thuận hòa hiệp thuyết giới. Đây là lời tác bạch. Thưa các đại đức, nay đang là mùa (xuân). Mùa này có sáu kỳ (hoặc tám kỳ nếu có tháng nhuận) bố tát. Trong nửa tháng này, một kỳ bố tát đang đi qua; có hai kỳ bố tát đã qua và còn ba kỳ bố tát sắp đến. Mong các đại đức ghi nhớ như vậy. Tuổi già và sự chết đang gần kề, Phật pháp sắp tàn diệt. Thưa các đại đức, vì chí cầu đắc đạo, hãy nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Vì sao vậy? Chư Phật do nhất tâm cần cầu tinh tấn mà chứng đắc Vô thượng Bồ đề, huống nữa là các thiện pháp khác. Mỗi người trong lúc đang khỏe mạnh, hãy nỗ lực tu thiện; sao lại không cần cầu, đâu thể đợi đến già, ham muốn nào vui chi? Ngày nay đã qua, mạng sống lần giảm, như cá thiếu nước nào có vui gì? Thưa các đại đức, nay tôi sẽ nói ba la đề mộc xoa. Các đại đức hãy lắng nghe, khéo ghi nhớ kỹ. Nếu tự biết mình cố phạm, hãy nên bày tỏ sám hối, ai không phạm thì im lặng. Do sự im lặng mà tôi biết các đại đức thanh tịnh. Cũng như một người được ai hỏi điều gì thì phải theo sự thực mà đáp. Cũng vậy, tỳ kheo nào ở trong chúng đã ba phen hỏi, nhớ nghĩ mình có phạm mà không phát lộ, tỳ kheo ấy đắc tội cố ý vọng ngữ. Đức Phật dạy hành sự cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Tỳ kheo nào nhớ nghĩ mình có tội, muốn cầu sự thanh tịnh, cần phải phát lộ. Phát lộ thì an lạc.

Thưa các đaị đức, tôi đã nói xong phần tựa. Nay hỏi các đại đức trong đây có thanh tịnh không?(hỏi ba lần)

Các đại đức trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

Tiếp theo nói tất cả chi tiết từ bốn ba la di cho đến bảy pháp diệt tránh. Cuối cùng nói lời kết.

Thưa các đại đức, tôi đã nói xong tựa giới kinh, đã nói bốn pháp ba la di, đã nói mười ba pháp tăng già bà thi sa, đã nói hai pháp bất định, đã nói ba mươi pháp ni tát kỳ ba dật đề. Đã nói chín mươi pháp ba dật đề, đã nói bốn pháp ba la đề xá ni, đã nói các pháp chúng học, đã nói bảy pháp diệt tránh. Đây là giới kinh do Phật nói, được ghi chép thành giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần. Còn có các Phật pháp khác nữa trong đây tất cả đều phải cùng hòa hiệp, cùng học tập.

Tiếp theo trước khi đọc các bài kệ giới kinh của bảy đức Phật thì đánh hiệu gọi các sa di vào để nghe tiếp các bài kệ tán thán sự trì giới:

Kẻ trí khéo giữ giới,

Hay được ba điều vui:

Danh dự và lợi dưỡng,

Khi chết được sanh thiên.

Tôi nay nói giới kinh

Công đức thuyết giới này,

Ban khắp cả chúng sinh

Đều trọn thành Phật đạo.


[1]Tứ phần luật 35(đại 22, tr. 816c), thuyết giới kiền độ.

[2]Tứ phần luật35 (đại 22 tr. 818b).

[3]Câu xá luận14 (đại 29, tr. 75b).

[4]Tứ phần luật hành sự saothượng 4. Thuyết giới: chánh nghi (đại 40, tr. 36a): các sa di lui ra trước tiền phương tiện, hay khi Thượng tọa vấn đáp tiền phương tiện đến chỗ vị thọ cụ giả xuất. Câu này thường được dịch thành câu hỏi: " Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?" Nhưng theo ý ở đây thì nó là mệnh lệnh: Người chưa thọ cụ túc hãy ra. sau đó Tăng tác pháp yết ma thuyết giới và sau khi đọc xong các thiên tụ của giới bổn, trước đọan: minh nhân năng hộ giới, lại đánh kiểng gọi các sa di vào để dự nghe.

[5]Bốn người, đủ số Tăng, nhưng không ai biết tác pháp theo tăng pháp yết ma, thì một người cần ra khỏi để ba người còn lại không đủ túc số tăng có thể tác pháp đối thủ thuyết giới.

[6]Ngồi theo cách gọi là thân thủ tương cập. Đây là thế phần của một người đang ngồi. Thế phần các tỳ kheo cùng ngồi liên tiếp nối liền nhau không bị gián đoạn tạo thành sự hòa hiệp về thân.

[7]Phỏng theo Sa di thập giới oai nghi kinh sớ5, Đường, luật sư Pháp Tiên soạn (Đại nhật bản đại tạng kinh, Tiểu thừa luật chương sớ); có một vài chi tiết cần thiết.

--- o0o ---


Source:www.phatviet.net

Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567