Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Tụng Pali phiên âm và nghĩa Việt.

04/04/201317:26(Xem: 21814)
Kinh Tụng Pali phiên âm và nghĩa Việt.

Duc The Ton 1

Kinh Tụng Pali phiên âm và nghĩa Việt,

phần căn bản dành cho người mới.

Tk. Chánh Kiến biên soạn
(05/05/05)

Lễ bái Đức Phật:


Námô tás-sá Phágá quátô Aùrá háto Săm-masămbút-thássá (3 lần)

- Con đem hết lòng thành kính, làm lễ Đức Thế Tôn, bậc A La Hán, đấng Chánh Biến Tri (3 lần).

Thỉnh chư thiên nghe tụng Kinh:


Sắcgê kamê chá rupê gírísí khára ùtátê

Chanta ùlík-khê químanê.

Đipê rat-thê chá gamê tárú quáná gáhánê

gêháquát-thumhí khết-tê phum-ma chádanhtú

đêqua chála ùthálá quísámê

dắk-khá ganhtháp bánaga.

Tít-thánta sanhtíkê dăng múní quárá

quáchánăng satháquô mê súnanhtú.

- Tham-más-sáquáná kalô ádăng phádănhta.
- Tham-más-sáquáná kalô ádăng phádănhta.
- Tham-más-sáquáná kalô ádăng phádănhta.

Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đảnh núi núi khơng liền, hoặc nơi hư khơng; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn;

Chư Dạ Xoa, Càn Thác Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ hoặc nơi khơng bằng phẳng, gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây.

Lời nào là kim ngơn cao thượng của Đức Thích Ca Mâu Ni mà chúng con tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy.

- Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo.

- Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo.

- Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo.

CÚNG TAM BẢO:

Ímêhí đipá thupáđi sắk-karêhí

Bút-thăng Tham-măng Săngkhăng

Aùphí puchá damí mata-píta đinăng

Gúná quănhta ùnanh-chá mâyhanh-chá

Đikha ùrát-tăng át-thadá hítadá súkhadá.

- Con xin dâng các lễ vật nầy, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng, tam bảo, ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ con và con đều được sự tấn hĩa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (lạy)

LỄ BÁI PHẬT BẢO:

Dô san-nísin-nô quárá bôthí mulê

marăng sásênăng máhátinh quíchaydô

sămbôdhí magach-chí ánanh ta ùnhanô

lôkút-támôtăng páná mamí bút-thăng.

Đức Phật tham thiền về số tức quan, ngồi trên bồ đồn, dưới bĩng cây Bồ Đề quý báu và đắc thắng tồn bọn Ma Vương mà thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh, con xin hết lịng thành kính mà làm lễ Ngài. (lạy)

* Dê chá BÚT-THA átita chá dê chá BÚT-THA

ána gáta pách-chúp-panh-nha chá dê

BÚT-THA áhăng quanh-damí sáb-báđa.

Chư Phật đã thành Chánh Giác trong kiếp quá khứ, Chư Phật sẽ thành Chánh Giác trong kiếp vị lai, Chư Phật đang thành Chánh Giác trong kiếp hiện tại này, con xin hết lịng thành kính mà làm lễ Chư Phật trong Tam Thế ấy. (lạy)

ÂN ĐỨC PHẬT:

Ítípí sô Phágá qua Aùrá hăng Săm-masăm bút-thô

Quích-cha-chárána ùsăm-panh-nô Súgátô

Lôka ùquídu Aùnút-tárô Púrí sáđăm-mása ráthí

Sát-thađê quámá nús-sanăng Bút-thô Phágá quatí.

1 - Đức Thế Tơn hiệu Ứng Cúng- Aùráhăng bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.

2 - Đức Thế Tơn hiệu Chánh Biến Tri- Săm-masăm bút-thô bởi Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy khơng thầy chỉ dạy.

3 - Đức Thế Tơn hiệu Minh Hạnh Túc- Quích-chachá ráná sămpanh-nô bởi Ngài tồn đắc 3 cái giác, 8 cái giác và 15 cái hạnh.

4 - Đức Thế Tơn hiệu Thiện Thệ- Súgátô bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt. Đại Niết Bàn:

5 - Đức Thế Tơn hiệu Thế Gian Giải- Lôká quíđu, bởi Ngài đã thơng suốt Tam Giới.

6 - Đức Thế Tơn hiệu Vơ Thượng Sĩ- Aùnut-tárô bởi Ngài cĩ đức hạnh khơng ai bì.

7 - Đức Thế Tơn hiệu Điều Ngự Trượng Phu- Púrí sáđăm-masarat-thí bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.

8 - Đức Thế Tơn hiệu Thiên Nhơn Sư- Sát-thađe âquáma ùnus-sanăng bởi Ngài là thầy cả Chư Thiên và nhân loại.

9 - Đức Thế Tơn hiệu Phật- Bút-thô bởi Ngài Giác Ngộ lý Tứ Diệu Đế và đem ra giáo hĩa chúng sanh cùng biết với.

10 - Đức Thế Tơn hiệu Thế Tơn- Phágáqua bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới tức là Ngài khơng cịn luân hồi lại nữa. (lạy)

QUY NGƯỠNG PHẬT:

Nát-thí mê sáránăng anh-nhăng
BÚT-THÔ mê sáránăng quárăng
Eâtêná sách-cháquách-chêná
Hôtú mê chádámăng-gálăng.

Chẳng cĩ chi đáng cho con phải nương theo chỉ cĩ Đức Phật là quí báu, nên con phải hết lịng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)

SÁM HỐI PHẬT BẢO:

Uùt-támăng-gêná quanh đêhăng
Padápăm sum quárút-támăng
BÚT-THÊ dô khálítô đôsô
BÚT-THÔ khámátú tăng mámăng.

Con xin hết lịng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật, là Đấng Chí Tơn Chí Thánh. Các tội lỗi mà con đã vơ ý phạm đến Phật Bảo, cúi xin Phật Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

************

LỄ BÁI PHÁP BẢO:

Aùt-thăng-giká rida páthô chánanăng
Mốk-khắp-páquê sádá úchu chá mắg-gô
Tham-mô ádăng santí kárô pánitô
Nida níkô tăng páná mamí Tham-măng.

Các Pháp đúng theo đạo Bát Chánh, là con đàng đi của bậc Thánh Nhân, là con đàng chánh, dẫn người hữu chí nhập Niết Bàn được.

Pháp Bảo là Pháp trừ diệt các sự lao khổ và các điều phiền não, là Pháp chỉ dẫn chúng sanh thốt khỏi cái khổ sanh tử luân hồi, con xin hết lịng thành kính mà làm lễ Pháp ấy. (lạy)

* Dê chá THAM-MA átita chá dê chá THAM-MA

ána gáta pách-chúp-panh-nha chá dê

THAM-MA áhăng quanh-đamí sáb-báđa.

Các Pháp của Chư Phật đã cĩ trong kiếp quá khứ. Các Pháp của Chư Phật sẽ cĩ trong kiếp vị lai. Các Pháp của chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại nầy. Con xin hết lịng thành kính mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy. (lạy)

ÂN ĐỨC PHÁP:

Soak-khátô Phágá quáta Tham-mo Sanđít-thíkô

Aùka líkô Eâhí pás-síkô Oâpáná díkô

Pách-chát-tăng Quêđí táp-bô Quinh-nhu hití.

1 - Soak-khátô Phága ùquáta nghĩa là tam tạng Pháp Bảo của Đức Thế Tơn đã khẩu truyền y theo chánh pháp.

2 - Tham-mo là Pháp Thánh cĩ 9 hạng: "4 đạo 4 quả và 1 Niết Bàn".

3 - Sanđít-thíkô là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.

4 – Aùka líko là Pháp độ cho đắc quả khơng chờ ngày giờ, là khi nào đắc đạo thì đắc quả khơng chậm trễ.

5 – Eâhí pás-síkô là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả rồi, cĩ thể ứng hĩa cho kẻ khác biết được.

6 – Oâpána ùdíkô là Pháp của Chư Thánh đã cĩ trong mình do nhờ phép Thiền Định.

7 - Pách-chát-tăng Quêđí táp-bô Quinh-nhu hití là Pháp mà các hàng trí tuệ nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)

QUY NGƯỠNG PHÁP:

Nát-thí mê sáránăng anh-nhăng
THAM-MÔ mê sáránăng quárăng
Eâtêná sách-cháquách-chêná
Hôtú mê chádá măng-gálăng.

Chẳng cĩ chi đáng cho con phải nương theo chỉ cĩ Pháp Bảo là quí báu, nên con phải hết lịng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật nầy. (lạy)

SÁM HỐI PHÁP BẢO:

Uùt-támăng-gêná quanh đêhăng
Tham-manh chá đúquí thăng quárăng

THAM-MÊ dô khálítô đôsô
THAM-MÔ khámátú tăng mámăng.

Con xin hết lịng thành kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo là Pháp học và Pháp hành. Các tội lỗi mà con đã vơ ý phạm đến Pháp Bảo, cúi xin Pháp Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

************

LỄ BÁI TĂNG BẢO:

Săngkhô quísut-thô quárá đắk-khí nay-dô
Santinh-đrídô sáp-báma ùlap-pa ùhínô
Gúnê híne âkêhí sámít-thípát-tô
Aùna sáquô tăng pána mamí Săngkhăng.

Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quí báu là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường, vì lục căn của các Ngài đã thanh tịnh, lịng tham muốn đã dứt trừ, là Tăng đã thốt ly trần tục, con xin hết lịng thành kính mà làm lễ chư Thánh Tăng ấy. (lạy)

* Dê chá SĂNGKHA átita chá dê chá SĂNGKHA

ána gáta pách-chúp-panh-nha chá dê

SĂNGKHA áhăng quanh-đamí sáb-báđa.

Chư Tăng đã đắc đạo cùng quả trong kiếp quá khứ. Chư Tăng sẽ đắc đạo cùng quả trong kiếp vị lai. Chư Tăng đang đắc đạo cùng quả trong kiếp hiện tại này, con xin hết lịng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng trong Tam Thế ấy. (lạy)

ÂN ĐỨC TĂNG BẢO:

SÚP-pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.

ÚCHÚ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.

NHADÁ pátí panh-nô phágá quátôsa quáká săngkhô.

SAMICHÍ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.

Dáđíđăng chát-tari púrísa ùdúganí. Át-thá púrísá púc-gála.

Eâsá phága ùquátô saquáká săngkhô.

Ahú nay-dô. Pahú nay-dô. Dắk-khí nay-dô. Anh-chálí kárá niyo.

Aùnút-tárăng punh-nhắk-khết-tăng lôkás-sati.

1 - SÚP-pátí panh-nô phágá quátôsa quáká săngkhô.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài đã tu hành chín chắn y theo chánh pháp.

2- ÚCHÚ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chín chắn y theo Thánh Pháp.

3- NHADÁ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài tu hành để Giác Ngộ Niết Bàn, là nơi an lạc dứt khỏi các sự thống khổ.

4- SAMICHÍ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu theo phép Giới Định Tuệ.

5- Dáđíđăng chát-tari púrísa dúganí. Tăng nếu đếm đơi thì cĩ bốn bậc:

Tăng đã đắc đạo cùng quả Tu Đà Huờn,
Tăng đã đắc đạo cùng quả Tư Đà Hàm,
Tăng đã đắc đạo cùng quả A Na Hàm,
Tăng đã đắc đạo cùng quả A La Hán,

6- Át-thá púrísá púc-gála. Tăng nếu đếm chiếc thì cĩ tám bậc:

Tăng đã đắc đạo Tu Đà Hườn,
Tăng đã đắc quả Tu Đà Hườn,
Tăng đã đắc đạo Tư Đà Hàm,
Tăng đã đắc quả Tư Đà Hàm,
Tăng đã đắc đạo A Na Hàm,
Tăng đã đắc quả A Na Hàm,
Tăng đã đắc đạo A La Hán,
Tăng đã đắc quả A La Hán,

7- Eâsá phágá quátôsa quáká săngkhô. Chư Tăng ấy là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật.

8- Ahú nay-dô. Các Ngài đáng thọ lãnh bốn mĩn vật dụng của tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người cĩ giới hạnh.

9- Pahú nay-dô. Các Ngài đáng thọ lãnh của tín thí, mà họ dành để cho thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài.

10 - Dắk-khí nay-dô. Các Ngài đáng thọ lãnh của Tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

11 - Anh-chálí kára ùniyo. Các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái.

12 - Aùnút-tárăng punh-nhắk-khết-tăng lôkás-sati. Các Ngài là phước điền của chúng sanh khơng đâu bì kịp. (lạy)

QUY NGƯỠNG TĂNG:

Nát-thí mê sáránăng anh-nhăng

SĂNGKHÔ mê sáránăng quárăng
Eâtêná sách-cháquách-chêná
Hôtú mê chádá măng-gálăng.

Chẳng cĩ chi đáng cho con phải nương theo, chỉ cĩ đức Tăng là quí báu, nên con phải hết lịng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con y như loi chân thật này. (lạy)

SÁM HỐI TĂNG BẢO:

Uùt-támăng-gêná quanh đêhăng
Săngkhanh chá đúquí thốt-támăng

SĂNGKHÊ dô khálítô đôsô
SĂNGKHÔ khámátú tăng mámăng.

Con xin hết lịng thành kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng Bảo là Phàm Tăng và Thánh Tăng, các tội lỗi mà con đã vơ ý phạm đến Tăng Bảo, cúi xin Tăng Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

************

HỒI HƯỚNG PHƯỚC BÁU:

Íđăng nô nhátí năng hôntú súkhí ta hôntú nha tadô (3 lần)

- Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cầu mong cho các vị ấy hằng được yên vui.

Íđăng quátá mê đanăng asá quák-khá dáquá hăng hôtú ána gáte âkalê.

- Xin cho sự phước thí mà con đã trong sạch làm đây, hãy là mĩn duyên lành để dứt khỏi những điều ơ nhiễm ngủ ngầm nơi tâm, trong ngày vị lai.

PHÉP THỌ TRÌ TAM QUY - NGŨ GIỚI

=> Những người xin giới đọc:

ÚKASÁ Mádăng phantê quísum quísum rắk-khánát-thadá tísárá nêná sáhá panh-chá sila ní dachamá. Bạch hoá Đại Đức Tăng, chúng con xin thọ trì Tam qui và ngũ giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích.

ĐÚTÍ DĂMPÍ Mádăng phantê quísum quísum rắk-khánát-thadá tísárá nêná sáhá panh-chá sila ní dachamá. Bạch hoá Đại Dức Tăng, chúng con xin thọ trì Tam qui và ngũ giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, LẦN THỨ NHÌ.

TÁTÍ DĂMPI Mádăng phantê quísum quísum rắk-khánát-thadá tísárá nêná sáhá panh-chá sila ní dachamá. Bạch hoá Đại Dức Tăng, chúng con xin thọ trì Tam qui và ngũ giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích. LẦN THỨ BA.

=> Vị sư truyền giới lễ bái Đức Phật 3 lần, người thọ giới đọc theo:

- Námô tás-sá Phágá quátô Aùra ùháto Săm-ma sămbút-thássá (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính, làm lễ Đức Thế Tôn, bậc A La Hán, đấng Chánh Biến Tri (3 lần).

=> I/ Vị sư truyền phần Tam Quy, người thọ giới đọc theo:

Bút-Thăng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

Tham-Măng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

Săngkhăng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

ĐÚTÍ DĂMPÍ Bút-Thăng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật LẦN THỨ NHÌ.

ĐÚTÍ DĂMPÍ Tham-Măng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp LẦN THỨ NHÌ.

ĐÚTÍ DĂMPÍ Săngkhăng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng LẦN THỨ NHÌ.

TÁTÍ DĂMPÍ Bút-Thăng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật LẦN THỨ BA.

TÁTÍ DĂMPÍ Tham-Măng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp LẦN THỨ BA.

TÁÙTÍ DĂMPÍ Săngkhăng sáránăng gách-chamí.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng LẦN THỨ BA.

Rồi vị sư nói: "Tísá ránắg-gáhá năng párípun-năng. Phép thọ trì Tam Quy tròn đủ chỉ có bấy nhiêu"

=> Những người thọ giới nói:

"Amá pha`ntê. Dạ xin vâng!"

=> II/ Vị sư truyền phần Ngũ Giới, người thọ giới đọc theo:

1. Pana típata quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự SÁT SANH.

2. Aùđinh-na đana quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ TRỘM CẮP.

3. Kamê súmich-cha chara quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ TÀ DÂM.

4. Músa quada quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ NÓI DỐI.

5. Súra mê rádá mách-cháp-páma dát-thana quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CÁC CHẤT SAY...

Rồi vị sư nói: "Íma ní panh-chá sík-kha pádaní sathú kăng kát-toa áp-páma đêná ních-chá kalăng săm-ma rắk-khí táp-păng. Chư Phật tử nên thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới cho được trong sạch, phải vâng giữ hành theo cho đến trọn đời, chẳng nên dễ duôi!”

=> Những người thọ giới nói: "Amá pha`ntê. Dạ xin vâng!"

Vị sư giải về quả báo của việc thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới: “Silêná súgáting dantí silêná phôgá sămpáda silêná níp-búting dantí tás-ma silăng quíso âthádê. Các chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới. Các chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới. Các chúng sanh giải thoát Níp Bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy nên chư Phật tử phải ráng thọ trì giới luật cho được trong sạch, đừng để lấm nhơ!”

=> Những người thọ giới vâng lạy: “SATHÚ! LÀNH THAY!”

***************************

* Lớp Phật Pháp Scarborough, Canada

12/07/2003/ PL. 2547

I - LỄ BÁI TAM BẢO

PALI

NGHIA VIET

BUDDHARATANAPANAMA

NAMO TASSA

BHAGAVATO ARAHATO SAMMASAMBUDDHASSA

(đọc 3 lần, 1 lạy)

Sagge kame ca rupe girisikharatate cantalikkhe vimane. Dipe ratthe ca game taruvanagahane gehavatthumhi khette
Bhumma cayantu deva jalathalavisame yakkhagandhabbanaga
Titthanta santike yam munivaravacanam sadhavo me sunantu.

Dhammassavanakalo ayambhadanta.
Dhammassavanakalo ayambhadanta.
Dhammassavanakalo ayambhadanta.

RATANATTAYAPUJA

Imehi dipadhupadisakkarehi Buddham Dhammam Sangham abhipujayami mata-pitadinam gunavantananca mayhanca digharattam atthaya hitaya sukhaya

Yo sannisinno varabodhimule maram sasenam mahatim vijeyyo sambodhimagacchi anantanano lokuttamotam panamami buddham.

Ye ca buddha atita ca ye ca buddha anagata paccuppanna ca ye buddhaa aham vandami sabbada.

BUDDHA GUNA

Itipi so Bhagava

Araham

Sammasambuddho Vijjacaranasampanno

Sugato

Lokavidu

Anuttaro

Purisadammasarathi Satthadevamanussanam

Buddho

Bhagavati.

BUDDHA ATTAPATINNA

Natthi me saranam annam
BUDDHO me saranam varam
Etena saccavajjena
Hotu me jayamangalam.

BUDDHA KHAMAPANA

Uttamangena vandeham
Padapam sum varuttamam
Buddhe yo khalito doso
Buddho khamatu tam mamam.

****************************

DHAMMARATANAPANAMA

Atthangikariyapatho jananam
Mokkhappavesaya uju ca maggo
Dhammo ayam santikaro panito
Niyaniko tam panamami dhammam.

Ye ca dhamma atita ca
Ye ca dhamma anagata
Paccuppanna ca ye dhamma
Aham vandami sabbada.

DHAMMA GUNA

Svakkhato

Bhagavata

Dhammo

Sanditthiko

Akaliko

Ehipassiko

Opanayiko

Paccattam veditabbo vinnuhiti.

DHAMMA ATTAPATINNA

Natthi me saranam annam
DHAMMO me saranam varam
Etena saccavajjena
Hotu me jayamangalam.

DHAMMA KHAMAAPANA

Uttamangena vandeham
Dhammanca duvidham varam
Dhamme yo khalito doso
Dhammo khamatu tam mamam.

*****************************

SANGHARATANAPANAMA

Sangho visuddho varadakkhineyyo
Santindriyo sabbamalappahino
Gunehinekehi samiddhipatto
Anasavo tam panamaami Sangham.

Ye ca sangha atita ca ye ca sangha anagata paccuppanna ca ye sangha aham vandami sabbada.

SANGHA GUNA

SUPpatipanno bhagavato savakasangho.

UJUpatipanno bhagavato savakasangho.

NAYApatipanno bhagavato savakasangho.

SAMICIpatipanno bhagavato savakasangho.

Yadidam cattari purisayugani. Attha purisa puggala.

Esa Bhagavato savakasangho. Ahuneyyo.

Pahuneyyo.

Dakkhineyyo.

Anjalikaraniyo.

Anuttaram punnakkhettam lokassati.

SANGHA ATTAPATINNA

Natthi me saranam annam
SANGHO me saranam varam
Etena saccavajjena
Hotu me jayamangalam.

SANGHA KHAMAPANA

Uttamangena vandeham
Sanghanca duvidhottamam
Sanghe yo khalito doso
Sangho khamatu tam mamam.

LE BAI PHAT BAO

Tơi xin hết lịng thành kính làm lễ Đức Bhagava đĩ. Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, khơng thầy chỉ dạy.

(đọc 3 lần, lạy 1 lạy)

BAI THINH CHU THIEN

Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đảnh núi núi khơng liền, hoặc nơi hư khơng; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn;

Chư Dạ Xoa, Càn Thác Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ hoặc nơi khơng bằng thẳng, gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây.

Lời nào là kim ngơn cao thượng của Đức Thích Ca Mâu Ni mà chúng tơi tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy.

- Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo.

(đọc cau nay 3 lần, lạy 1 lạy)

LE DANG CUNG TAM BAO

Tơi xin dâng các lễ vật nầy, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng, tam bảo, ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ tơi và tơi đều được sự tấn hĩa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (lạy)

Đức Phật tham thiền về số tức quan, ngồi trên bồ đồn, dưới bĩng cây Bồ Đề quý báu và đắc thắng tồn bọn Ma Vương mà thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh, tơi xin hết lịng thành kính mà làm lễ Ngài. (lạy)

Chư Phật đã thành Chánh Giác trong kiếp quá khứ, Chư Phật sẽ thành Chánh Giác trong kiếp vị lai, Chư Phật đang thành Chánh Giác trong kiếp hiện tại này, tơi xin hết lịng thành kính mà làm lễ Chư Phật trong Tam Thế ấy. (lạy)

ÂN ĐỨC PHẬT

1 - Đức Thế Tơn hiệu Ứng Cúng-Araham bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.

2 - Đức Thế Tơn hiệu Chánh Biến Tri-Sammasambuddho bởi Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy khơng thầy chỉ dạy.

3 - Đức Thế Tơn hiệu Minh Hạnh Túc-Vijjacaranasampanno bởi Ngài tồn đắc 3 cái giác, 8 cái giác và 15 cái hạnh.

4 - Đức Thế Tơn hiệu Thiện Thệ-Sugato bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt. Đại Niết Bàn:

5 - Đức Thế Tơn hiệu Thế Gian Giải-Lokaviduu, bởi Ngài đã thơng suốt Tam Giới.

6 - Đức Thế Tơn hiệu Vơ Thượng Sĩ-Anuttaro bởi Ngài cĩ đức hạnh khơng ai bì.

7 - Đức Thế Tơn hiệu Điều Ngự Trượng Phu-Purisadammasarathi bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.

8 - Đức Thế Tơn hiệu Thiên Nhơn Sư-Satthadevama-nussanam bởi Ngài là thầy cả Chư Thiên và nhân loại.

9 - Đức Thế Tơn hiệu Phật-Buddho bởi Ngài Giác Ngộ lý Tứ Diệu Đế và đem ra giáo hĩa chúng sanh cùng biết với.

10 - Đức Thế Tơn hiệu Thế Tơn-Bhagava bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới tức là Ngài khơng cịn luân hồi lại nữa. (lạy)

LỜI BỐ CÁO QUY Y PHẬT BẢO

Chẳng cĩ chi đáng cho tơi phải nương theo chỉ cĩ Đức Phật là quí báu, nên tơi phải hết lịng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tơi, y như lời chơn thật này. (lạy)

SAM HOI PHAT BAO

Tơi xin hết lịng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật, là Đấng Chí Tơn Chí Thánh. Các tội lỗi mà tơi đã vơ ý phạm đến Phật Bảo, cúi xin Phật Bảo xá tội lỗi ấy cho tơi. (lạy)

************************************

LE BAO PHAP BAO

Các Pháp đúng theo đạo Bát Chánh, là con đàng đi của bậc Thánh Nhân, là con đàng chánh, dẫn người hữu chí nhập Niết Bàn được.

Pháp Bảo là Pháp trừ diệt các sự lao khổ và các điều phiền não, là Pháp chỉ dẫn chúng sanh thốt khỏi cái khổ sanh tử luân hồi, tơi xin hết lịng thành kính mà làm lễ Pháp ấy. (lạy)

Các Pháp của Chư Phật đã cĩ trong kiếp quá khứ. Các Pháp của Chư Phật sẽ cĩ trong kiếp vị lai. Các Pháp của chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại nầy. Tơi xin hết lịng thành kính mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy. (lạy)

AN DUC PHAP BAO

1 - Svakkhato Bhagavata nghĩa là tam tạng Pháp Bảo của Đức Thế Tơn đã khẩu truyền y theo chánh pháp.

2 - Dhammo là Pháp Thánh cĩ 9 hạng: "4 đạo 4 quả và 1 Niết Bàn".

3 - Sanditthiko là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.

4 - Akaliko là Pháp độ cho đắc quả khơng chờ ngày giờ, là khi nào đắc đạo thì đắc quả khơng chậm trễ.

5 - Ehipassiko là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả rồi, cĩ thể ứng hĩa cho kẻ khác biết được.

6 - Opanayiko là Pháp của Chư Thánh đã cĩ trong mình do nhờ phép Thiền Định.

7 - Paccattam veditabbo vinnuhiti là Pháp mà các hàng trí tuệ nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)

LỜI BỐ CÁO QUY Y PHÁP BẢO

Chẳng cĩ chi đáng cho tơi phải nương theo chỉ cĩ Pháp Bảo là quí báu, nên tơi phải hết lịng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tơi, y như lời chơn thật nầy. (lạy)

SÁM HỐI PHÁP BẢO

Tơi xin hết lịng thành kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo là Pháp học và Pháp hành. Các tội lỗi mà tơi đã vơ ý phạm đến Pháp Bảo, cúi xin Pháp Bảo xá tội lỗi ấy cho tơi. (lạy)

************************************

LỄ BÁI TĂNG BẢO

Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quí báu là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường, vì lục căn của các Ngài đã thanh tịnh, lịng tham muốn đã dứt trừ, là Tăng đã thốt ly trần tục, tơi xin hết lịng thành kính mà làm lễ chư Thánh Tăng ấy. (lạy)

Chư Tăng đã đắc đạo cùng quả trong kiếp quá khứ. Chư Tăng sẽ đắc đạo cùng quả trong kiếp vị lai. Chư Tăng đang đắc đạo cùng quả trong kiếp hiện tại này, tơi xin hết lịng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng trong Tam Thế ấy. (lạy)

ÂN ĐỨC TĂNG BẢO

1 - Suppatipanno bhagavato savakasangho. Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài đã tu hành chín chắn y theo chánh pháp.

2-Ujupatipanno bhagavato savakasangho. Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chín chắn y theo Thánh Pháp.

3-Nayapatipanno bhagavato savakasangho. Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài tu hành để Giác Ngộ Niết Bàn, là nơi an lạc dứt khỏi các sự thống khổ.

4-Samicipatipanno bhagavato savakasangho. Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu theo phép Giới Định Tuệ.

5-Yadidam cattari purisayugani. Tăng nếu đếm đơi thì cĩ bốn bậc:

Tăng đã đắc đạo cùng quả Tu Đà Huờn,
Tăng đã đắc đạo cùng quả Tư Đà Hàm,
Tăng đã đắc đạo cùng quả A Na Hàm,
Tăng đã đắc đạo cùng quả A La Hán,

6-Attha purisa puggala. Tăng nếu đếm chiếc thì cĩ tám bậc:

Tăng đã đắc đạo Tu Đà Hườn,
Tăng đã đắc đạo quả Tu Đà Hườn,
Tăng đã đắc đạo Tư Đà Hàm,
Tăng đã đắc quả Tư Đà Hàm,
Tăng đã đắc đạo A Na Hàm,
Tăng đã đắc quả A Na Hàm,
Tăng đã đắc đạo A La Hán,
Tăng đã đắc quả A La Hán,

7-Esa Bhagavato savakasangho. Chư Tăng ấy là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật.

8-Ahuneyyo. Các Ngài đáng thọ lãnh bốn mĩn vật dụng của tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người cĩ giới hạnh.

9-Pahuneyyo. Các Ngài đáng thọ lãnh của tín thí, mà họ dành để cho thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài.

10 - Dakkhineyyo. Các Ngài đáng thọ lãnh của Tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

11 - Anjalikaraniyo. Các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái.

12 - Anuttaram punnakkhettam lokassati. Các Ngài là phước điền của chúng sanh khơng đâu bì kịp. (lạy)

LỜI BỐ CÁO QUY Y TĂNG BẢO

Chẳng cĩ chi đáng cho tơi phải nương theo, chỉ cĩ đức Tăng là quí báu, nên tơi phải hết lịng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tơi y như loi chân thật này. (lạy)

SÁM HỐI TĂNG BẢO

Tơi xin hết lịng thành kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng Bảo là Phàm Tăng và Thánh Tăng, các tội lỗi mà tơi đã vơ ý phạm đến Tăng Bảo, cúi xin Tăng Bảo xá tội lỗi ấy cho tơi. (lạy)

LỄ BÁI TAM BẢO TĨM TẮT

- Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa (đọc 3 lần, 1 lạy)

PALI

NGHIA VIET

1. Itipi so Bhagavaa Araham Sammasambuddho Vijjacaranasampanno Sugato Lokavidu Anuttaro Purisadammasarathi Satthadevamanussanam Buddho Bhagavati.

Tam arahatadigunasam yuttam buddham sirasa namami. Tancabuddham imehi sakkarehi abhipujayami.

2. Svakkhato Bhagavata Dhammo Sanditthiko Akaliko Ehipassiko Opanayiko Paccattam veditabbo vinnuhiti.

Tam svakkhatadigunasam yuttam dhammam sirasa namami. Tanca dhammam imehi sakkarehi abhipujayami.

3- Suppatipanno bhagavato savakasangho. Ujupatipanno bhagavato savakasangho. Nayapatipanno bhagavato savakasangho. Samicipatipanno bhagavato savakasangho. Yadidam cattari purisayugani. Attha purisa puggala. Esa Bhagavato savakasangho. Ahuneyyo. Pahuneyyo. Dakkhineyyo. Anjalikaraniyo. Anuttaram punnakkhettam lokassati.

Tam supatipannatadigunasamyuttam sangham sirasa namami. Tanca sangham imehi sakkarehi abhipujayami.

1- Tơi xin thành kính cúi đầu làm lễ Đức Chánh Biến Tri, Ngài cĩ đầy đủ các đức, nhất là đức Araham.

Tơi xin thành kính cúng dường Đức Chánh đẳng Chánh giác bằng các lễ vật này. (lạy)

2- Tơi xin thành kính cúi đầu làm lễ Pháp Bảo cĩ đầy đủ các đức, nhất là đức Svakkhato.

Tơi xin thành kính cúng dường Pháp Bảo bằng các lễ vật này. (lạy)

3- Tơi xin thành kính cúi đầu làm lễ đức Tăng cĩ đầy đủ các đức, nhứt là đức Supatipanno.

Tơi xin thành kính cúng dường đức Tăng bằng các lễ vật này. (lạy)

II. KINH CAU NGUYEN: cau an - cau sieu:

* KINH CAU AN:

PALI

NGHIA VIET

SAMBUDDHE

1- Sambuddhe atthavisan ca dvadasan ca sahassake
pancasatasahassani namami sirasa aham.

Tesam dhammanca sanghanca
adarena namamiham
namakaranubhavena hantva sabbe upaddave aneka antarayaapi vinassantu asesato.

2- Sambuddhe panca pannasanca catuvisa tisahassake dasasatasahassani
namami sirasa aham.

Tesam dhammanca sanghanca
adarena namamiham
namakaranubhavena
hantva sabbe upaddave
aneka antarayaapi
vinassantu asesato.

3- Sambuddhe navuttarasate
atthacattali-sasahassake
visatisatasahassani
namami sirasa aham.

Tesam dhammanca sanghanca
adarena namamiham
namakaranubhavena
hantva sabbe upaddave
aneka antarayaapi
vinassantu asesato.

LỄ TAM THẾ PHẬT

1- Tơi xin hết lịng thành kính, làm lễ 28 vị Chánh biến tri, 12 ngàn vị Chánh biến tri và 500 ngàn vị Chánh biến tri.

Tơi xin hết lịng thành kính, làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy. Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

2- Tơi xin hết lịng thành kính làm lễ 55 vị Chánh biến tri, 24 ngàn vị Chánh biến tri và 1 triệu vị Chánh biến tri.

Tơi xin hết lịng thành kính, làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy. Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

3- Tơi xin hết lịng thành kính làm lễ 109 vị Chánh biến tri, 48 ngàn vị Chánh biến tri và 2 triệu vị Chánh biến tri.

Tơi xin hết lịng thành kính, làm lễ Pháp bảo và Tăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy. Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

Vandami cetiyam sabbam
sabbatthame supatitthitam
saririkadhatu mahabodhim
buddharupam sakalam sada.

Vannagandha - gunopetam
Etam kusuma santatim
Pujayami munindassa
Siripada sanoruhe.

Pujemi Buddham (Dhammam/ Sangham) kusumenanena
Punnena metena ca hontu mokkham
Puppham milayati yatha idamme
Kayo tatha yati vinasabhavam.

LỄ BÁI XÁ LỢI

Tơi xin thành kính làm lễ tất cả Bảo Tháp, ngọc Xá Lợi, đại thọ Bồ Đề và kim thân Phật đã tạo thờ trong khắp mọi nơi.

Con xin lễ bái các phần, Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật đà, Bồ đề khắp cõi Sa bà,
Luơn luơn thành kính hương hoa cúng dường.

DÂNG HOA CÚNG PHẬT

1. Chúng con xin cúng dường Phật bảo,
Bao cành hoa tồn hảo hiến dâng.
Cầu mong thốt chốn mê trần,
Níp bàn chĩng đến hầu gần Thế Tơn.

Hoa này sẽ bất tồn dương cảnh,
Ủ rủ dần hình ảnh cịn chi,
Chúng con phải chịu thế ni!
Xác thân ngũ uẩn chuyển di bất thường!

2. - Dâng hoa cúng đến Phật Đà,
Nguyện mau giải thốt sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ ứa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

- Dâng hoa cúng đến Đạt ma,
Nguyện mau giải thốt sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ ứa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

- Dâng hoa cúng đến Tăng già,
Nguyện mau giải thốt sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ ứa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

MORAPARITTA - KHỔNG TƯỚC KINH (HT. TINH SU dịch)

PALI

NGHIA VIET

Udetayancakkhuma (Apetayancakkhuma) ekaraja
harissavanno pathavippabhaso
tam tam namassami harissavannam pathavippabhasam.

Tayajja gutta viharemu

divasam/rattim
ye brahmana vedagu sabbadhamme te me namo te camam palayantu.



Namatthu Buddhanam namatthu bodhiya namo vimuttaanam namo vimuttiya imam so parittam katva moro carati esana (vasamakappayiti)

Mặt trời ánh sáng như vàng
Chiếu trong thế giới khắp tràn bốn châu
Tự do soi cả đâu đâu
Là trịng con mắt hồn cầu sanh linh
Cho nên tơi mới nghiêng mình
Cúi đầu cung kỉnh tỏ trình Ân cao
Các Ngài luân chuyển cùng nhau
Thay phiên trị nhật vị nào ngày nay

Chúng tơi ở dưới quyền nầy
Xin nhờ ủng hộ ngày rày an vui
Làm cho ác độc phai phui
Cho dù oan trái mưu thù cũng hư
Thiền tăng đạo sĩ các Sư
Tu hành đắc pháp hoặc cư xa gần
Từ bi soi đến kẽ cần
Biết nay tơi kỉnh tự thân yêu cầu
Nương nhờ quyền lực phép mầu
Đặng cho tránh khỏi nạn sầu ngày nay
Phạm thiên, Thiên chúng các Ngài
Thọ tơi kỉnh lạy hiện nay xin tường
Bảo tồn khỏi sự bất lương
Trọn ngày cho được tránh đường họa tai
Cúi đầu lạy cả Như Lai, các hàng Bồ tát chư Ngài Thánh Tăng, với cùng Pháp Bảo siêu thăng. Ngày nay nhớ tụng để ngăn các điều.

SABBADISASU METTAPHARANAM

Sabbe puratthimaya disaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe puratthimaya anudisaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe dakkhinaya disaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe dakkhinaya anudisaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe pacchimaya disaya satta avera sukhi hontu.
Sabbe pacchimaaya anudisaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe uttaraya disaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe uttaraya anudisaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe uparimaya disaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe hetthimaya disaya satta avera sukhi hontu.

Sabbe satta avera hontu, sukhita hontu niddukkha hontu abyapajjha hontu, anigha hontu dighayuka hontu, aroga hontu, sampattihi samijjhantu sukhi attanam pariharantu, dukkhappatta ca niddukkha, bhayappatta ca nibbhaya, sokappatta ca nissoka hontu sabbepi panino.

Yam kinci kusalakammam,
kattabbam kiriyam mama, kayena vacamanasa, tidase sugatam katam, ye sattaa sannino atthi,
ye ca satta asannino, katam punnaphalam mayham sabbe bhagi bhavantute, ye tam katam, suviditam dinnam punnaphalam maya, ye ca tattha najananti, deva gantva nivedayum, sabbe lokamhi ye satta, jiivantaharahetuka, manunnam bhojanam sabbe labhantu mama cetasati.

Akasattha ca bhummattha
Devanaga mahiddhika
Punnam no anumodantu
Ciram rakkhantu…Sasanam/
2. Ratthake
3. Natayo
4. Panino
5. No sada.

Idam no (vo) natinam hontu sukhita hontu natayo.

(Chư Tăng tụng: Vo/ Phật tử tụng: No)

Idam vata me danam asavakkhayavaham hotu anagate.

KINH RAI TÂM TU BI

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Đơng, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Đơng Nam, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Nam, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Tây Nam, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Tây, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy được yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Tây Bắc, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Bắc đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Đơng Bắc, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Trên, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng Dưới, đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng cĩ oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng cĩ khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho được sống lâu, đừng cĩ bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho cĩ khổ, đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.

(Khi cĩ sự lo sợ hoặc tối, trước giờ ngủ nên thường tụng bài này, để rải tâm bác ái đến tất cả chúng sanh, ắt sẽ hết lo sợ, được yên vui).

KINH HỒI HƯỚNG

Phước căn tơi đã tạo thành,
Do thân, khẩu, ý tu hành gieo nên.
Đều là phước báu vững bền,
Cĩ thể tiếp chúng độ lên thiên đàng.
Cung trời Đạo Lợi thọ nhàn,
Chúng sanh hữu tưởng nhơn gian Ta bà.
Chư Thiên Phạm Thiên cùng là,
Bậc trời vơ tưởng được mà hưởng an.
Phước tơi hồi hướng dâng ban,
Chúng sanh hay biết hồn tồn lãnh thâu.
Bằng ai chưa rõ lời cầu,
Xin cùng Thiên chúng đến hầu mách ngay.
Cĩ người làm phước được rày,
Lại đem hồi hướng hiện nay khắp cùng.
Chúng sanh hoan hỉ lãnh chung,
Hưởng được phước quí ung dung thanh nhàn.
Chúng sanh thế giới các hàng,
Bởi nhờ thọ thực sanh an mạng trường.
Xin thâu phước báu cúng dường,
Hĩa thành thực phẩm mùi hương thỏa lịng. (lạy)

(Sau khi làm xong việc tài thí hoặc pháp thí rồi cần phải đọc bài nguyện sau này để dứt bỏ lịng ham muốn).

HỒI HƯỚNG PHƯỚC ĐẾN CHƯ THIÊN

Chư Thiên ngự trên hư khơng
Địa cầu thượng ngự rõ thơng mọi điều
Long vương thần lực cĩ nhiều
Đồng xin hoan hỷ phước đều chúng tơi
Hộ trì Phật giáo Tăng bồi
Các bậc Thầy tổ an vui lâu dài
Quyến thuộc tránh khỏi nạn tai
Chúng sanh được hưởng phước dài bền lâu
Chúng tơi vui thú đạo mầu
Tu hành tinh tấn ngõ hầu siêu sinh. (lạy)

KINH HỒI HƯỚNG (vắn tắt)

Do sự phước báu mà chúng tơi đã trong sạch làm đây xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cầu mong cho các vị ấy hằng được yên vui. (3 lần)

Xin cho sự phước thí mà tơi đã trong sạch làm đây, hãy là mĩn duyên lành để dứt khỏi những điều ơ nhiễm ngủ ngầm nơi tâm, trong ngày vị lai.

RATANASUTTA RAMBHO. BỐ CÁO KINH TAM BẢO

Panidhanato patthaya tathagatassa

dasa paramiyo

dasa upaparamiyo dasa paramatthaparamiyo

panca mahapariccage

tisso cariya pacchimabbhave

gabbhavakantim jatim abhinikkhamanam padhanacariyam bodhipallanke maravijayam sabbannutannanappativedham nava lokuttaradhammeti sabbe pime Buddhagune avajjitva vesaliya tisu pakarantaresu

tiyamarattim parittam karonto ayasma anandatthero viya karunnacittam upatthapetva.

Kotisatasahassesu
cakkavalesu devata
yassanam patigganhanti
yanca Vesaliyam pure
rogamanussadubbhikkha
sambhutam tividham bhayam
khippamantaradhapesi
parittan tam bhanamahe.

RATANASUTTA

1. Yanidha phutani samagatani Bhummani vayani va antalikkhe.
Sabbe va phuta sumana bhavantu. Atho' pi sakkaccasunantu bhasitam.

2. Tasma hi phuta nisametha sabbe. Mettam karotha manusiya pajaya. Diva ca ratto ca haranti ye balim. Tasma hi ne rakkhatha appamatta.

3. Yam kinci vittam idha va huram va. Saggesu va yam ratanam panitam. Nano samam atthi tathagatena.

Idampi BUDDHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

4. Khayam viragam amatam panitam. Yadajjaga sakyamuni samahito. Na tena dhammena samatthikinci.

Idampi DHAMME ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

5. Yam buddhasettho parivannayi sucim samadhi manantarikannamahu.
Samadhina tena samo na vijjati.

Idampi DHAMME ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

6. Ye puggala atthasatam pasattha
Cattari etani yugani honti
Te dakkhineyya sugatassa savaka. Etesu dinnani mahapphalani.

Idampi SANGHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

7. Ye suppayutta manasa dalhena. Nikkamino gotamasasanamhi. Te pattipatta amatam vigayha
Laddha mudha nibbutim bhunjamana.



Idampi SANGHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

8. Yathindakhilo pathavimsito siya. Catubhi vatebhi asampakampiyo. Tathupamam sappurisam vadami. Yo ariyasaccani avecca passati.


Idampi SANGHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

9. Ye ariyasaccani vibhavayanti
Gambhirapannena sudesitani
Kincapite honti bhusappamatta. Na te bhavam atthamamadiyanti.

Idampi SANGHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

10. Sahavassa dassana sampadaya. Tayassu dhamma jahita bhavanti. Sakkayaditthi vicikicchitan ca. Silabbatam vapi yadatthikinci. Catuhapayehi ca vippamutto. Cha cabhitthanani abhabbo katum.
Idampi SANGHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

11. Kincapi so kammam karoti papakam. Kayena vaca yudacetasava. Abhabbo so tassa paticchadaya. Abhabbata ditthapadassa vutta.

Idampi SANGHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

12. Vanappagumbe yatha phussitagge. Gimhanamase pathamasmim gimhe. Tathupanam dhammavaram adesayi. Nibbanagamim paramam hitaya.
Idampi BUDDHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

13. Varo varannu varado varaharo. Anuttaro dhammavaram adesayi.

Idampi BUDDHE ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

14. Khinam puranam navam natthi sambhavam.
Virattacittayatike bhavasmim
Te khinabija avirulhichanda.
Nibbanti dhira yatha yampadipo.

Idampi sanghe ratanam panitam. Etena saccena suvatthi hotu.

15. Yanidha bhutani samagatani bhummani va yani va antalikkhe Tathagatam devamanussapujitam Buddham namassama suvatthi hotu.

16. Yanidha bhutani samagatani bhummani va yani va antalikkhe Tathagatam devamanussapujitam
Dhammam namassama suvatthi hotu.

17. Yanidha phutani samagatani bhummani vayani va antalikkhe Tathagatam devamanussapujitam
Sangham namassama suvatthi hotu.

Chúng ta nên đem lịng từ thiện, đối với tất cả chúng sanh như đại đức A Nan Đa, đã suy tưởng đều đủ các cơng đức của Phật, từ khi mới phát nguyện thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác là:

- Tu 10 pháp Parami
- 10 pháp Upaparami,
- 10 pháp Paramatthaparami.
- Năm pháp đại thí.
- Ba pháp hành.
- Tư cách giáng sanh vào lịng mẹ trong kiếp chĩt.
- Tư cách ra đời,
- Tư cách xuất gia,
- Tư cách tu khổ hạnh,
- Tư cách cảm thắng Ma vương,
- Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ đồn.
- Chín pháp Thánh,

Suy tưởng xong rồi, Đại đức A Nan Đa tụng kinh Paritta cả đêm, trọn đủ ba canh tại trong ba vịng thành Vesalii. Tất cả chư thiên trong mười muơn triệu thế giới Ta bà, đều được thọ lãnh oai lực kinh Paritta. Kinh Paritta đã làm cho ba điều kinh sợ phát sanh, là bệnh tật, phi nhơn và sự đĩi khát trong thành Vesalii được mau tiêu diệt. Chư Thiên này, nay chúng tơi tụng kinh Paritta ấy.

KINH TAM BẢO

1. Hạng Phú Tá (Bhuta) là Chư Thiên, ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là Chư Thiên ngự trên hư khơng thế giới, mà đến hội họp nơi đây.

Cầu xin tất cả Chư Phú Tá ấy, mở lịng từ thiện, và đem lịng thành kính, mà nghe Phật ngơn.

2. Tất cả Chư Phú Tá được nghe Kinh Ba Rít Tá rồi, nên mở lịng bác ái, đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí, đêm ngày khơng dứt.

3. Vì đĩ, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian này, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Đức Như Lai.

Đức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

4. Đức Giáo chủ Sakya Muni là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là pháp bất diệt, là pháp cao thượng. Chẳng cĩ vật chi sánh bằng pháp ấy.

Đức Pháp này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

5. Đức Phật cao thượng hằng khen ngợi pháp Thiền định (Samãdhi) là pháp trong sạch.

Các bậc Trí Tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh định, là pháp sanh quả theo thứ tự, Thiền định khác, chẳng thể sánh bằng.

Đức Pháp này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

6. Những hạng tu hành cĩ 8 bậc, mà các Thiện trí thức (Sappurisa) đã ngợi khen, các bậc ấy, đều là Thinh Văn, đệ tử của Đức Su Ga Tơ các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

Những sự bố thí đến các bậc Đắc-khí-nây-dá-búc-gá-la (Dakkhineyyapuggalaa) là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc.

Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

7. Các bậc Thánh nhơn, trong giáo pháp của đức Chánh Biến Tri hiệu GOTAMA, đã hành theo lễ chánh rồi cĩ lịng bền chắc chẳng cịn ái dục.

Các bậc Thánh nhơn ấy, đã chứng quả A La Hán, đã nhập Niết Bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo quả rồi.

Đức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng. Tơi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

8. Cột cừ đã đĩng cứng dưới đất, dầu giĩ bốn phương cũng khơng lay động thế nào.

Người hay suy xét, thấy các pháp diệu đế Như Lai gọi người ấy là bậc thiện trí thức, hạng khơng tham nhiễm các pháp thế gian. Ví như cột cừ kia vậy.

Đức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

9. Các bậc Thánh nhơn, thấy rõ các pháp diệu đế mà đức Như Lai, cĩ trí tuệ thậm thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy, dầu cĩ dễ duơi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi, quá 7 kiếp.

Đức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

10. Bậc được chứng Đạo quả Tu Đà Hườn, thì đã dứt khỏi ba phép chướng ngại thường cĩ là thân kiến, hồi nghi và giới cấm thủ.

Bậc Tu Đà Hườn, đã thốt khỏi cả bốn đường dữ khơng cịn phạm 6 điều ác, là năm tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại đạo.

Đức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

11. Nếu bậc Tu Đà Hườn, vơ tâm phạm điều tội lỗi, do thân, khẩu ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm.

Nết hạnh của bậc đã thấy đạo Niết Bàn, bậc khơng cĩ thể giấu kín nghiệp dữ, mà đức Phật đã giảng dạy rồi.

Đức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng, Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

12. Pháp cao thượng mà đức Chánh Biến Trí đã giảng giải, là Pháp cĩ thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết Bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy, ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạ.

Đức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

13. Đức Chánh Biến Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thơng pháp cao thượng, Ngài thí pháp cao thượng, Ngài đem đến pháp cao thượng.

Ngài là bậc vơ thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng.

Đức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

14. Nghiệp cũ của các bậc Thánh Nhơn, đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh.

Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nản trong việc thọ sanh, là bậc cĩ trí tuệ, thường được viên tịch, cũng như ngọn đèn tắt vậy.

Đức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tơi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

15. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư khơng, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tơi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo chủ, đã được chứng quả giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại, thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

16. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư khơng, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tơi làm lễ các Pháp, đã cĩ giống nhau, mà chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh th?nh lợi.

17. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư khơng, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tơi làm lễ chư Tăng, đã cĩ giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại thường hay cúng dường, cầu xin đuợc phát sanh thạnh lợi.

MANGAGALASUTTARAMBHO. BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH

Ye santa santacitta tisaranasarana ettha lokantare va bhumma bhumma ca deva guna ganagahanabyavata sabbakalam.

Ete ayantu deva varakanakamaye meruraje vasanto santo santo sahetum munivaravacanam sotumaggam samaggam, sabbesu cakkavalesu yakkha deva ca brahmuno yam amhehikatam punnam sabba sampattisadhakam

Sabbe tam anumoditva
samagga sasane rata
pamadarahita hontu
arakkhasu visesato.

Sasanassa ca lokassa vuddhi bhavatu sabbada sasanam pi ca lokanca deva rakkhantu sabbada.

Saddhim hontu sukhi sabbe
parivarehi attano anighaa sumana hontu saha sabbehi natibhi.

Yanca dvadasa vassani cintayimsu sadevaka cirassam cintayanta pi neva janimsu mangalam cakkavalasahassesu dasasu yena tattakam kalam kolahalam jatam yava brahmanivesana.

Yam lokanatho desesi sabbapapavina sanam yam sutva sabbadukkhehi muncanta sankhiya nara evama digunupetam mangalantam bhanamahe.

MANGALASUTTA

Evam me sutam .

Ekam samayam bhagava savatthiyam viharati jetavane anathapindikassa arame.

Atha kho annatara devata abhikkantaya rattiya abhikkantavanna kevalakappam jetavanam obhasetva yena bhagava tenupasankami upasankamitva bhagavantam abhivadetva ekamantam atthasi.

Ekamantam thita kho sa devata bhagavantam gathaya ajjhabhasi.

Bahu deva manussa ca mangalani acintayum akankhamana sotthanam bruhimangalamuttamam:

1- Asevana ca balanam panditananca sevana puja ca pujaniyanam etam mangalamuttamam.

2- Patirupadesavaso ca pubbe ca katapunnata attasammapanidhi ca etam mangalamuttamam.

3- Bahusaccanca sippanca vinayo ca susikkhito subhasita ca yavaca etam mangalamuttamam.

4- Matapitu upatthanam puttadarassa sangaho anakula ca kammanta etam mangalamuttamam.

5- Dananca dhammacariya ca natakananca sangaho anavajjani kammani etam mangalamuttamam.

6- Arati virati papa majjapana ca sannamo appamado ca dhammesu etam mangalamuttamam.

7- Garavo ca nivato santutthi ca katannuta kalena dhammassavanam etam mangalamuttamam.

8- Khanti ca sovacassata samanananca dassanam kalena dhammasakaccha etam mangalamuttamam.

9- Tapo ca brahmacariyanca ariyasaccana dassanam nibbanasacchikiriya ca etam mangalamuttamam.

10- Phutthassa lokadhammehi cittam yassanakampati asokam virajam khemam etam mangalamuttamam.

Etadisani katvana sabbatthamaparajita sabbattha sotthim gacchanti tantesam mangalamuttamanti.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên ngự trong hư khơng thế giới, hoặc ngồi hư khơng thế giới này, là bậc đã cĩ lịng an tịnh và đã quy y Tam Bảo, là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên, ngự trên Tu Di sơn vương, tinh anh bằng vàng rịng cao thượng.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên là bậc hiền triết (Sappurisa) đồng cư hội nơi đây, đặng nghe lời vàng của đức Thích Ca Mưu Ni, là pháp vơ lượng làm cho phát sanh điều hoan lạc.

Sự phước báu mà chúng tơi đã làm, cĩ thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin Dạ Xoa, Chư thiên và Phạm thiên, trong cả thế giới Ta Bà đều hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.

Tất cả Dạ xoa, Chư thiên cùng Phạm thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm hoan hỉ trong Phật pháp. Xin dứt lịng dễ duơi và tùy phương tiện quí báu để hộ trì Phật pháp.

Cầu xin Phật pháp hằng được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hĩa.

Cầu xin tất cả chư Thiên hộ trì Phật pháp và tiếp độ chúng sanh.

Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, được vơ khổ cụ, là người cĩ thiện tâm luơn cả thân bằng cùng quyến thuộc.

Tất cả nhơn loại cùng chư Thiên trong mười ngàn thế giới Ta Bà, hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong mười hai năm, những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, xơn xao thấu đến cõi trời Phạm thiên trong khi ấy.

Đức Phật cĩ giảng giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, chúng sanh nhiều khơng xiết kể, đã nghe và đã được dứt khỏi các sự thống khổ.

HẠNH PHÚC KINH

Ta (là A nan Đà) cĩ nghe như vầy:

Một thuở nọ Đức Thế Tơn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cơ Độc, gần thành Xá Vệ (Savatthi). Khi ấy, cĩ vị Trời chiếu hào quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng ngời rực rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tơn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.

Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tơn, bằng lời kệ rằng:

Tất cả chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu xin được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tơn, xin Ngài mở lịng bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng.

Đức Thế Tơn tùy lời hỏi mà giảng rằng:

1) Một: tư cách khơng xu hướng theo kẻ dữ;
Hai: tư cách thân cận các bậc trí tuệ;
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

2) Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

3) Một:nết hạnh của người được nghe nhiều, học rộng,
Hai: sự suốt thơng phận sự của người xuất gia và tại gia,
Ba: điều học mà người đã thọ trì được chính chắn,
Bốn: lời mà người nĩi ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

4) Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự Cha,
Ba: sự tiếp độ vợ con,
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

5) Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc,
Bốn: những nghề vơ tội,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng,

6) Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi,
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu
Ba: sự khơng dể duơi Phật pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

7) Một: sự tơn kính bậc nên tơn kính,
Hai: nết hạnh khiêm nhường,
Ba: tri túc đến của đã cĩ,
Bốn: nết hạnh biết ơn người,
Năm: nết hạnh tùy thời nghe pháp,
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

8) Một: sự nhịn nhục,
Hai: nết hạnh người dễ dạy,
Ba: nết hạnh được thấy các bậc Sa mơn,
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật pháp,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

9) Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác,
Hai: nết hạnh hành theo pháp cao thượng,
Ba: nết hạnh thấy các pháp diệu đế,
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết Bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

10) Một: tâm khơng xao động vì pháp thế gian,
Hai: khơng cĩ sự uất ức,
Ba: dứt khỏi tình dục,
Bốn: lịng tự tại,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Tất cả chư Thiên và nhân loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên này! Các người nên tin rằng cả ba mươi tám điều hạnh phúc ấy là hạnh phúc cao thượng.

BUDDHAJAYAMANGALA GATHA - KINH AN LÀNH TỪ SỰ CẢM THẮNG CỦA ĐỨC PHẬT

1.- Bahum sahassa mabhinimmitasavudhantam grimekhalam uditaghorasasenamaram danadidhammavidhina

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

2.-Maratireka mabhiyujjhita sabbarattim gherampanalavakamakkhamathaddhayakkham khantisudantavidhina

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

3.- Nalagirim gajavaram atimattaphutam davaggicakkamasaniva sudarunantam mettam busekavidhina

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

4.-Ukkhittakhagga matihattha sudarunantam dhaavantiyo janapathangulimala vantam iddhihisankhatamano

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

5.-Katvana katthamudaram iva gabbhiniya cincaya duttha vacanam janakayamajjhesantena somavidhina

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

6.- Saccam vihaya matisaccaka vadaketum vadabhiropitamanam ati-andhaphutam pannapadipajalito

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

7.- Nandopananda bhujagam vibuddham mahiddhim puttena therabhujagena damapayanto iddhupadesavidhina

jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

8.- Duggahaditthibhujagena sudatthahattham brahmam visuddhi jutimiddhi Bakabhidhanam nanagadena vidhinaa jitava munindo tam tejasa bhavatu te jayamangalani.

Etapi buddha jayamangala atthagatha yo vacano dinadine sarate matandi hitva nanekavividhani cupaddavani mokkham sukham adhigameyya naro sapanno.

1 - Đức Phật cao thượng hơn các bậc trí tuệ, ngài đã cảm thắng Ma Vương, Ma Vương biến ngàn cánh tay đều cầm khí giới; cỡi voi Gri-mê-khá-lá đủ cả binh ma, tiếng hét la vang rền. Nhờ Phép Thập độ, nhất là Phép Bố thí mà đức Phật cảm thắng được Ma Vương.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

2 - Đức Phật đã cảm thắng được Dạ Xoa A-la-quá-cá rất cang ngạnh, khơng lịng nhẫn nhục, khoe tài trọn đêm cùng đức Phật. Dạ Xoa rất hung ác, cảm dõng hơn Ma Vương đã bị Đức Chánh Biến Tri dùng Phép Nhẫn nhục thâu phục rồi.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

3 - Đức Phật đã cảm thắng voi Na-la-gi-ri đến cơn hung ác, dữ tợn như lửa rừng, như sấm sét, nhờ rải lịng Từ bi mà Đức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được voi ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.

4 - Đức Phật dùng Phép Thần thơng cảm thắng Ăn-gú-lí-má-lá, kẻ cướp sát nhân, cắt ngĩn tay người xỏ làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo, nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt Đức Chánh Biến Tri xa ba do tuần.

Do nhờ Phật lực này xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

5 - Đức Phật đã khử trừ lời dữ của nàng Chinh Cha, nàng dùng cây trịn giống dạng dứa bé trong thai, giả làm phụ nữ mang thai. Nhờ dùng Phép Chánh định mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng nàng giữa chốn đơng người.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

6 - Đức Phật sáng suốt nhờ ngọn đèn tuệ, Ngài đã cảm thắng kẻ ngoại đạo Sách-chá-cá là kẻ khơng ngay thật, chỉ ưa thích sự nâng cao lời nĩi mình như người dựng cột phuuớng, kẻ rất si mê, chẳng khác người mù.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

7 - Đức Phật dạy Đại đức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thâu phục rồng chúa Nan-đơ-bá-nanh-đa, là rồng tà kiến cĩ nhiều thần thơng. Nhờ dạy Đại đức Mục Kiền Liên mà Đức Chánh Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

8 - Đức Phật đã cảm thắng Đại-Phạm-Thiên Bá-ká tự cho mình là cao thượng vì đức trong sạch, cĩ thần thơng và chấp hẳn tà kiến. Nhờ Giác tuệ mà Đức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được Đại Phạm Thiên ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

Những người cĩ trí tuệ, khơng biếng nhác thường ngày hằng tụng hoặc niệm tám kệ ngơn tán dương oai lực của Đức Chánh Biến Tri thì sẽ tránh khỏi vơ số nạn tai và sẽ chứng quả Niết Bàn là nơi yên vui độc nhất.

KARANIYA METTA SUTTAM - TỪ BI KINH

(Phỏng dịch xuơi vần theo bài giảng của Ngai Narada)

PALI

NGHIA VIET

1) Karaniya matthakusalena
Yantam santam padam abhisamecca
Sakko ujuu ca suhuju ca
Suvaco c'assa mudu anatimani.

2) Santussako ca subharo ca
Appakicco ca sallahukavutti
Santindriyo ca nippako ca
Appagabbho kulesu ananugiddho.

3) Na ca khuddam samaacare kinci. Yena vinnuu pare upavadeyyum. Sukhino va khemino hontu. Sabbe satta bhavantu sukhitattaa.

4) Ye keci panaphutatthi
Tasa va thavara va anavasesa
Digha va ye mahanta va
Majjhima rassakanukathula

5) Dittha va yeva addittha
Ye ca dure vasanti avidure
Bhuuta va sambhavesi va
Sabbe satta bhavantu sukhitatta.

6) Na paro param nikubbetha
Natimannetha katthacinam kinci. Byarosana patighasanna
Nanna mannassa dukkha miccheyya.

7) Mata yatha niyam puttam
Ayusa ekaputtatamanurakkhe
Evampi sabbaphutesu
Manasam bhavaye aparimanam.

8) Mettanca sabba lokasmim
Manasam bhavaye aparimanam
Uddham adho ca tiriyanca
Asambadham averam asapattam.

9) Tittham caram nisinno va
Sayano va yavat'assa vigatamiddho. Etam satim addhittheyya. Brahmametam viharam idha mahu.

10) Ditthinca anupagamma silava. Dassanena sampanno
Kamesu vineyya gedham
Nahijaatu gabbhaseyyam puna reti'ti.

1. Người khơn cĩ đủ đức tài,
Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình.
Dọn lịng an tịnh thanh bình
Tiến vào Cực lạc Vơ sinh Niết Bàn
Giữ lịng chánh trực đoan trang,
Nhu hịa lương thiện chẳng màng khoe khoang,

2. Thanh bần thủ phận an nhàn,
Khơng ham thế sự tịnh an cõi lịng.
Lục căn chế ngự nghiêm phịng,
Khơng cho liều lĩnh luyến mong dục trần.

3. Khơng làm nhơ bẩn tinh thần,
Tránh lời chê trách thánh nhân phê bình,
Mong cầu tất cả chúng sinh,
Dồi dào hạnh phúc hịa bình sinh nhai.

4. Cầu cho ba giới bốn lồi,
Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài bình trung.
Béo gầy nhỏ lớn khơng cùng,
Hữu hình, vơ tướng muơn trùng gần xa.

5. Chưa sanh hoặc đã sanh ra
Thảy đều cộng hưởng hà sa phước lành.

6. Nguyện khơng lừa gạt, dối manh,
Khinh người, miệt chúng, hư danh trang hiền.
Dầu cho thân thuộc, xĩm giềng,
Người dưng kẻ lạ các miền xa xăm.
Trong cơn phẫn nộ giận thầm,
Cũng khơng lo nghĩ mưu thâm hại người.

7. Như lịng từ mẫu thanh tươi,
Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con.
Dầu cho một mất một cịn,
Bảo tồn con trẻ vuơng trịn ăn chơi.
Tình thương ghi tạc đời đời,
Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang.
Học địi từ mẫu gương vàng,
Mở lịng thương xĩt bủa tràn gần xa.
Chúng sanh trong cõi Sa bà,
Thốt vịng khổ não, vượt ra luân hồi.

8. Hằng ngày rải khắp các nơi,
Bốn phương tám hướng gầm trời bao la.
Tấm lịng bác ái vị tha,
Gội nhuần tư tưởng đậm đà tình thương.
Lịng từ trong sạch như gương,
Khơng pha ác cảm khơng vương tư thù.

9. Cố tâm niệm niệm cơng phu,
Khi đi, khi đứng, chuyên tu tham thiền.
Nằm ngồi mặc niệm thường xuyên,
Sưu tầm đạo quả, gieo duyên Niết Bàn
Đĩ là phương pháp thế gian,
Đĩ là hạnh kiểm đưa đàng Vơ sanh.
Thánh nhân ca tụng tán thành,
Xuơi dịng thánh vức, lữ hành Nhập lưu

10. Vượt lên đến mức thắng ưu,
Khai thơng tuệ nhãn, tầm sưu đỉnh đầu.
A Hàm đạo tuệ gươm mầu,
Đoạn tuyệt tà kiến, xả câu dục tình.
Bất lai cảnh giới hữu hình,
Phạm thiên tạm ngự, nghiêm minh Niết Bàn.

DASADISABUDDHASUTTA - KINH THẬP PHƯƠNG PHẬT

1. Padumuttaro ca purabbayam
2. Aganeyye ca Revato
3. Dakkhine Kassapo Buddho
4. Haratiye ca Sumangalo


5. Pacchime Buddha Sikhi ca
6. Bayabbe ca Medhankaro

7. Uttare Sakyamuni ceva

8. Isane Saranankaro

9. Kakusandho pathaviyam

10. Akase ca Dipankaro

11. Ete dasadisabuddha
Rajadhammassa pujita

12. Natthi rogabhayam khemam. Asokam sampattidayakam
Dukkharogabhayam natthi
Sabba sattu viddham sentu

1. Con xin đảnh lễ đức Phật Thượng-Liên- Hoa ở hướng đơng
2. Con xin đảnh lễ đức Phật Li-Bà-Đa ở hướng đơng nam
3. Con đảnh lễ đức Phật Ca-Diếp ở hướng nam
4. Con xin đảnh lễ đức Phật Phước-Tồn-Đa ở hướng tây nam
5. Con xin đảnh lễ đức Phật Tỳ-Khí ở hướng tây
6. Con xin đảnh lễ đức Phật Mỹ-Thắng-Ca ở hướng tây bắc
7. Con xin đảnh lễ đức Phật Thích-Ca-Mâu- Ni ở hướng bắc
8. Con xin đảnh lễ đức Phật Bảo-Trì-Ca ở hướng đơng bắc
9. Con xin đảnh lễ đức Phật Câu-Lưu-Tơn ở hướng dưới
10. Con xin đảnh lễ đức Phật Nhiên-Đăng ở hướng trên

11. Ấy mười phương Chư Phật
Cúng dường bậc Pháp Vương

12. An ổn, khơng bệnh tai
Khơng sầu, hưởng bổng lộc
Chẳng khổ, bệnh, sợ hãi,
Mọi cừu địch ắt giải.

GIRIMANANDA SUTTA - Kinh Thập Tưởng cho Tỳ Kheo Girimananda

“Này các thầy tỳ kheo, các ngươi là những kẻ xuất gia, sống đời khơng gia đình, nếu các ngươi khơng săn sĩc, lo cho nhau… thì ai sẽ lo cho các ngươi” (Trung Bộ Kinh)

PALI

NGHIA VIET

Evam me sutam.

Ekam samayam bhagavà sàvatthiyam viharati jetavane anàthapindikassa àràme.

Tena kho pana samayena àyasmà girimànando àbàdhiko hoti dukkhito bàlhagilàno. Atha kho àyasmà ànando yena bhagavà tenupasankami, upasankamitvà bhagavantam abhivàdetvà ekamantam nisidi.

Ekamantam nisinno kho àyasmà ànando bhagavantam etadavoca:

âyasmà bhante girimànando àbàdhiko hoti dukkhino bàlhagilàno.

Sàdhu bhante bhagavà yenàyasmà girimànando tenupasankamatu anukampam upàdàyàti. Sace kho tvam ànanda girimànandassa bhikkhuno upasankamitvà dasasannà bhàseyyàsi, thànam kho panetam vijjati yam girimànandassa bhikkhuno dasasannà sutvà so àbàdho thànaso patippassambheyya.

Katamà dasa: Aniccasannà, anattasannà, asubhasannà, àdinavasannà, pahànasannà, viràgasannà, nirodhasannà, sabbaloke anabhiratasannà, sabbasankhàresu aniccasannà, ànàpànasati.

1. Katamàcànanda aniccasannà: Idhànanda bhikkhu arannagato và rukkhamulagato và sunnàgàragato và iti patisamcikkhati: ''rupam aniccam vedanà aniccà sannà aniccà sankhàrà aniccà vinnanam aniccanti''.

Iti imesu pancasupàdànakkhandhesu aniccànupassi viharati. Ayam vuccatànanda aniccasannà.

2. Katamàcànanda anattasannà:

Idhànanda bhikkhu arannagato và rukkhamulagato và sunnàgàragato và iti patisamcikkhati:

''cakkhum anattà, rupà anattà sotam anattà, saddà anattà, ghànam anattà, gandhà anattà, jivhà anattà, rasà anattà, kàyo anattà, photthabbà anattà, mano anattà, dhammà anattà''ti.

Iti imesu chasu ajjhattika bàhiresu àyatanesu anattànupassã viharati. Ayam vuccatànanda anattasannà.

3. Katamàcànanda asubhasannà:

Idhànanda bhikkhu imameva kàyam uddham pàdatalà adho kesamatthakà tacapariyantam puram nànappakàrassa asucino paccavekkhati:

''atthi imasmim kàye kesà lomà nakhà dantà taco mamsam nahàru atthi atthiminjà vakkam hadayam yakanam kilomakam pihakam papphàsam antam antagunam udariyam karisam pittam semham pubbo lohitam sedo medo assu vasà khelo singhànikà lasikà muttanti''

iti imasmim kàye asubhànupassã viharati, ayam vuccatànanda asubhasannà.

4. Katamàcànanda àdinavasannà:

Idhànanda bhikkhu arannagato và rukkhamulagato và sunnàgàragato và itipatisancikkhati:

''bahu dukkho kho

ayam kàyo bahu àdinavo, iti imasmim kàye vividhà àbàdhà uppajjanti, seyyathidam:

cakkhurogo sotarogo ghànarogo jivhàrogo kàyarogo sisarogo kannarogo mukharogo

dantarogo kàso sàso pinàso daho jaro kucchirogo mucchà pakkhandikà sulà visucikà kuttham gando kilàso soso apamàro daddu kandu kacchu rakhasà vitacchikà lohitapittam madhumeho amsà pilakà bhagandalà pittasamutthànà àbàdhà semhasamutthànà àbàdhà, vàtasamutthànà àbàdhà sannipàtikà àbàdhà utuparinàmajà àbàdhà visamaparihàrajà àbàdhà opakkamikà àbàdhà kammavipàkajà àbàdhà sitam unham jighacchà pipàsà uccàro passàvo''ti. Iti imasmim kàye àdinavànupassi viharati. Ayam vuccatànanda àdãnavasannà.

5. Katamàcànanda pahànasannà:

Idhànanda bhikkhu uppannam kàmavitakkam nàdhivàseti pajahati vinodeti byantikaroti anabhàvam gameti.

Uppannam vyàpàdavitakkam nàdhivàseti pajahati vinodeti byantikaroti anabhàvam gameti.

Uppannam vihimsà vitakkam nàdhivàseti pajahati vinodeti byantikaroti anabhàvẵ gameti.

Uppannuppanne pàpake akusale dhamme nàdhivàseti pajahati vinodeti byantikaroti anabhàvam gameti. Ayam vuccatànanda pahànasannà.

6. Katamàcànanda viràgasannà:

Idhànanda bhikkhu arannagato và rukkhamulagato và sunnàgàragato và iti patisancikkhati:

''etam santam etam panitam yadidam sabbasankhàrasamatho sabbupadhipatinissaggo, tanhakkhayo viràgo nibbànanti.

Ayam vuccatànanda viràgasannà.

7. Katamàcànanda nirodhasannà:

Idhànanda bhikkhu arannagato và rukkhamulagato và sunnàgàragato và iti patisancikkhati:

''etam santam etam panitam yadidam sabbasankhàrasamatho sabbupadhipatinissaggo, tanhakkhayo viràgo nirodho nibbànanti''.

Ayam vuccatànanda nirodhasannà.

8. Katamàcànanda sabbaloke anabhiratasannà:

Idhànanda bhikkhu ye loke upàyupàdànà cetaso adhitthànàbhinivesànusayà, te pajahanto viramati na upàdiyanto.

Ayam vuccatànanda sabbaloke anabhiratasannà.

9. Katamàcànanda sabbasankhàresu aniccasannà:

Idhànanda bhikkhu sabbasankhàrehi attiyati haràyati jigucchati. Ayam vuccatànanda sabbasankhàresu aniccasannà.

10. Katamàcànanda ànàpànasati:

Idhànanda bhikkhu arannagato và rukkhamulagato và sunnàgàragato và nisidati pallankam àbhujitvà ujum kàyam panidhàya parimukham satim upatthapetvà.

So sato va assasati, sato passasati.

Digham và assasanto digham assasàmiti pajànàti. Digham và passasanto digham passasàmiti pajànàti.

Rassam và assasanto rassam assasàmiti pajànàti. Rassam và passasanto rassam passàmiti pajànàti.

Sabbakàya patisamvedi assasissàmiti sikkhati. Sabbakàya patisamvedi passasissàmiti sikkhati.

Passambhayam kàyasankhàram assasissàmiti sikkhati. Passambhayam kàyasankàram passasissàmiti sikkhati.

Pitipatisamvedi assasissàmiti sikkhati. Pitipatisamvedi passasissàmiti sikkhati.

Sukhapatisamvedi assasissàmiti sikkhati. Sukhapatisamvedi passasissàmiti sikkhati.

Cittasankhàrapatisamvedi assasissàmiti sikkhati. Cittasankhàrapatisamvedi passasissàmiti sikkhati.

Passambhayam cittasankhàram assasissàmiti sikkhati. Passambhayam cittasankhàram passasissàmiti sikkhati.

Cittapatisamvedi assasissàmiti sikkhati. Cittapatisamvedi passasissàmiti sikkhati.

Abhippamodayam cittam assasissàmiti sikkhati. Abhippamodayam cittam passasissàmiti sikkhati.

Samàdaham cittam assasissàmiti sikkhati. Samàdaham cittam passasissàmiti sikkhati.

Vimocayam cittam assasissàmiti sikkhati. Vimocayam cittam passasissàmiti sikkhati.

Aniccànupassi assasissàmiti sikkhati. Aniccànupassi passasissàmiti sikkhati.

Viràgànupassi assasissàmiti sikkhati. Viràgànupassi passasissàmiti sikkhati.

Nirodhànupassi assasissàmiti sikkhati. Nirodhànupassi passasissàmiti sikkhati.

Patinissaggànupassi assasissàmiti sikkhati. Patinissaggànupassi passasissàmiti sikkhati.

Ayam vuccatànanda ànàpànasati.

Sace kho tvam ànanda girimànandassa bhikkhuno upasankamitvà imà dasa sannà bhàseyyàsi,

thànam kho panetam vijjati yam girimànandassa bhikkhuno imà dasa sannà sutvà so àbàdho thànaso patippassambheyyàti.

Atha kho àyasmà ànando bhagavato santike imà dasa sannà uggahetvà yenàyasmà girimànando tenupasankami.

Upasankamitvà àyasmato girimànandassa imà dasa sannà abhàsi.

Atha kho àyasmato girimànandassa imà dasa sannà sutvà so àbàdho thànaso patippassambhã, vutthàhi càyasmà girimànando tamhà àbàdhà tathà pahino ca panàyasmato girimànandassa so àbàdho ahositi.

Ta nghe như vầy:
Một thuở nọ gần thành Xá Vệ.
Phật cùng hàng tử đệ ngự yên,
Tại nơi tịnh xá KỲ VIÊN
Của Cấp Cơ Độc làm duyên cúng dường
Lúc ấy cĩ người vương bịnh nặng
Thầy Tỳ Khưu Gi-Ri-Ma-Nan-Đa
Chịu nhiều đau đớn thiết tha,
Xĩt thương Đại Đức A Nan Đà trình bày
Vào đến chốn Như Lai an ngự,
Đảnh lễ rồi cớ sự bạch qua
Rằng Gi-Ri-Ma-Nan-Đa (Girimananda)
Thầy vương chứng bịnh trầm kha não nùng
Bạch THẾ TƠN mở lịng bác ái
Dời gĩt vào đến tại thất riêng
Cứu thầy trong lúc ngửa nghiêng
Vì chưng bịnh hoạn triền miên lâu ngày.
Liền lúc đĩ NHƯ LAI bèn dạy,
A-NAN-ĐA người phải thẳng qua
Chỗ thầy Gi-Ri-Ma-Nan-Đa,
Truyền mười pháp tưởng của ta chỉ bày,
Pháp tưởng ấy tánh hay khước bịnh.
Chẳng luận là căn bịnh chĩng chầy.
Nếu Gi-Ri-Ma-Nan-Đa,
Được nghe lập tức bịnh thầy giảm thuyên.
Mười pháp tưởng linh thiêng bao nả?
Tưởng những là Vơ Ngã, Vơ Thường,
Bất Tịnh lại đức tình trường.
Sự Khổ dứt bỏ thĩi thường cho xong,
Tưởng Tịch tịnh, tưởng khơng tham luyến.
Pháp thế gian lắm chuyện thị phi.
Tưởng đến những pháp hành vi.
Điều vơ thường hết cĩ chi bận lịng.
Lại để ý đến trong Hơi thở.
Cho đủ mười điều nhớ của ta.

Này, A-NAN-ĐA.
1/ Tưởng vơ thường ấy nghĩa là làm sao?
Này, A-NAN-ĐA.
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp.
Ở trong rừng, ở dựa cội cây.
Hoặc nhà thanh vắng, khơng ai.
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Sắc, Thọ, Tưởng liên dây, Hành thức.
Đều vơ thường một mực như nhau.
Ngũ Uẩn chẳng luận Uẩn nào.
Tỳ Khưu tưởng thấy biến mau khơng thường.
Nầy, A-NAN-ĐA.
Tưởng Ngũ Uẩn vơ thường là vậy.
Như Lai cho tưởng ấy vơ thường.

Nầy, A-NAN-ĐA,

2/ Cịn tưởng Vơ Ngã con đường thế nào?
Nầy, A-NAN-ĐA.
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp.
Ở trong rừng, ở dựa cội cây.
Hoặc nhà thanh vắng, khơng ai.
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Mắt cùng các sắc đây một cuộc.
Chẳng phải là vật thuộc của tạ.
Tai và các tiếng gần xa.
Cũng là chẳng phải của ta đâu nào.
Mũi lại với các mùi cả thảy.
Đều ở ngồi, chẳng phải của ta.
Lưỡi cùng các vị phớt qua.
Thật đĩ chẳng phải của ta chớ lầm.
Thân thể với các mần đụng cọ.
Chớ đảo điên cho đĩ của ta.
Tâm cùng Pháp hà sa.
Cũng đều chẳng phải của ta mỗi phần.
Tỳ Khưu tưởng căn trần như thế.
Ngồi phạm vi, chẳng kể của ta.
Này, A-NAN-ĐA.
Pháp tưởng vơ ngã đĩ ta đã bày.

Này, A-NAN-ĐA.

3/ Tưởng bất tịnh là điều chi vậy?
Này, A-NAN-ĐA.
Thầy Tỳ Khưu tưởng thấy trong thân.
Bắt từ ngọn tĩc xuống chân.
Cĩ da bao bọc chung quanh cả mình.
Trong chứa vật nhiều hình, nhiều dáng.
Khác khác nhau nhưng đáng gớm ghê.
Tĩc, lơng với mĩng, răng, da.
Thịt, gân, xương tủy, ruột già, ruột non.
Thận, tim gan, da non, lá lách.
Phổi, phẩn, đàm, nước mắt, mồ hơi.
Mật cùng vật thực chưa tiêu.
Dầu da, mủ, máu, rất nhiều phần dơ.
Mỡ, nhớt, mũi, chẳng bao giờ thiếu.
Nước miếng cùng nước tiểu dẫy đầy.
Tỳ Khưu tưởng các vật này.
Vẫn khơng sạch sẽ trong thây con người.
A-NAN-ĐA vậy ngươi cố nhớ
Pháp ấy là tưởng sợ thân ta.

Này A-NAN-ĐA.
4/ Tưởng sự khổ ấy tưởng là làm sao?
Này, A-NAN-ĐA
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp.
Ở trong rừng, ở dựa cội cây,
Hoặc nhà thanh vắng khơng ai,
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Thân thể cĩ dẫy đầy khổ não.
Tội lỗi gây quả báo về sau.
Bịnh căn khốn khĩ nhức đau.
Những bịnh hoạn ấy kể sao cho cùng.
Như bịnh phát phần trong tai mũi,
Trong thân hình, trong lưỡi trong đầu
Trong miệng, trong bụng, đâu đâu.
Ngồi tai, ngồi mũi, khắp hầu châu thân.
Bịnh ho, suyễn, gầy lần, bịnh nĩng.
Bịnh chơn răng, các giống lác, cùi.
Bịnh bướu, sải, mụn, lơi thơi.
Bịnh phong, lao, tổn, vơ hồi khĩ toan.
Bịnh chĩng mặt, trái ban, thổ huyết.
Trĩ, đinh san, chi xiết thúi tha.
Âm san, ghẻ phỏng ngồi da.
Đau bụng, bịnh tả, cùng là đàm xanh.
Bịnh đau máu dễ thành chứng nặng.
Bịnh mật đau, huyết trắng, phong đàm.
Bịnh bĩn, bịnh lậu, khơng kham.
Phong lở, đau mật, giĩ làm cho đau.
Bịnh thời khí, bịnh do đánh đập.
Do nghiệp duyên dồn dập từ xưa.
Do lạnh, do nĩng khơng ưa.
Do đĩi, do khát, chẳng chừa một nhân.
Tưởng tội khổ trong thân như thế.
Pháp ấy là tưởng khổ thân ta.

Này, A-NAN-ĐA,
5/ Cịn tưởng dứt bỏ nghĩa là làm sao?
Nầy, A-NAN-ĐA
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp,
Khơng cĩ lịng thọ Pháp dục chi.
Cố làm tiêu tán dứt đi.
Khơng cho sanh Dục-tư-duy thường tình.
Khơng thọ lãnh lại đành dứt bỏ.
Làm tiêu tan chẳng cĩ chút chi.
Khơng cho sanh Hận-tư-duy.
Thứ lịng cố chấp nghĩ suy ốn thù.
Khơng thọ lãnh hận thù dứt bỏ.
Làm tiêu tan chẳng cĩ chút chi,
Khơng cho sanh Khốn-tư-duy.
Thứ lịng khốn khĩ nghĩ suy thật hành.
Khơng thọ lãnh lại đành dứt bỏ.
Làm tiêu tan chẳng cĩ dư dành.
Khơng cho nghiệp dữ phát sanh.
Nghiệp dữ đã cĩ khơng thành nhiều thêm.
Này, A-NAN-ĐA.
Pháp ấy gọi tưởng về dứt bỏ.

Này, A-NAN-ĐA.
6/ Tưởng dứt tình dục nghĩa là làm sao?
Này, A-NAN-ĐA.
Thầy Tỳ Khưu đã vào Phật Pháp,
Ở trong rừng, ở dựa cội cây,
Hoặc nhà thanh vắng khơng ai.
Trầm ngâm tưởng pháp Như Lai như vầy:
Dứt tình dục, nơi đây bất diệt

Là Niết Bàn trừ diệt sở hành.
Dứt bỏ phiền não chẳng sanh.
Đoạn trừ ái dục cội căn tuyệt rồi.
Niết Bàn ấy vơ hồi tịch tịnh.
Pháp mơn này cao thượng sâu xa.

Này, A-NAN-ĐA.
7/ Tưởng dứt tình dục đĩ ta giáo truyền.
Này, A-NAN-ĐA.
Tưởng tịch tịnh, cơ duyên sao đĩ?
Này, A-NAN-ĐA.
Thầy Tỳ Khưu trong giáo pháp này.
Ở rừng hoặc dựa cội cây.
Trong nhà vắng vẻ tưởng suy như vầy:
Pháp tịch mịch nơi đây bất diệt.
Là Niết Bàn trừ diệt sở hành.
Dứt bỏ phiền não chẳng sanh.
Đoạn trừ ái dục cội căn tuyệt rồi.
Niết Bàn ấy vơ hồi tịch tịnh.
Pháp mơn này cao thượng sâu xa,
Này, A-NAN-ĐA.
Đĩ là pháp tịnh mà ta giáo truyền.

Này, A-NAN-ĐA.
8/ Sao gọi tưởng khơng duyên thế giới?
Này, A-NAN-ĐA.
Cái tâm này mong đợi, chấp nương.
Ái dục; với kiến thức thường.
Đoạn kiến cùng những vị phiền thế gian.
Cái tâm ấy thuộc hàng tâm ác.
Thầy Tỳ Khưu trong pháp của ta.
Khi nào bỏ pháp ấy ra,
Khơng lịng cố chấp, tránh xa được rồi.
Này, A-NAN-ĐA,
Pháp ấy gọi tưởng thơi, khơng tiến.
Hoặc là khơng tham luyến thế gian.

Này, A-NAN-ĐA.
9/ Cịn tưởng hành tác vơ thường là sao?
Này, A-NAN-ĐA.
Hàng Tỳ Khưu thầy nào chán nản.

Hoặc gớm ghê chẳng quản hành vi.
Này, A-NAN-ĐA.
Đĩ Như Lai gọi hành vi vơ thường.

Này, A-NAN-ĐA.
10/ Thế nào gọi niệm thường hơi thở?
Này, A-NAN-ĐA.
Thầy Tỳ Khưu hoặc ở trong rừng.
Trong nhà hoặc dựa cội cây.
Nên ngồi nhắm mắt; thân ngay im liim.
Ý chơn chánh để tìm Thiền định.
Khi mọi bề yên tịnh thản nhiên,
Chú tâm đề mục tham thiền.


Nhớ biết rõ rệt, thở vào thở ra.
Thở ra dài, cùng ra hơi vắn.
Thở vơ mà cĩ vắn hay dài
Hơi vơ cũng nhớ vắn dài phân minh.
Thầy Tỳ Khưu chuyên can rịng rã.
Nhớ biết rằng: Ta đã rõ ta.
Là người biết hơi thở ra.
Niệm xong rồi mới thở ra từ từ,
Thầy Tỳ Khưu cũng như thế ấy.
Cứ chuyên cần nhớ thấy hơi vơ.


Biết rằng: ta rõ hơi vơ.
Niệm xong rồi mới thở vơ lần lần
Thầy Tỳ Khưu chuyên cần rịng rã.
Nhớ biết rằng: ta đã biết ta.
Là người diệt hơi thở ra.
Niệm xong rồi mới thở ra từ từ.


Thầy Tỳ Khưu cũng như thế ấy.
Cứ chuyên cần, nhớ thấy hơi vơ.
Biết rằng: ta diệt hơi vơ.
Niệm xong rồi mới thở vơ lần lần.
Thầy Tỳ Khưu chuyên cần một mực.
Ta biết rằng: ta thật biết rành,
Những điều, thọ sướng, vui mừng.
Niệm xong rồi mới lần lần thở ra.

Thầy Tỳ Khưu cũng là một mực.
Tự biết rằng; ta thật biết rành.
Những điều thọ sướng, vui, mừng.
Niệm xong rồi mới lần lần thở vơ.
Thầy Tỳ Khưu tâm đồ chuyên chú.
Tự biết rằng: rõ thú yên vui.
Phân minh biết được rõ rồi.
Niệm xong rồi mới lần lần thở ra.


Thầy Tỳ Khưu cũng là một mực.
Nhớ biết rằng: ta thật biết mùi.
Của các thú vị yên vui.
Niệm xong rồi mới lần lần thở vơ.
Thầy Tỳ Khưu quan hơ, sát hấp.
Tự biết là rõ khắp tâm hành.
Biết cho rõ rệt đành rành.
Niệm xong rồi mới thật hành thở ra.


Thầy Tỳ Khưu tâm đà tinh tấn.
Cố chuyên cần đặng phấn chí lành.
Biết rằng: ta rõ tâm hành.
Niệm xong rồi mới thật hành thở vơ.
Thầy Tỳ Khưu quan hơ, sát hấp,
Tự biết rằng: diệt tắt tâm hành.
Biết cho rõ rệt đành rành.
Niệm xong rồi mới thật hành thở ra.


Thầy Tỳ Khưu tâm đà tinh tấn.
Cố chuyên cần đặng phấn chí lành.
Biết rằng: ta diệt tâm hành,
Niệm xong rồi mới thật hành thở vơ.
Tỳ Khưu khơng mơ hồ chán nản.
Vẫn tinh cần, thanh sảng luơn luơn.
Biết rằng: ta đã rõ tâm.
Niệm xong rồi mới âm thầm thở ra,


Tỳ Khưu tự biết ta thành thiệt.
Vốn là người đã biết rõ tâm.
Biết cho rõ rệt khơng lầm.
Niệm xong rồi mới âm thầm thở vơ.

Thầy Tỳ Khưu trong mơ phạm ấy.
Vẫn chuyên cần nhớ thấy rằng ta,
Làm tâm được thơi thới ra.
Niệm xong rồi mới khởi mà thở ra


Thầy Tỳ Khưu cũng là thế ấy.
Vẫn chuyên cần nhớ thấy rằng ta.
Làm tâm được thơi thoi ra.
Niệm xong rồi mới khởi mà thở vơ,
Thầy Tỳ Khưu nên phơ nhẫn nại.
Chuyên cần rằng: ta phải giữ tâm.
Quân bình trong các cảnh trần.
Niệm xong rồi mới lần lần thở ra.


Thầy Tỳ Khưu cũng như là trước,
Chuyên cần rằng: ta giữ được tâm.
Quân bình trong các cảnh trần.
Niệm xong rồi mới lần lần thở vơ,
Thầy Tỳ Khưu nguyện cho hăng hái,
Tinh cần rằng: ta giải thốt tâm.
Khỏi Pháp chướng cái cả năm.
Niệm xong rồi mới đầm đầm thở ra.


Thầy Tỳ Khưu tỏ ra hăng hái
Tinh cần rằng: Ta giải thốt tâm
Khỏi Pháp chướng cái cả năm.
Niệm xong rồi mới đầm đầm thở vơ.


Thầy Tỳ Khưu xét vơ thường biến.
Rằng: ta hằng, thấy hiện tinh tường.
Ngũ uẩn đều là vơ thường.
Niệm xong rồi mới mở đường thở ra.
Thầy Tỳ Khưu cũng là thế đĩ,
Rằng: ta hằng thấy rõ tinh tường.
Ngũ uẩn đều là vơ thường.
Niệm xong rồi mới mở đường thở vơ,


Tỳ Khưu để, tâm vơ đề mục;
Rằng: Pháp trừ tình dục mà ta,
Là người hằng được thấy qua.
Niệm xong rồi mới thở ra lần lần.
Thầy Tỳ Khưu chuyên cần đề mục.
Rằng: Pháp trừ tình dục mà ta,
Là người hằng được thấy qua.
Niệm xong rồi mới khởi mà thở vơ.

Thầy Tỳ Khưu, tự cho hằng thấy.
Pháp tịch tịnh, pháp ấy được yên,
Khỏi điều thống khổ triền miên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi ra,


Thầy Tỳ Khưu rằng: Ta hằng thấy,
Pháp tịch tịnh, pháp ấy được yên.
Khỏi điều thống khổ triền miên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi vơ.
Thầy Tỳ Khưu tự cho thấy rõ.
Những pháp lành dứt bỏ ưu phiền,
Chuyên cần niệm chẳng trì duyên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi ra.


Thầy Tỳ Khưu rằng: Ta thấy rõ
Những pháp lành dứt bỏ ưu phiền,
Chuyên cần niệm chẳng trì duyên.
Niệm xong rồi mới thở liền hơi vơ.


Này, A-NAN-ĐA.
Điều ấy gọi niệm vơ hơi thở.
Này, A-NAN-ĐA.
Nếu người vào chỗ bịnh nhân.
Của GI-RI-MA-NAN-ĐA.
Ngươi nên giảng giải pháp ta chỉ bày.
Mười pháp tưởng nhân hay diệt bịnh,
Làm cho thầy GI-RI-MA-NAN-ĐA.
Chỉ trong giây phút thống qua.
Căn bịnh thuyên giảm chắc là khơng sai.
Liền theo đĩ A-NAN-ĐA học.
Pháp tưởng này của Đức Thế Tơn.


Rồi đem truyền đến Sa Mơn.
Người đương bịnh hoạn dập dồn bấy lâu.
Nhờ nghe được Pháp mầu quán tưởng.
Bịnh của thầy GI-RI-MA-NAN-ĐA.
Giảm thuyên rồi khỏi hẳn ra.
Chỉ trong giây phút thống qua khơng chầy.
Diệt căn bịnh của thầy trầm trọng,
Chính cho thầy GI-RI-MA-NA-ĐA.
Được nghe pháp tưởng sâu xa.
Phật truyền cho đức A-NAN-ĐA giải bày.

BUDDHAPADANAMAKKARA GATHADVADASA PARITTA

- KỆ LỄ PHẬT TÍCH (HT. PHÁP MINH dịch)

Vandami Buddham bhavaparatinnam
Tiloka ketum tibhaveka natham
Yo lokasettho sakalam kilesam
Chetvana bodhesi janam anantam
Ya.m Nammadaya nadiyaa puline ca tire,
Yam Saccabandhagirike sumana ca lagge,
Yam tattha Yonakapure munino ca padam
Tam padalanchanamaham sirasa namami:
Suvannamalike;
Suvannapabbate;
Sumanakute;
Yonakapure;
Nammadaya nadiya
Panca padavaram thanam, aham vandami durato.

Thành tâm con đảnh lễ Đức Phật Tổ Gotama,
Cái-thế đại hùng anh, biển khổ đau, đã băng qua.
Cịn nêu trong tam giới, chỗ quy-ngưỡng của quần sanh,
Phiền não đoạn trừ xong, giác ngộ tâm đến Vơ - sanh.
Thành tâm con đảnh lễ những Thánh- tích Sakya,
Lưu dấu tại trần gian đủ năm noi Phật trải qua:
Một là trên bãi cát kế mé sơng Nammada;
Hai, ở tận đầu non Suvanna - màlika;
Ba là trên đảnh núi Suvanna Pabbata;
Bốn là trên thượng đảnh núi Sumana- konta;
Năm, ở trong thành đơ hiệu Yonakapurì.
Thành tâm con đảnh lễ năm dấu chân Đức Mâu - ni;
Châu báu khắp trần gian xét kỹ ra thật khơn bì.

PALI

NGHIA VIET

PATIDANA GATHA

Ya devata santi viharavasini
Thupe ghare bodhighare tahim tahim. Ta dhammadanena bhavantu pujita. Sotthim karontedha viharamandale.

Thera ca majjha navaka ca bhikkhavo. Saramika, danapati upasaka
Gama ca desa nigama ca issara. Sappanaphuta sukhita bhavantute

Jalabuja ye pica andasambhava
Sansedajata athavopapatika;
Niyyanikam dhammavaram paticcate. Sabbe pi dukkhassa karontu sankhayam.

Thatu ciram satam dhammo.
Dhammaddhara ca puggala.
Sangho hotu samaggo va
Atthaya ca hitaya ca.

Amhe rakkhatu saddhammo
Sabbe pi dhammacarino.
Vuddhim sampapuneyyama
Dhammariyappavedite
.

MATA PITU PANAMA GATHA

Yadajato cayo vaham
Dukkham mata pituhime
Anuphuttam navannitum
Hattham pagayha vandito
Dosam khamathameyeva
Tumhe dethabhayampi ca
Rudhitassevametumhe
Sugitamuppagettha ve
Nipajjapetha mam amham
Malamuttampi sakalam
Hatthena te gahetva va
Dhovitthapi ca sabbaso
Tumhe anagate kale
Amma karunnike have
Puttadhitutta mata ta
Buddhayeva bhaveyya tha.

KINH HỒI HƯỚNG SAU KHI NGHE PHÁP

Ngưỡng cầu các đấng chư Thiên.
Trong vịng tịnh xá ngự yên hằng ngày.
Ngự nơi đền tháp xưa nay,
Những nơi biệt thất nơi cây Bồ đề.
Chúng tơi xin hội họp về,
Sẽ dùng pháp thí tiện bề cúng dâng.
Rồi xin hộ độ chư Tăng,
Cửa từ ẩn náo phước hằng hà xa.
Tỳ Khưu chẳng luận trẻ già,
Cao hạ, trung hạ hoặc là mới tu.
Thiện nam tín nữ, cơng phu,
Đều là thí chủ đồng phù trợ nhân.
Những người trong khắp thơn lân.
Kiều cư châu quận được phần an khương.
Chúng sanh bốn loại khơng lường
Nỗn, thai, thấp, hĩa khi nương pháp lành.
Giải thốt pháp bảo nên hành,
Đặng mà dứt khổ truyền quanh đọa đày.
Cầu cho hưng thạnh lâu dài,
Pháp thiện trí thức các Ngài mở mang.
Bậc tu xin được bình an,
Cầu cho Tăng chúng các hàng hịa nhau;
Lại thêm phẩm hạnh thanh cao,
Những quả lợi ích kết mau kịp thì.
Cầu xin pháp bảo hộ trì,
Cho người tu đã quy y Phật rồi.
Xin cho cả thảy chúng tơi,
Tấn hĩa trong pháp Phật roi giáo truyền.

LỄ BÁI PHỤ MẪU KỆ

Kính thưa cha mẹ tường tri
Nghĩ suy con sợ lỗi nghì ơn trên
Từ con hình thể cĩ nên
Mẹ cha bảo dưỡng kề bên khơng rời
Nặng nề cực nhọc lắm ơi!
Chăm nom con trẻ kể thơi sao cùng
Con xin đảnh lễ cúc cung
Nghiêng mình phủ phục mong dung tội rày
Khi con la khĩc rày tai
Từ bi mẹ hát thương thay não nùng
Tân dịch, đại tiểu tiện cùng
Các vật uế trược ung dung lau chùi
Giặt rửa cha mẹ vẫn vui
Chẳng hề nhờm gớm những mùi thúi tha.
Từ bi thay! Lịng mẹ cha
Ơn tầy trời đất, khĩ mà đáp xong
Cầu cho cha mẹ thảy đồng
Đắc thành Phật quả thốt vịng tai ba.

(*) KINH CẦU SIÊU: PATICCA SAMUPADA

Avijja paccaya sankhara
sankhara paccaya vinnanam
vinnana paccaya namarupam
namarupa paccaya salayatanam
salayatana paccaya phasso
phassa paccaya vedana

vedana paccaya tanha
tanha paccaya upadanam
upadana paccaya bhavo
bhava paccaya jati
jati paccayaa jaramaranam

Sokaparidevadukkha domanassupayasa sambhavanti.
Evame tassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

Avijjaya tveva asesa viraganirodha sankhara nirodho.
Sankharanirodha vinnananirodho.
Vinnananirodha namarupanirodho.
Namarupanirodha salayatananirodho.
Salayatananirodha phassanirodho.
Phassanirodha vedananirodho.
Vedananirodha tanhanirodho.
Tanhanirodha upadananirodho
Upadananirodha bhavanirodho.
Bhavanirodha jatinirodho.
Jatinirodha jaramaranam .

Sokaparidevadukkha domanassupayasa nirujjhanti.
Evame tassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti.

Hành sanh do duyên Vơ Minh.
Thức sanh do duyên Hành,
Danh sắc sanh do duyên Thức.
Lục nhập sanh do duyên Danh Sắc.
Tiếp xúc sanh do duyên Lục Nhập.

Thọ sanh do duyên tiếp Xúc.
Ái sanh do duyên Thọ.
Thủ sanh do duyên Ái.
Hữu sanh do duyên Thủ.
Sanh sanh do duyên Hữu.
Lão tử sanh do duyên Sanh.

Sự uất ức sanh tử biệt ly khổ, trái ý, bực bội, hằng phát khởi cũng vì duyên sanh.

những thống khổ ấy sanh do lý nay.

Hẳn thật, Vơ Minh diệt thì Hành diệt, do theo thánh đạo.

Hành diệt thì Thức diệt.
Thức diệt thì Danh Sắc diệt.
Danh Sắc diệt thì Lục Nhập diệt.
Lục Nhập diệt thì Xúc diệt.
Xúc diệt thì Thọ diệt.
Thọ diệt thì Ái diệt.
Ái diệt thì Thủ diệt.
Thủ diệt thì Hữu diệt.
Hữu diệt thì Sanh diệt.
Sanh diệt thì Lao Tử diệt.

Sự uất ức, sự sanh tử biệt ly khổ, sự trái ý, và sự bực bội trong tâm, cũng đều diệt, vì tánh cách sự diệt sanh.
những thống khổ ấy diet do lý nay.

SÁM HỒNG TRẦN

Cuộc hồng trần xoay vần quá ngắn!

Kiếp phù sinh tụ tán mấy hồi.

Người đời có biết chăng ơi?

Thân này tuy có, có rồi hoàn không!

Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng,

Mơ màng chi mãi giấc nồng mà chi.

Làm cho buồn bã thế ni,

Hôm qua còn đó, bữa nay mất rồi.

Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,

Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.

Khi nào du lịch giang hồ,

Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.

Khi nào lược giắt trâm cài,

Bây giờ đưa xác ra ngoài đồng hoang.

Khi nào trau ngọc chuốt vàng,

Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.

Khi nào mắt đẹp mày xanh,

Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu.

Khi nào lên các xuống lầu,

Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh.

Khi nào liệt liệt oanh oanh,

Bây giờ một trận tan tành gió mưa.

Khi nào ngựa lọc xe lừa,

Bây giờ mây nước trắng đưa mơ màng.

Khi nào ra trướng vào màn,

Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa.

Khi nào mẹ mẹ, cha cha,

Bây giờ khuất núi cách xa muôn trùng.

Khi nào vợ vợ, chồng chồng,

Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn.

Khi nào cháu cháu, con con,

Bây giờ hai ngã nước non xa vời.

Khi nào cốt nhục vẹn muời,

Bây giờ là héo nhành tươi vui gì.

Khi nào bạn hữu xum vầy,

Bây giờ chén rượu cuộc kỳ hắt hiu.

Tấm thân như tấc bóng chiều,

Như chùm bọt nước phập phiều ngoài khơi.

Xưa nay ai có sống đời,

Hàng trăm tuổi thọ bây giờ còn đâu.

Sang mà đến bực công hầu,

Giàu mà đến bực mấy câu gian hùng,

Nghèo mà đói khát lạnh lùng,

Khổ mà tóc cháy da phồng trần ai,

Phù du sớm tối một mai,

Giàu sang cũng chết xạt xài cũng vong.

Thông minh tài trí anh hùng,

Ngu si dại dột cũng chung một gò,

Biển trần nhiều nỗi gay go,

Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê...

-ooOoo-

“sukhi homi, sukhi hontu!

mong chúng sanh an lạc, đừng cĩ khổ nữa!”

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2014(Xem: 34406)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
09/10/2014(Xem: 5837)
Một buổi lễ tụng kinh Pali theo truyền thống Nam tông Tụng kinh hay cầu kinh là một điều phổ biến trong các tôn giáo. Phật giáo cũng không ngoại lệ trong vấn đề này. Tuy nhiên, mục đích của việc tụng niệm thì khác nhau giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Phật giáo là tôn giáo duy nhất không xem tụng niệm như là cầu nguyện. Đức Phật trong nhiều phương cách đã chỉ dạy chúng ta phải có niềm tin vào hành động của mình và kết quả của nó, và qua đó khuyến khích chúng ta nương tựa vào chính mình mà không vào một ai khác. Điều này trong thực tế là điều cốt lõi nơi thông điệp sau cùng của Ngài ở trong kinh Đại Niết-bàn (Mahaparinibbana Sutta). Một trong những thông điệp trong kinh ngày là: “Này A Nan, hãy nương tựa chính mình và chớ nương tựa vào ai khác, hãy nương tựa Chánh pháp và chớ nương tựa vào pháp nào khác”.
25/09/2014(Xem: 26190)
Phụng hành lời giáo huấn của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trong Kinh Du Hành - bộ Trường A Hàm : “ Chúng Tỳ Kheo phải thường xuyên theo đúng các qui định của Luật Tạng, để giảng luận Chánh Pháp, khiến cho các Tỳ Kheo trong trú xứ cùng sinh hoạt hòa hợp, là pháp đầu trong Bảy Pháp Bất Thối của hàng Thích tử ”. Theo tinh thần đó, chúng ta đã và đang nối gót các bậc Thầy Tổ trong sự nghiệp kế thừa gia bảo của Đức Thế Tôn qua Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư hay Ngày Về Nguồn năm nay là năm thứ 8.
08/09/2014(Xem: 7953)
Đức Phật từng dạy: “Trên đời có hai hạng người đáng quý. Thứ nhất, người chưa hề phạm tội và thứ hai là người lỡ phạm tội nhưng hết lòng sám hối, nguyện không tái phạm.” Kinh sách ghi lại nhiều bài sám với những hình thức ngắn, dài, đại cương hoặc chi tiết, để mỗi hành giả tùy căn cơ, nhu cầu và phương tiện mà phát nguyện sám hối. Ở đây, chỉ xin được chia sẻ đôi giòng, sau hai tuần lễ đại chúng đạo tràng chùa Phật Tổ hành trì, trong khóa tu sẽ liên tục một tháng, tụng lạy bộ“Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp Lương Hoàng Sám”
02/09/2014(Xem: 9060)
Đạo Phật là Đạo cứu chúng sanh ra khỏi sáu cõi sinh, tử, luân hồi khổ đau, để đến các cõi Phật, là những cõi vô sanh, vô tử. Do đó chư Phật trong 10 phương thế giới Phật, đều thị hiện vào Tam giới, Lục đạo, để cứu khổ chúng sanh theo sở nguyện và phương tiện(giáo pháp, tâm đại từ bi, trí tuệ) của mình. Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện vào cõi Ta bà, nói Pháp và hướng dẫn con Người tu tập giáo pháp, để giải thoát sanh tử, luân hồi. Đức Phật còn thuyết minh về các kinh
26/08/2014(Xem: 8615)
Với niềm tin rằng từ bỏ cõi đời ở thành phố linh thiêng Varanasi và ngâm mình dưới dòng sông Hằng thì linh hồn sẽ được gột rửa, nhiều người ở Ấn Độ tìm đến thành phố đó để chờ chết.
20/06/2014(Xem: 5509)
… Buỗi lễ vẫn tiếp diễn, chú bé được gội tóc sạch sẽ bằng xà-phòng, đầu được cạo láng bóng, bây giờ chú ra giếng múc nước để rữa những bụi tóc còn sót lại. Chú ở trần, chỉ mặc độc một chiếc quần bằng vải trắng tinh, rộng thùng thình may theo kiểu Ấn Độ. Một người lớn, có lẽ là bố chú, rữa chân cho chú, từ đầu gối trở xuống chú lại được dội nước từ đầu xuống chân. Tắm rữa sạch sẽ xong, chú cũng chỉ mặc chiếc quần trắng, mình trần . Vị Sư trưởng lấy chiếc áo Ca sa vàng vừa mới được dâng lên, cột chéo áo vào cổ chú, trước đó Ngài đã đọc một bài kinh ngắn và chú lập lại từng câu, bài kinh bằng tiếng Phạn nói lên ý nghĩa rời bỏ thế tục. Có câu chú nghe không trọn, Vị Sư trưởng lập lại cho chú đọc theo…
14/06/2014(Xem: 32003)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn. Đại Mông Sơn thuộc về loại chẩn tế cô hồn trọng đại. Đây là một hình thức tổ chức nghi thức lập đàn tràng chẩn tế cô hồn rất lớn. Như đại lễ trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan năm 2007, do Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cùng chư Tăng Ni Làng Mai, đã hợp tác cùng Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam trong nước tổ chức ở ba nơi: chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn), chùa Diệu Đế (Huế), chùa Sóc Sơn (Hà Nội). Cả ba nơi lập trai đàn chẩn tế này mọi người đến dự lễ rất đông, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hay đảng phái chánh trị.
11/06/2014(Xem: 6272)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp như cá mòi, có người đã bắt đầu “lên dây đàn” mở màn cho buổi hòa tấu. Nhìn quanh không còn chỗ nào trống để ngả lưng. Đang đứng ngơ ngác ở hành lang cầu thang, tôi định trải túi ngủ nằm bừa xuống, có chị bạn đạo vừa chuyển mình nhích qua một bên, vừa cất tiếng:
07/06/2014(Xem: 6677)
Thời xưa, khi mới bắt đầu tu tập, tôi rất muốn tụng kinh và đi hỏi xem nên tụng cuốn nào. Được khuyên bảo và tôi mua cuốn “Chư kinh nhật tụng”. Thầy chùa bảo, cứ tụng đi, tụng hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567