Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Xuất xứ của lễ dâng y Kathina

30/10/201214:54(Xem: 5318)
01. Xuất xứ của lễ dâng y Kathina

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

XUẤT XỨ CỦA LỄ DÂNG Y KATHINA

Hằng năm vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), khắp mọi nơi trên các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravāda, chư Tỳ khưu Tăng sau khi làm đại lễ Pavāraṇā(lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau)xong; bắt đầu ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10, trong suốt 30 ngày ấy, tất cả mọi người Phật tử tại gia là cận sự nam, cận sự nữ nô nức chuẩn bị làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại mỗi ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi. Lễ dâng y kathina là một nghi lễ theo truyền thống trong Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay.

Trong đời, có số truyền thống bắt nguồn từ thời gian nào, do một vị nào khởi xướng đầu tiên khó mà biết được, cho nên người ta thường nói: “Xưa bày nay làm”. Nhưng truyền thống lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng có xác định thời gian bắt đầu rõ ràng:

Trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka ghi rõ về tích chuyện bắt đầu Đức Phật cho phép Tỳ khưu thọ y kathina như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇdika gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pāveyya[1] đều thọ hạnh đầu đà như: Hạnh đầu đà ở trong rừng, hạnh đầu đà đi khất thực, hạnh đầu đà thọ tam y,... Quý Ngài đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Trên đường đi chưa đến kinh thành Sāvatthi, quý Ngài mới đến xứ Sāketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6 (âm lịch) là ngày chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ tại một nơi cố định suốt 3 tháng mùa mưa. Cho nên, quý Ngài đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Sāketa, mà tâm của quý Ngài luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, quý Ngài thường nói với nhau rằng:

Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần[2], nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được”.

Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), quý Ngài làm đại lễ Pavāraṇā (Lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau) xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9), quý Ngài tiếp tục lên đường đi đến kinh thành Sāvatthi. Mặc dù tháng cuối mùa mưa[3] trời vẫn còn mưa nhẹ hột, trên đường có những vũng nước đầy, đường xá lầy lội, quý Ngài mặc trên thân mình bộ y bị ướt đẫm và dính đầy sình lầy, thân phải chịu vất vả, đi đến ngôi chùa Jetavana vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ.

Đức Thế Tôn truyền hỏi chư Tỳ khưu rằng:

- Này các con, các con có kham nhẫn được không?

Các con có điều hòa thân tứ đại này được không?

Các con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa phải không?

Hằng ngày các con đi khất thực không vất vả lắm phải không?

Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đều kham nhẫn được; chúng con có thể điều hoà thân tứ đại này được; chúng con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa. Hằng ngày chúng con đi khất thực không vất vả. Bạch Ngài.

Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con 30 người xứ Pāveyya đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, sau đó sẽ an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại kinh thành Sāvatthi. Khi chúng con đến xứ Sāketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6, chúng con đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại đó, mà tâm của chúng con luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, chúng con thường nói với nhau rằng:

Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần, nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được”.

Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 chúng con làm đại lễ Pavāraṇā xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9) tất cả chúng con tiếp tục lên đường đến hầu Đức Thế Tôn.

Đức Phật Cho Phép Chư Tăng Thọ Y Kathina

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pāveyya, sau khi lắng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, quý Ngài đều chứng đắc thành bậc thánh Arahán.

Nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pāveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên Đức Thế Tôn cho phép chư Tỳ khưu, sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Đức Phật dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, được thọ y kathina.

Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu là:

1- Khi được thỉnh mời, vị Tỳ khưu ấy có thể ra khỏi chùa, mà không báo vị Tỳ khưu khác biết. (không phạm giới).

2- Vị Tỳ khưu ấy không giữ gìn đủ tam y (không phạm giới).

3- Vị Tỳ khưu ấy được dùng vật thực cùng nhóm (4 vị Tỳ khưu trở lên), dù thí chủ gọi tên vật thực ấy (không phạm giới).

4- Vị Tỳ khưu thọ nhận y dư (ngoài tam y) cất giữ quá 10 đêm (không phạm giới).

5- Y phát sinh nơi nào, Tỳ khưu được phép thọ nhận nơi ấy.

Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu này[4].

Sau khi đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, Tỳ khưu nào đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, không thay đổi chỗ ở, dù đi nơi nào, tâm vẫn lưu luyến, ràng buộc với ngôi chùa cũ (chỗ đã an cư nhập hạ), vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu ấy suốt 5 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.

Nếu chư Tỳ khưu Tăng không làm lễ thọ y kathina, cũng không làm lễ hoan hỷ y kathina của chư Tăng, thì chư Tỳ khưu ấy chỉ được hưởng đặc ân 5 quả báu trong 1 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 10, hết hạn quả báu.

Như vậy, sự thật rõ ràng là Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Cho nên, lễ dâng y kathina trở thành truyền thống của Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật mãi cho đến nay.

Đức Phật Gotama cho phép Tỳ khưu Tăng được thọ y kathina từ thời gian nào?

Từ khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn có 45 hạ (vassa: năm). Vào hạ thứ 14, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇdika, gần kinh thành Sāvatthi. Sau khi ra hạ, nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pāveyya đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Chính nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pāveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên, Đức Thế Tôn cho phép chư Tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina.

Như vậy, lễ dâng y kathina bắt đầu từ sau hạ thứ 14 của Đức Phật và được lưu truyền trở thành truyền thống của Phật giáo mãi cho đến nay.

Y Kathina Không Thành Tựu và Thành Tựu

Thời xưa, những thí chủ dâng vải đến chư Tỳ khưu Tăng để may y, cho nên, may y là công việc của chư Tỳ khưu. Đặc biệt vải may y kathina phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý. Trong Tạng Luật bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka, Đức Phật quy định có 24 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu và 17 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

Lễ Thọ Y Kathina Không Thành Tựu

Đức Phật dạy:

Này chư Tỳ khưu, 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu như sau:

1- Tấm vải chỉ vạch đường ngang đường dọc để cắt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

2- Tấm vải mới giặt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

3- Tấm vải mới được chia 5 điều hoặc 7 điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

4- Tấm vải được cắt rời từng điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

5- Tấm y mới được ráp vào: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

6- Tấm y đang được may chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

7- Tấm y được may hai thành đứng hai bên chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

8- Tấm y được may ráp các điều vào chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

9- Tấm y được may hai thành y trên và dưới chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

10- Tấm y mới được may chỗ cột dây (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

11- Tấm y mới được kết gút (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

12- Tấm y nhuộm màu còn nhạt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

13- Tấm vải may y có được do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

14- Tấm vải may y có được do vị Tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

15- Tấm vải may y được mượn của người khác: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

16- Tấm vải may y kathina, vị Tỳ khưu nhận xong cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

17- Tấm vải may y kathina may chưa xong đã qua rạng đông (sang ngày khác): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

18- Tấm y chưa làm dấu tròn kappabindu: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

19- Tấm y không phải là y 2 lớp (saṃghāṭi): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

20- Tấm y không phải là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

21- Tấm y không phải là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

22- Tấm y không cắt may thành 5 điều hoặc 7 điều: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

23- Không phải là vị Tỳ khưu: Làm lễ thọ y kathina thì không thành tựu.

24- Tỳ khưu thọ y kathina bên ngoài sīmā (ngoài phạm vi) và chư Tỳ khưu nói lời hoan hỷ: Lễ kathina không thành tựu.

Này chư Tỳ khưu, đó là 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu.

Lễ Thọ Y Kathina Được Thành Tựu

Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳ khưu, 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu như sau:

1- Tấm vải còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

2- Tấm vải giặt rồi còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

3- Tấm vải cũ may thành y: Làm lễ thọ y được kathina được thành tựu.

4- Lượm lặt những tấm vải dơ (paṃsukūlacīvara) may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

5- Lượm lặt vải người ta xả bỏ may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

6- Tấm vải may y có được không phải do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

7- Tấm vải may y có được không phải do vị Tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

8- Tấm vải may y có được không phải mượn của người khác, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

9- Tấm vải may y kathina mà vị Tỳ khưu may thành y xong, không cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

10- Tấm y kathina may hoàn thành xong trước lúc rạng đông (chưa qua ngày khác): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

11- Tấm y đã làm dấu tròn nhỏ kappabindu xong: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

12- Tấm y ấy là y 2 lớp (saṃghāṭi): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

13- Tấm y ấy là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

14- Tấm y ấy là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

15- Tấm y cắt may đủ 5 điều (hoặc 7 điều) làm xong trong ngày: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

16- Vị Tỳ khưu là người làm lễ thọ y (không phải nhóm hoặc chư Tỳ khưu Tăng): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

17- Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina bên trong sīmā và chư Tỳ khưu Tăng nói lời hoan hỷ: Lễ thọ y kathina được thành tựu.

Này chư Tỳ khưu, đó là 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.

Lễ Dâng Y Kathina Thời Xưa và Thời Nay

Trong thời xưa, thí chủ làm lễ dâng vải may y kathina(kathinadussa)đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Sau khi thọ nhận vải may y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā, tuyển chọn một vị Tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā trao tấm vải may y kathina đến cho vị Tỳ khưu đã được chọn ấy.

Việc may y để làm lễ thọ y kathina rất quan trọng và cần kíp, bởi vì tấm y cần phải được may xong trong ngày hôm ấy, để làm lễ thọ y kathina trước lúc rạng đông. Nếu tấm y may chưa xong, trễ sang ngày hôm sau, thì không thể làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy được. Vì vậy, tất cả chư Tỳ khưu trong ngôi chùa, bất luận là vị Tỳ khưu nào đều phải tập hợp chung, lo may cho xong một tấm y, để kịp làm lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Cho nên, mỗi vị Tỳ khưu mỗi việc, trước tiên, vạch đường ngang đường dọc, cắt tấm vải thành tấm y 2 lớp (saṃghāṭi), hoặc y vai trái (uttarasaṅga), hoặc y nội (antaravāsaka), tất cả chư Tỳ khưu, mỗi vị lo may mỗi phần, ráp vào thành tấm y rồi nhuộm cho đúng màu mà Đức Phật đã chế định. Vị Tỳ khưu kính thỉnh chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy hội họp lại, để cho vị Tỳ khưu đã được tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy xong, tiếp theo vị Tỳ khưu ấy thỉnh mời tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.

Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, nếu vị Tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị Tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.

Trong thời nay, phần đông thí chủ không làm lễ dâng vải may y kathina, mà dâng y kathina(kathinacīvara), tấm y đã may sẵn, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy. Cho nên, tất cả chư Tỳ khưu không bận rộn chung lo công việc may y, để làm lễ thọ y kathina. Sau khi thọ nhận tấm y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā, tuyển chọn một vị Tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā trao tấm y kathina đến cho vị Tỳ khưu đã được chọn ấy.

Vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy, và thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.

Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong rồi, nếu vị Tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị Tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.

Tấm y kathina như thế nào?

Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do thiện tâm trong sáng của thí chủ. Nếu vải may y kathina (kathinadussa)hoặc tấmykathina (kathinacīvara)được phát sinh không hợp pháp, bởi do một nguyên nhân, một trong những trường hợp mà Đức Phật đã quy định, thì nghi lễ thọ y kathina chắc chắn không thành tựu, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.

Ví dụ:

Nếu có vị Tỳ khưu nào tự mình biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina, hoặc Tỳ khưu gián tiếp nói với thí chủ rằng:

“Tấm vải này làm lễ dâng y kathina được” hoặc “Thí chủ làm lễ dâng y kathina được nhiều phước thiện thanh cao” v.v... Khi nghe Tỳ khưu động viên khuyến khích như vậy, thí chủ xin làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì tấm y kathina ấy phát sinh không hợp pháp, vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy chắc chắn không thành tựu lễ thọ y kathina, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.

Trong chú giải bộ Luật Mahāvaggadạy rằng:

“Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ vaṭṭati, mātarampi viññāpetuṃ na vaṭṭati, ākāsato otiṇṇasadisameva vaṭṭati”[5].

“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y Kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.

Thật ra, Đức Phật cho phép Tỳ khưu có thể xin 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh) từ mẫu thân, phụ thân và những người thân quyến có thỉnh mời trước, thậm chí từ thí chủ có thỉnh mời trước.

Ví dụ:

“Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần thứ vật dụng nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng thứ vật dụng ấy đến cho Ngài”.

Nhưng về y kathina, Tỳ khưu không được phép xin trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, dù thí chủ đó là mẫu thân, phụ thân của mình, huống gì những thí chủ khác. Bởi vì, y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý (kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭham).

Kathina nghĩa là gì?

Danh từ kathinacó nhiều nghĩa, trong bộ Vimativinodanīṭīkā, bo Vajirabuddhi-ṭīka định nghĩa rằng:

“Kathinan’ti pañcānisaṃse anto karaṇasamatthatāya thiranti attho”.

Kathina: nghĩa là “vững chắc” bởi vì có khả năng làm cho 5 quả báu được duy trì trong suốt khoảng thời gian 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.

Tấm y kathina là tấm y nào?

Đức Phật chế định cho phép nhiều loại y như:

- Tấm y 2 lớplà tấm y dùng để đắp mùa lạnh, gọi là tấm y saṃghāṭi.

- Tấm y vai tráilà tấm y mặc che phủ từ cổ xuống dưới đầu gối 4 lóng tay, gọi là tấm y uttarasaṅga.

- Tấm y nộilà tấm y mặc che phủ trên lỗ rún xuống dưới đầu gối 8 lóng tay, gọi là tấm y antaravāsaka.

- Tấm y tắm mưalà tấm y dùng để tắm trong mùa mưa, gọi là tấm y vassikasāṭika.

Các tấm y phụ là những tấm y mặc thay cho tấm y trên, gọi là y cīvaraparikkhā-racoḷa.

Trong các loại y trên, Đức Phật cho phép tấm y để làm lễ thọ kathina là 1 trong 3 tấm y: Tấm y saṃghāṭi,hoặc tấm y uttarasaṅga,hoặc tấm y antaravāsaka, còn lại các tấm y khác không thể làm lễ dâng y kathina được.

Tấm Y Thường Dùng Với Tấm Y Kathina:

- Tấm y thường dùnggồm các tấm y như tấm y saṃghāṭi, tấm y uttarasaṅga, tấm y antaravāsaka, các tấm y cīvaraparikkhāracoḷa, v.v... mà vị Tỳ khưu có thể xin từ mẫu thân, phụ thân, bà con thân quyến đã từng thỉnh mời, thậm chí có thể xin từ thí chủ đã từng thỉnh mời rằng:

“Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần tấm y nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng tấm y ấy đến cho Ngài”.

Như vậy, khi nào vị Tỳ khưu cần đến y, có thể đến xin y từ người thí chủ ấy, mà không có lỗi.

- Tấm y kathinachỉ là 1 trong 3 tấm y: Tấm y saṃghāṭi, hoặc tấm y uttarasaṅga, hoặc tấm y antaravāsakamà Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, được phép làm lễ thọ y kathina.

Tấm y kathina này được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch do thiện tâm trong sạch của thí chủ; tấm y kathina có được không phải do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, hoặc xin trực tiếp hoặc gián tiếp từ thí chủ.

Trong chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga aṭṭhakathādạy rằng:

Animittakatena atthataṃ hoti kathinaṃ, aparikathākatena atthataṃ hoti kathinaṃ”[6]

“Vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y không phải biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, hoặc vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y không trực tiếp hoặc gián tiếp nói xin thí chủ”.

Bởi vì tấm y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý, không do Tỳ khưu động viên khuyến khích thí chủ làm lễ dâng y kathina.

Thật vậy, trong Chú giải Tạng Luật dạy rằng:

“Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ vaṭṭati, mātarampi viññāpetuṃ na vaṭṭati, ākāsato otiṇṇasadisameva vaṭṭati”.

“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên, Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.

Thời Gian DângY Thường Dùng Với Dâng Y Kathina

- Thời gian dângy thường dùng

Trong một năm có 12 tháng, thí chủ có thể làm lễ dâng y thường dùng bất cứ tháng nào, ngày nào, giờ nào, không hạn định, không bắt buộc, hoàn toàn tuỳ ý của thí chủ. Còn chư Tỳ khưu có thể thọ nhận y mà thí chủ đem đến làm lễ dâng y thường dùng bất cứ thời gian nào, cũng không hạn định.

- Thời gian dâng y kathina

Trong một năm có 12 tháng, Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa xong rồi, chư Tỳ khưu Tăng ấy được phép thọ y kathina, bắt đầu từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10. Trong khoảng thời gian 30 ngày ấy, chỉ có một ngày, đối với chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ tại một ngôi chùa, hoặc tại một nơi chốn nào đó, chư Tỳ khưu ấy chỉ được phép một lầnthọ nhận y kathina, mà thí chủ đem đến làm lễ dâng y kathina mà thôi; còn lại 29 ngày khác, chư Tỳ khưu ấy không được phép thọ nhận y kathina nữa.

Còn thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10. Trong khoảng thời gian 30 ngày hay 1 tháng ấy, thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina, còn 11 tháng còn lại, thí chủ không thể làm lễ dâng y kathina được.

Chỗ Ở Được DângY Thường Dùng Với Dâng Y Kathina

- Chỗ ở được dâng y thường dùng

Là chỗ ở của chư Tỳ khưu, như một ngôi chùa, hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, hoặc tại nhà thí chủ, v.v... Thí chủ có đức tin trong sạch đem các tấm y đến làm lễ dâng y thường dùng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) hoặc cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) tại nơi ấy, bao nhiêu lần trong một năm, trong một tháng, trong một ngày cũng được, không hạn chế.

- Chỗ ở được dâng y kathina

Là chỗ ở mà chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, v.v... Thí chủ có đức tin trong sạch đem một tấm y đến làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna), không phải đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna). Tại nơi ấy, chư Tỳ khưu Tăng được phép thọ nhận y kathinacủa thí chủ chỉ có một lần trong một ngày nàotrong khoảng thời gian kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10 là hết hạn dâng y kathina.

Cách DângY Thường Dùng Với Dâng Y Kathina

- Bố thí (dâng) có 2 cách:

1- Paṭipuggalikadāna: Dâng đến cá nhân.

2- Saṃghikadāna: Dâng đến chư Tỳ khưu Tăng.

- Dâng (bố thí) đến cá nhân có 14 trường hợp:

Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy làm phước dâng đến cá nhân có 14 trường hợp như sau:

1- Dâng cúng dường đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

2- Dâng cúng dường đến Đức Phật Độc Giác.

3- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Arahán.

4- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.

5- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai.

6- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai.

7- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai.

8- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai.

9- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu.

10- Dâng cúng dường đến hành giả đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

11- Làm phước cúng dường đến hành giả ngoài Phật giáo, vị ấy đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc, có ngũ thông.

12- Làm phước cúng dường đến hạng phàm nhân có giới trong sạch như Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ, ...

13- Làm phước bố thí đến hạng người không có giới.

14- Làm phước bố thí đến các loài súc sinh.

- Dâng cúng dường đến chư Tăng có 7 trường hợp:

Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có 7 trường hợp như sau:

1- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng có Đức Phật chủ trì.

2- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng, sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi.

3- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng (Bhikkhusaṃgha).

4- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu ni Tăng (Bhikkhunisaṃgha).

5- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng và một số Tỳ khưu ni Tăng.

6- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng.

7- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu ni Tăng.

- Cách DângY Thường Dùng

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, đem các y thường dùngdâng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) hoặc dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) cũng được, tùy theo tác ý thiện tâm của thí chủ.

- CáchDângY Kathina

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo có trí tuệ hiểu biết rõ rằng: Tấm y kathina chỉ dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) mà thôi, không phải dâng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna).

Người Thí Chủ - Người Thọ Thí

Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy Ngài Ānanda rằng:

- Này Ānanda, thiện tâm trong sạch của người bố thí và người thọ thí có 4 trường hợp:

1- Người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch.

2- Người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch.

3- Người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch.

4- Người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.

Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch?

Trường hợp này, người bố thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp; còn người thọ thí là người phạm giới, hành ác pháp.

Như vậy, gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch.

Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch?

Trường hợp này, người bố thí là người phạm giới, hành ác pháp; còn người thọ thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.

Như vậy, gọi là người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch.

Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch?

Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người phạm giới, hành ác pháp

Như vậy, gọi là người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch.

Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch?

Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.

Như vậy, gọi là người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.[7]

Quả Báu CủaPaṭipuggalikadāna

Quả báucủa phước thiện cúng dường đến 14 hạngcá nhân, Đức Phật dạy mỗi hạng khác biệt nhau như như sau:

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện bố thí đến loài súc sinhnhư chim, cá, v.v... thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 100 kiếp.

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện bố thí đến người không có giới, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 1000 kiếp.

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến người có giới hạnh trong sạch,như Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được100 ngàn kiếp (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến bậc thiện trí ngoài Phật giáo, vị ấy đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc, có thần thông,thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ đượctriệu triệu kiếp (1.000 tỷ kiếp) (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến hành giả đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ vô số kiếp (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán, chư Phật Độc Giác, Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu cao quý đặc biệt trong mỗi cõi được tái sinh. Nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người, thì sẽ là người cao quý đặc biệt, hoặc nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới nào, thì sẽ là chư thiên cao quý có hào quang sáng ngời đặc biệt hơn các chư thiên khác, được vô số kiếp không sao kể xiết. Đặc biệt, thí chủ đã gieo được duyên lành, chắc chắn sẽ được giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Quả Báu Của Saṃghikadāna

Quả báu của phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) trong 7 trường hợp, chắc chắn nhiều hơn quả báu của phước thiện cá nhân thí (paṭipuggalikadāna) gấp bội phần.

Trong 7 trường hợp thí chủ làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, quả báu của mỗi trường hợp chắc chắn có sự khác biệt, nhưng vì lớn lao vô lượng nên không sao kể xiết được.

Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy Ngài Đại đức Ānanda có một đoạn rằng:

- Này Ānanda, trong thời vị lai sau này, sẽ có số người gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu, còn mảnh y nhỏ quấn cổ, là người không có giới, hành ác pháp. Thí chủ có đức tin trong sạch làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, dù trong nhóm có Tỳ khưu không có giới ấy.

Này Ānanda, phước thiện cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, mặc dù trong nhóm có Tỳ khưu không có giới trong thời kỳ ấy. Như Lai dạy rằng: “Quả báu của phước thiện bố thí ấy được vô lượng không sao kể được! (asaṅkheyyam), không sao lường được! (appameyyam)”.

Này Ānanda, Như Lai không dạy rằng: “Làm phước thiện cúng dườngđến cá nhân sẽ hưởng quả báu nhiều hơn làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng”.[8]

Quả Báu Của Lễ DângY Thường Dùng Với Dâng Y Kathina

- Quả báu của lễ dâng y thường dùng

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, cung kính làm lễ dâng các y thường dùngđến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) hoặc dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna). Sau khi thí chủ đã thành tựu được phước thiện dâng y rồi, quả báu của phước thiện dâng y vô cùng phong phú tuỳ theo lời phát nguyện của thí chủ.

Ví dụ:

- Tích Đức Bồ Tát kiếp đầu tiên của Đức Phật Gotamađược tóm lược như sau:

Đức Thế Tôn ngự trên tảng đá quý cùng với số đông chư Tỳ khưu Tăng ở ven rừng có nhiều cây hoa thơm gần hồ Anotatta. Khi ấy Đức Thế Tôn truyền dạy về thiện nghiệp của Ngài đã tạo trong tiền kiếp đầu tiên rằng:

- Này chư Tỳ khưu, các con nên lắng nghe thiện nghiệp mà Như Lai đã tạo trong tiền kiếp. Như Lai thấy một vị Tỳ khưu hành pháp hạnh đầu đà sống trong rừng, nên phát sinh đức tin trong sạch, bèn dâng cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy một tấm vải cũ. Ngay khi ấy, Như Lai phát sinh tâm đại bi, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đó là tiền kiếp Đức Bồ Tát đầu tiên của Như Lai có ý nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chính nhờ thiện nghiệp bố thí cúng dường “tấm vải cũ” trong tiền kiếp đầu tiên ấy, dẫn đến kiếp hiện tại đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức Phật Gotama.[9]

- Tích chuyện tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama, xuất sắc nhất về thần thông, được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, tại Vương quốc Bārāṇasi [10], tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là một cô gái sinh trong một gia đình nghèo khó. Vào ngày lễ hội, cô nhìn thấy các cô gái khác cùng trang lứa, ăn mặc y phục bằng tấm vải choàng màu đỏ đắt giá rất đẹp, khiến cô thèm được mặc tấm vải choàng màu đỏ ấy. Cô về xin cha mẹ mua cho cô tấm vải ấy, cha mẹ an ủi cô rằng:

- Này con yêu quý! gia đình ta nghèo khó, thiếu thốn, hằng ngày cha mẹ làm lụng vất vả, cực nhọc, lo kiếm miếng ăn, cái mặc thô sơ còn chưa đủ, làm sao mua sắm được tấm vải choàng đắt giá sang trọng như vậy, hỡi con!

- Thưa cha mẹ, nếu vậy, xin phép cha mẹ cho con đi làm thuê, ở mướn trong một gia đình giàu nào đó, qua một thời gian, người chủ nhà thấy con làm được việc, sẽ cho con tấm vải ấy.

Được cha mẹ cho phép, cô gái đến xin làm thuê, ở mướn trong một gia đình phú hộ. Cô thưa với ông bà chủ rằng:

- Thưa ông bà phú hộ, con xin ở đây làm công, chỉ mong ước được tấm vải choàng đỏ mà thôi.

Ông bà phú hộ đặt điều kiện với cô rằng:

- Nếu ngươi chịu ở đây, làm việc giỏi suốt 3 năm, chúng ta xét thấy xứng đáng, chúng ta sẽ cho ngươi tấm vải choàng màu đỏ, mà ngươi ước muốn.

Cô gái vô cùng hoan hỷ, chấp thuận điều kiện của ông bà phú hộ. Ngày đêm cô siêng năng cần mẫn làm tốt mọi công việc. Tuy cô làm chưa đủ 3 năm, nhưng ông bà phú hộ xét thấy cô rất xứng đáng được khen thưởng, nên một hôm gọi cô đến và bảo rằng:

- Hôm nay chúng ta ban tặng cho ngươi tấm vải choàng màu đỏ và các tấm vải khác. Ngươi hãy nên đi tắm cho sạch sẽ rồi mặc tấm vải choàng này.

Cô gái vô cùng sung sướng nhận tấm vải màu đỏ, thỏa lòng mong ước từ lâu. Cô cám ơn ông bà phú hộ.

Cô cùng nhóm bạn gái đi đến bên sông, cô đặt tấm vải trên bờ và nghĩ rằng: “Xuống sông tắm xong, ta sẽ mặc tấm vải choàng này. Có được tấm vải choàng này, ta phải làm công vất vả ngày đêm, suốt thời gian gần 3 năm qua

Ngay khi ấy, một vị Đại đức là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa bị mất trộm tất cả y, nên Ngài mặc tấm y dệt bằng chỉ gai thô đi ngang qua nơi ấy. Cô gái nhìn thấy Ngài và nghĩ rằng:

Vị Đại đức này bị mất trộm y, nên Ngài mặc tấm y như vậy. Còn ta có được tấm vải choàng này, phải làm công vất vả ngày đêm, suốt thời gian gần 3 năm. Bởi vì trong quá khứ, tiền kiếp ta không làm phước bố thí vải, cho nên kiếp hiện tại này, ta phải chịu cảnh nghèo khổ thiếu thốn như thế này. Bây giờ ta nên làm phước thiện dâng một nửa tấm vải choàng đến Ngài Đại đức

Nghĩ xong, cô vội vã bước lên bờ, mặc y phục cũ xong rồi bạch với Ngài rằng:

- Kính bạch Ngài Đại đức, kính thỉnh Ngài dừng lại một giây lát.

Cô đến đảnh lễ Ngài rồi ngồi tại nơi ấy, xé tấm vải thành 2 tấm, cô cung kính dâng đến Ngài một nửa tấm vải. Ngài tạm lánh vào chỗ kín thay tấm y cũ bằng nửa tấm vải choàng ấy, mặc nghiêm chỉnh xong, Ngài bước ra. Bây giờ, cô nhìn thấy Ngài Đại đức mặc nửa tấm vải vào, rất trang nghiêm, làm cho cô vô cùng hoan hỷ. Cô kính xin dâng đến Ngài một nửa tấm vải choàng còn lại rồi phát nguyện rằng:

Kính bạch Ngài, trong vòng tử sinh luân hồi, con nguyện kiếp nào cũng là người nữ xinh đẹp nhất, làm cho người nam nào nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, mất trí, không còn biết mình nữa. Con sẽ là người phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần”.

Cô gái ấy, sau khi chết, do năng lực phước thiện dâng tấm vải cho quả tái sinh, khi thì tái sinh làm thiên nữ trên cõi trời, là một thiên nữ xinh đẹp nhất, có hào quang sáng ngời hơn tất cả các chư thiên khác; khi thì tái sinh làm người nữ, là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, không một ai sánh bằng. Như kiếp tái sinh làm con gái của ông phú hộ Tiriṭivaccha tại kinh thành Ariṭṭha, cô có tên là Ummādandī, có nghĩa là cô gái có sắc đẹp làm mê hồn. Thật vậy, những người đàn ông mới nhìn thấy cô, họ đều say mê, mất trí như người điên, như người say, say bởi tâm tham ái.

Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của cô gái nghèo dâng tấm vải choàng đến Ngài Đại đức, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa trong thời quá khứ, do phước thiện dâng tấm vải choàng ấy cho quả tái sinh kiếp chót làm con gái ông phú hộ xứ Sāvatthi, cô xinh đẹp tuyệt trần, rất trang trọng, thật đáng chiêm ngưỡng, nên được đặt tên là Uppalavaṇṇā. Khi cô trưởng thành thì Đức vua các nước lớn nhỏ, các phú hộ đều đến cầu hôn với cô. Ông phú hộ phụ thân của cô không thể gả cô cho một người nào được, ông khuyên dạy cô nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Vốn kiếp này là kiếp chót của cô, cho nên, khi nghe thân phụ khuyên dạy như vậy, cô vô cùng hoan hỷ nghe lời khuyên dạy ấy. Cô được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, sau đó không lâu, Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa thực hành thiền tuệ, chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ tuệ phân tích, đặc biệt có Lục thông xuất sắc hơn các hàng nữ Thanh Văn của Đức Phật Gotama.

“Đức Thế Tôn tuyên dương Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama, xuất sắc nhất về thần thông trong các hàng nữ Thanh Văn”.

Như vậy, quả báu của phước thiện dâng tấm vải choàng của cô gái nghèo, thật vô cùng phong phú từ kiếp này sang kiếp khác, cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh nữ Arahán Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama.

Quả Báu Của Phước Thiện Bố Thí Một Tấm Choàng

- Sự tích ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka[11]

Đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, Ngài thuyết giảng đề cập đến ông Bàlamôn tên Cūḷekasāṭakađược tóm lược như sau:

Trong kinh thành Sāvatthi, có ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka, ông Bàlamôn này có một tấm choàng. Tấm choàng ấy là tài sản chung của vợ chồng ông Bàlamôn. Mỗi khi ông hay bà đi ra khỏi nhà, thì mới mặc tấm choàng ấy.

Một hôm, nghe tin Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, ông Bàlamôn nói với bà Bàlamôn rằng:

- Này bà, hôm nay Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, vợ chồng chúng ta chỉ có một tấm choàng, cho nên, chúng ta không thể cùng nhau đi chung được. Vậy bà đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?

Bà Bàlamôn thưa với chồng rằng:

- Này ông, tôi sẽ đi nghe pháp ban ngày, còn ông nên đi ban đêm.

Đêm hôm ấy, ông Bàlamôn đi đến ngôi chùa Jetavana, ngồi phía trước Đức Phật. Khi nghe Đức Phật thuyết pháp, ông liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, ông muốn cúng dường đến Đức Thế Tôn tấm choàng mà ông đang mặc trên thân. Nhưng ngay khi ấy, do tâm keo kiệt bủn xỉn gấp ngàn lần phát sinh, nên ông nghĩ lại rằng: “Nếu ta cúng dường tấm choàng này đến Đức Thế Tôn, thì không chỉ có ta mà còn vợ của ta cũng sẽ không còn tấm nào để mặc nữa”.

Một lần nữa, đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn lại phát sinh, tiếp theo tâm bủn xỉn keo kiệt ngàn lần lại phát sinh, đè bẹp đức tin. Ông Bàlamôn suy đi xét lại rằng: “Ta có nên cúng dường hay không nên cúng dường tấm choàng này đến Đức Thế Tôn?”. Suốt canh đầu đêm đã trôi qua, hễ đức tin phát sinh càng mạnh, thì tâm keo kiệt bủn xỉn cũng phát sinh càng mạnh, tự đấu tranh giằng co giữa đức tin với tâm keo kiệt bủn xỉn; bước sang canh giữa đêm vẫn chưa phân thắng bại. Đến canh chót, ông Bàlamôn suy xét kỹ càng và phân trích rõ ràng rằng: “Đức tin của ta với tâm keo kiệt bủn xỉn tranh đấu giằng co suốt 2 canh rồi, nếu để tâm keo kiệt bủn xỉn tăng trưởng thì nó chỉ dẫn dắt ta sa đọa trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh mà thôi”. Suy xét và phân tích rõ ràng như vậy, đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn lại phát sinh mạnh, đè bẹp được tâm keo kiệt bủn xỉn; ông Bàlamôn liền đưa hai tay cởi tấm choàng đặt dưới bàn chân của Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường đến Ngài. Ông Bàlamôn vô cùng hoan hỷ sung sướng lên tiếng 3 lần:

“Jitaṃ me! Jitaṃ me! Jitaṃ me!”

“Ta được thắng rồi! Ta được thắng rồi! Ta được thắng rồi!”

Đức vua Pasenadi Kosala đang ngồi nghe Đức Phật thuyết pháp, Đức vua truyền gọi vị quan cận thần đến hỏi ông Bàlamôn kia: “Ông thắng ai?”.

Vị quan đến hỏi ông Bàlamôn biết rõ sự việc, đến tâu lên Đức vua. Đức vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, ta nên ban thưởng cho y”.

Đức vua truyền lệnh mang 2 tấm choàng đến để ban thưởng cho ông Bàlamôn. Ông Bàlamôn lại cung kính cúng dường 2 tấm choàng ấy đến Đức Thế Tôn.

Thấy vậy, Đức vua ban cho ông 4 tấm choàng, ông cũng cung kính cúng dường đến Đức Thế Tôn. Cứ như vậy, Đức vua ban cho ông 8 tấm choàng, 16 tấm choàng, 32 tấm choàng, 64 tấm choàng. Ông Bàlamôn nghĩ rằng: “Mỗi lần ta cung kính cúng dường hết các tấm choàng đến Đức Thế Tôn, Đức vua lại ban thưởng cho ta gấp đôi. Vậy lần này ta chỉ cung kính cúng dường đến Đức Thế Tôn 60 tấm choàng, còn lại 4 tấm choàng, phần của ta 2 tấm choàng và vợ của ta 2 tấm choàng”.

Đức vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, trong cung điện của ta có 2 tấm gấm quý giá, 100 ngàn đồng kapāpana, ta sẽ ban thưởng đến vị Bàlamôn này”.

Ông Bàlamôn nhận 2 tấm gấm quý giá mà Đức vua ban cho ông, ông nghĩ rằng: “2 tấm gấm quý giá này ta không nên sử dụng, ta chỉ nên cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng mà thôi. Vậy, một tấm gấm làm tấm trải chỗ nằm của Đức Phật trong cốc Gadhakuṭi, và một tấm gấm còn lại làm tấm trải chỗ ngồi của chư Đại đức Tăng thọ thực trong nhà của ta”. Ông Bàlamôn thực hiện theo ý nghĩ của ông.

Một buổi chiều, Đức vua Pasenadi Kosala đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại cốc Gadhakuṭitrong ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy tấm gấm quý giá trải trên chỗ nằm của Đức Phật, Đức vua bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thí chủ nào cúng dường tấm gấm quý giá ấy? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này Đại vương, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭakacúng dường Như Lai tấm gấm quý giá ấy.

Đức vua Pasenadi Kosala nói rằng:

- Vị Bàlamôn của ta thật đáng mến!

Đức vua ban cho ông Bàlamôn 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahāpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thâu thuế. Đức vua đã ban cho ông Bàlamôn gồm có 7 thứ, mà mỗi thứ có 4.

Tại giảng đường, chư Tỳ khưu tụ hội bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭakarằng:

Thật lạ thường, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭakalàm phước cúng dường một tấm choàng đến Đức Thế Tôn, chỉ trong chốc lát sau, Đức vua ban cho ông mỗi lần gấp đôi (2, 4, 8, 16, 32, 64 = 126 tấm choàng). Đức vua còn ban cho ông 7 thứ, mà mỗi thứ có 4. nghiệp thiện mà ông đã làm trong hiện tại này, nghiệp thiện ấy đã cho quả báu ngay hiện tại hôm nay”.

Chư Tỳ khưu đang bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka; khi ấy, Đức Thế Tôn ngự lên chỗ cao quý đã trải sẵn, Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:

- Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì?

Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn biết rõ câu chuyện như vậy, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, nếu ông Ekasāṭakalàm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16.

Nếu làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh giữa đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 8.

Hai canh (canh đầu và canh giữa đêm), ông chưa có thể dâng được, đến canh chót đêm, ông mới làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai, cho nên ông được quả báu 7 thứ mà mỗi thứ có 4.

Thực ra, người tạo nghiệp thiện, khi tâm thiện đầu tiên phát sinh không để cho chậm trễ, mà nên tạo nghiệp thiện ấy, ngay lúc đó. Người tạo nghiệp thiện chậm trễ, thì quả của nghiệp thiện ấy cũng bị chậm trễ. Vì vậy, nên tạo nghiệp thiện liền sau khi thiện tâm phát sinh.

Đức Thế Tôn thuyết dạy câu kệ rằng:

“Abhittharetha kalyāṇe,
pāpacittaṃ nivāraye.
Dandhaṃ hi karato puññaṃ,
pāpasmiṃ ramatī mano”
[12]

Nhanh chóng tạo nghiệp thiện,
Ngăn cản tâm tội ác.
Người làm phước chậm trễ,
Tâm thích thú trong ác.

Pāpasmiṃ: Tâm của hạng phàm nhân thường thích thú say mê trong những điều tội lỗi, tội ác; đó là tâm bất thiện, tâm ác trong đó có nghiệp ác mà nghiệp ác thì cho quả khổ trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp (kiếp sau) và những kiếp vị lai. Bởi vậy cho nên, mỗi khi có tâm thiện phát sinh muốn làm phước thiện, tạo nghiệp thiện thì nên nhanh chóng thực hiện ngay ý định ấy. Nếu chậm trễ thì tâm dễ dàng thay đổi ý định ấy.

Cho nên, trong mọi phước thiện, mỗi người trong chúng ta nên tự mình động viên, khuyến khích mình rằng:

Ahaṃ pure! Ahaṃ pure! ...

Ta là người trước tiên! Ta là người trước tiên!...

Nghiệp thiện ấy chắc chắn có năng lực rất mạnh, thì quả báu của nghiệp thiện ấy chắc chắn rất đầy đủ và rất phong phú.

Nếu như ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka dâng cúng dường tấm choàng đến Đức Phật vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16. Nhưng canh đầu và canh giữa đêm, đức tin của ông chưa có đủ sức mạnh thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, cho đến canh chót đêm; ông nhờ có một nhận thức đúng đắn, tạo nên đức tin mạnh mẽ, có năng lực thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, ông liền làm phước thiện kính dâng tấm choàng đến Đức Phật, do chậm trễ cho nên quả báu của nghiệp thiện bố thí ấy mỗi thứ chỉ có 4 mà thôi.

Ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước thiện bố thí cúng dường 1 tấm choàng đến Đức Phật, ngay sau đó, quả báu của nghiệp thiện bố thí là được Đức vua ban thưởng không những có được 164 tấm choàng, 2 tấm gấm quý giá, mà còn có 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahāpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thu thuế; gồm có 7 thứ mà mỗi thứ có 4.

8 Quả Báu Của Phước Thiện Bố Thí Vải

Trong bộ Apādāna, sự tích Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavaccha[13] là bậc Thánh Arahán có Tứ tuệ phân tích, 8 Pháp giải thoát (Vimokkha), Lục thông. Ngài là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama, có đức hạnh đặc biệt xuất sắc làm hài lòng hoan hỷ nhiều chư thiên hơn các bậc Thánh Thanh Văn khác. Ngài nhớ lại những tiền kiếp của mình đã từng làm phước thiện bố thí những thứ nào và quả báu của thứ ấy ra sao.

Trong phần này xin trích dẫn về phước thiện bố thí dâng vải và quả báu của phước thiện dâng vải (dussānisaṃsa). Ngài Đại Trưởng Lão dạy rằng:

Dussāni Sugate datvā,
Saṃghe gaṇavaruttame,
atthānisaṃse anubhomi.
Kammānucchavike mama...

Tôi đã cung kính cúng dường những tấm vải,
đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng cao thượng,
Tôi hưởng được tám quả báu của phước thiện ấy,
tùy theo thiện nghiệp của tôi đã tạo như:

- Tôi là người có màu da óng ánh như vàng,
- Bụi bặm dơ dáy không thể bám vào thân,
- Có hào quang sáng ngời lan tỏa xung quanh,
- Có ánh sáng đặc biệt hơn các chư thiên khác.
- Thân hình của tôi rất xinh đẹp, mềm mại.
- Kiếp tử sinh luân hồi của tôi:
- Có một trăm ngàn tấm vải màu trắng,
- Có một trăm ngàn tấm vải màu vàng,
- Có một trăm ngàn tấm vải màu đỏ.
Như vải lụa, vải gấm, vải bông, vải len,
Mà tôi có được trong khắp mọi nơi.
Đó là quả báu của phước thiện bố thí vải,
Mà tôi đã làm trong kiếp quá khứ.

Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavacchathuật lại nghiệp thiện bố thí vải và 8 quả báu của nghiệp ấy.

Trong buổi lễ dâng y có dâng thêm cái bát (dùng cho vị Sadi, Tỳ khưu đi khất thực).

- Nếu người thí chủ làm phước thiện dâng cái bát thì có quả báu như thế nào?

Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavacchadạy rằng:

“Tôi đã cung kính cúng dường bát,
đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng cao thượng,
Tôi hưởng được mười quả báu của phước thiện ấy,
Tùy theo thiện nghiệp của tôi đã tạo như:
Tôi thường dùng vật thực trong chén đĩa,
Bằng vàng, bằng ngọc mani, bằng bạc,...
Tôi là người không gặp điều nguy hiểm,
Không có điều rủi ro tai hại.
Được nhiều người cung kính.
Tôi là người có đầy đủ cơm, nước, y phục, và mọi thứ đồ dùng.
Tài sản của tôi không gặp tai họa nào làm hư mất.
Tôi là người có tâm định vững chắc.
Tôi luôn luôn thích trong chánh pháp.
Tôi là người ít phiền não.
Nay tôi không còn phiền não trầm luân (Ngài là bậc Thánh Arahán).
Những quả báu, ân đức ấy theo tôi trong các cõi trời, cõi người không bao giờ tách rời, như bóng không bao giờ tách rời khỏi cây.

Trong thời kỳ Đức Phật đang còn trên thế gian, một số người nam xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, Ngài cho phép một số người nam xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy rằng:

Ehi Bhikkhu! Svākkhato dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya”.

“Con hãy đến với Như Lai, con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối; con hãy nên cố gắng tinh tấn thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.

Sau khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì người nam ấy (hoặc Đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo...) trở thành vị Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn (3 y + 1 bát + 1 dây thắt lưng + 1 dao cạo + 1 ống kim chỉ + 1 đồ lọc nước) được thành tựu do quả của phước thiện bố thí của người ấy (iddhimayapattacīvara). Vị Tỳ khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh như một vị Tỳ khưu có 60 hạ. Nhưng cũng có trường hợp, người nam sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, ngay tại nơi ấy, chứng đắc thành bậc Thánh Nhân, người nam ấy xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, thì Đức Phật truyền hỏi người nam ấy có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn hay không. Nếu người nam ấy chưa đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn, thì cần phải đi tìm cho đầy đủ mới được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Vấn:Vì lý do gì khi người nam xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, có một số người nam được Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy: “Ehi Bhikkhu!”, còn có một số người nam khác, Đức Phật hỏi người nam ấy có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn hay không. Nếu người ấy chưa đầy đủ 8 thứ vật dụng ấy thì cần phải đi tìm cho đầy đủ mới được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu?

Đáp:Mỗi khi Đức Phật cho phép người nam nào xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy “Ehi Bhikkhu!” Đức Phật xem xét tiền kiếp của người nam ấy đã từng làm phước thiện bố thí tam y (y 2 lớp, y vai trái và y nội) bát và các thứ vật dụng của Samôn đến chư Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật quá khứ hay không, và tiền kiếp người nam ấy có phát nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách “Ehi Bhikkhu!” hay không. Nếu người nam ấy có đủ điều kiện như vậy, thì Đức Phật mới truyền dạy “Ehi Bhikkhu!”. Sau khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, tức thì người nam ấy (hoặc Đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo...) trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn được thành tựu do phước thiện của người ấy (iddhimayapattacīvara).

Còn người nào trong tiền kiếp không từng làm phước bố thí 8 thứ vật dụng của Samôn và cũng không từng phát nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách “Ehi Bhikkhu!” thì Đức Phật không thể truyền dạy “Ehi Bhikkhu!”được.

Trong thời kỳ Phật giáo hiện đang còn tồn tại trên thế gian, chư Tỳ khưu hiện đang còn tồn tại, đó là một cơ hội tốt hiếm có, cũng rất hy hữu để cho những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có dịp tốt làm phước bố thí cúng dường tam y, bát và các thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng, rồi phát nguyện kiếp sau gặp Đức Phật xin xuất gia trở thành Tỳ khưu theo cách “Ehi Bhikkhu!”. Nhất là trong dịp lễ dâng y kathina thì lời phát nguyện của mình sẽ thành tựu như ý, bởi vì buổi lễ dâng y kathina có nhiều phước thiện lớn lao vô lượng, phát nguyện điều gì mà chẳng thành tựu được! Chắc chắn sẽ thánh tựu như ý.

Để thành tựu những quả báu của phước thiện bố thí lớn lao vô lượng, thì cần phải hợp đầy đủ những nhân tố cần thiết như:

- Vật thí phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch.

- Thí chủcó tác ý thiện tâm (cetanā) hoàn toàn trong sạch.

- Bậc thọ thílà người có giới đức hoàn toàn trong sạch, hành thiện pháp cao thượng.

Khi đã thành tựu phước thiện bố thí rồi, thí chủ có được nhiều phước thiện thanh cao, cho nên thí chủ phát nguyện như thế nào, do nhờ năng lực nghiệp thiện ấy sinh quả đem đến thành tựu quả báu như thế ấy. Cũng như người đã cố gắng tinh tấn làm công việc lớn lao, có được nhiều tiền của; người ấy muốn mua sắm thứ gì, thì cũng được như ý.

Trong các buổi lễ làm phước thiện bố thí các thứ vật dụng (không phải pháp thí) thì chỉ có lễ làm phước thiện dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa là cao quý hơn cả, và quả báu của lễ dâng y kathina cũng phong phú vô lượng không sao kể xiết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2019(Xem: 15196)
Theo thông lệ hằng năm, Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã quy định Khoá An Cư Kiết Đông 10 ngày, được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry - Paris - Pháp quốc vào dịp đầu năm Dương Lịch. Thời tiết đã vào Thu, hoa lá đã chuyển màu, không mấy chốc nmùa Đông sẽ trở về trên xứ Âu Châu và thời gian chỉ còn hai tháng rưởi nữa là hết năm 2019. Bước qua năm 2020, nhưng đặc biệt Giao Thừa - Nguyên Đán Canh Tý sang năm rơi vào quý tuần tháng 01 năm 2020 tức là 24 & 25/01/ 2020. Cho nên Hội Đồng Điều Hành quyết định mở Khoá An Cư Kiết Đông bắt đầu từ ngày 02 tháng 01 năm 2020 đến ngày 11 tháng 01 năm 2020, sớm hơn những năm trước, vì để thời gian cho các Bổn Tự chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán Canh Tý.
31/07/2019(Xem: 9912)
Trong tiết trời giá lạnh của mùa đông xứ Úc, mùa Vu Lan lại trở về với những người con Phật trên khắp Năm Châu. Mùa Hiếu Hạnh nhắc nhở cho con cháu tưởng nhớ đến công ơn giáo dưỡng của ÔNG-BÀ-CHA-MẸ nên Lễ VU LAN cũng là Mùa BÁO ÂN ĐÁP NGHĨA, giáo dục đạo đức nhân sinh, xây dựng nếp sống THANH LƯƠNG tiến đến CHÂN-THIỆN-MỸ, góp phần tạo sự an lành trong gia đình và xã hội.
30/06/2019(Xem: 3843)
Mark Unno là vị tăng sĩ trong truyền thống Phật Giáo Tịnh Độ và cũng là Phó Giáo Sư dạy về Phật Giáo tại Đại Học University of Oregon, Hoa Kỳ. Ông là tác giả của cuốn sách “Shingon Refractions: Myoe and the Mantra of Light” [Những Tia Sáng Chân Ngôn Tông: Minh Huệ và Thần Chú Của Ánh Sáng], và ông cũng là chủ bút của Tạp Chí Buddhism and Psychotherapy Across Cultures [Phật Giáo và Tâm Lý Trị Liệu Xuyên Qua Các Nền Văn Hóa].
01/06/2019(Xem: 5507)
Kinh Phật căn bản là tuyển tập 13 bài kinh, trong đó 11 bài có xuất xứ từ kinh điển Pali và 2 bài thuộc kinh điển Đại thừa. Các bài kinh này, trong mười năm qua, tôi thường sử dụng trong các chuyến hành hương chiêm bái Phật tích Ấn Độ và Nepal do tôi hướng dẫn. Thay vì mang theo nhiều bài kinh riêng biệt, trong ấn bản này, tôi quyết định gộp chung thành một tuyển tập, theo đó người đọc tụng sẽ tiện sử dụng khi ngồi trên xe, lúc có mặt tại các Phật tích hoặc đọc tụng tại chùa hay tại tư gia. Kinh tiểu sử đức Phật giúp ta ôn lại cuộc đời đức Phật lịch sử qua năm giai đoạn: (i) Từ lúc đản sanh đến lúc lập gia đình, (ii) từ bỏ cơ hội làm vua, trở thành nhà tâm linh, (iii) sáu tháng trải nghiệm hai pháp thiền của đạo sa môn và năm năm rưỡi tu khổ hạnh theo đạo Bà-la-môn, (iv) giác ngộ thành Phật nhờ phương pháp Bát chánh đạo do Phật khám phá, (v) truyền bá chân lý, cứu độ nhân sinh suốt 45 năm.
14/03/2019(Xem: 21372)
Chùa Thiên Ấn do TT Thích Như Định thành lập năm 1992 (Nhâm Thân) tại thành phố Wollongong, tiểu bang New South Wales, cho đến ngày 14 tháng 4 năm 1993, nhân duyên đầy đủ, chùa chính thức dời về Canley Vale thuộc thành phố Fairfield. Chùa Thiên Ấn hiện tọa lạc tại số 69-71 Delamere St, Canley Vale (bao gồm lô đất số 56-58 Cadwell St, Canley Vale), Sydney, New South Wales với diện tích tổng quát là 3,600m2. Chùa Thiên Ấn tại Úc được đặt theo tên của Tổ Đình Thiên Ấn, Quảng Ngãi là quê hương của Thầy Trụ Trì Thích Như Định. Tổ Đình tọa lạc trên núi Thiên Ấn, phía dưới là sông Trà Khúc.
17/08/2018(Xem: 5083)
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã phát huy những giá trị tốt đẹp vào đời sống xã hội và góp phần quan trọng đối với văn hóa cộng đồng, trở thành tôn giáo hoà hợp với bản sắc dân tộc. Qua bao thăng trầm của lịch sử, Phật giáo Việt Nam nói chung và nghi lễ Phật giáo nói riêng, có vị trí không nhỏ trong quá trình hình thành văn hóa của dân tộc. Bài viết khảo cứu về nghi lễ cầu an, cầu siêu tại Thừa Thiên – Huế, gắn liền với nhu cầu tâm linh của con người, vừa mang sắc thái riêng của vùng miền, vừa chịu tác động bởi yếu tố truyền thừa, tiếp biến trong thực hành nghi lễ. Trên cơ sở đó, bài viết chỉ ra những tồn tại, bất cập trong nghi lễ cầu an, cầu siêu và đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao ý thức đối tượng thực hành và tạo sự nhất quán trong thực hành nghi lễ. Từ khóa: cầu an, cầu siêu, thực hành, nghi lễ, nhạc lễ, Phật giáo, tâm linh.
19/12/2017(Xem: 6507)
Khánh Hòa: Đại Trai đàn bạt độ giải oan, cấu siêu nạn nhân tử nạn trên biển do bão số 12 tại Van Ninh, Ngày 17/12/2017 (nhằm ngày 30/10 /Đinh Dậu), được sự đồng thuận cho phép của UBND Huyện Vạn Ninh, BTS GHPGVN huyện Vạn Ninh đã long trọng tổ chức Đại Trai đàn bạt độ giải oan cấu siêu cho bà con xấu số tử nạn trên biển trong cơn bão số 12 tại huyện Vạn Ninh. Quang lâm chứng minh có HT. Thích Minh Thông - Uỷ Viên HĐTS GHPGVN, Phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà; HT Thích Nguyên Quang - Uỷ Viên HĐTS GHPGVN, Phó BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà, Trưởng BTS GHPGVN huyện Vạn Ninh; TT Thích Thiện Phước - Uỷ Viên HĐTS GHPGVN, Phó BTS, Chánh Thư Ký BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà và chư tôn thiền đức Tăng Ni trong huyện.
15/12/2017(Xem: 75726)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 118896)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
01/11/2017(Xem: 9774)
Sen quý nở đài giác ngộ Hào quang chiếu rạng mười phương Trí huệ vượt tầm pháp giới Từ bi thấm nhuận non sông Vừa thấy dung nhan Điều Ngự Trăm ngàn phiền não sạch không Hướng về tán dương công đức Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567