Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni chú

01/06/201114:07(Xem: 5375)
10. Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni chú

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức

D. TẬP BỐN
KINH MẠT PHÁP NHẤT TỰ ĐÀ LA NI

PHẬT NÓI KINH TRANG NGHIÊM VƯƠNG ĐÀ RA NI CHÚ
(MỘT QUYỂN)
Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn.

Như thật tôi nghe, một thời Đức Bạt Già Phạm ở tại núi Bố Đạt Lạt Ca. Vì các trời người tất cả đại chúng diễn nói pháp yếu, xem khắp mười phương dùng diệu âm thinh dạy Quán Tự Tại Bồ Tát và Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Có kinh tên là “Nhứt Thiết Như Lai Sở Hộ Quán Sát Chúng Sanh Thị Hiện Phật Sát Trang Nghiêm Vương Đà Ra Ni”. Ta lúc xưa kia khi mới phát tâm ở chỗ Hoa Quang Hiển Hiện Như Lai, cũng là chín mươi câu chi chúng sanh (90 trăm ức) một phen nghe được pháp mầu này đây thảy đều đắc phần trí huệ Như Lai, được nhờ thọ ký làm Phật trong các cõi Phật sát. Ta trong số đó được Phật thọ ký. Này thiện nam tử! Ta lấy Phật nhãn xem thấy quá khứ ba vạn Như Lai, vì các chúng sanh nói pháp yếu này. Ông Quán Tự Tại và Diệu Cát Tường ở nơi trong thời thuyết pháp khi ấy cũng đều là bậc lãnh đạo Thượng Thủ.

Bấy giờ Thế Tôn nói lời ấy rồi, hiện tiền đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, thính giả đến nghe đều phát lòng tin cúng dưòng Đức Phật.

Bấy giờ vô lượng trăm ngàn Câu chi na khố đa chúng sanh đều được thọ ký cũng đắc Bồ Tát Thắng Diệu Đẳng Trì, bệnh khổ thảy trừ, Cái (1), Triền (2) tiêu diệt, sở nguyện đầy đủ, căn lành thành tựu, dung nhan đoan chánh tài bảo giàu có. Quốc Vương, đại thần, các loài chúng sanh thảy đều vui mừng! Niệm huệ thần thông đều được đầy đủ, đối Phật Pháp Tăng được tín bất hoại, thọ mạng sắc lực có đại oai thế, không có các khổ thương xa lìa ghét phải gặp gỡ.

Nếu có trai lành và người gái tín hay đối kinh này, năm vóc sát đất, sanh lòng hy hữu, lấy các hương hoa chuỗi ngọc phan cái, cung kính cúng dường, qui y khen ngợi đọc tụng thọ trì.

Nếu mình viết chép hoặc bảo người chép, vô lượng công đức đều được thành tựu, thấy kẻ thọ trì sanh lòng kính tín thì hiện thân này các đức đầy đủ, đều đắc Bồ Tát Thắng Diệu Đẳng Trì, hơi miệng thường ra mùi thơm chiên đàn, tròng mắt sáng tịnh như lá sen xanh, ở trong ngày đêm thấy Phật hình tượng và đại Bồ Tát. Nếu có chướng tội, nghiệp ngũ vô gián, thảy đều tiêu diệt, chư Thiên vệ hộ, khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, tâm không tán loạn, quyết được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Ta cùng người đó thọ ký làm Phật, kia thấy thân ta cung kính cúng dường, đối diện Bồ đề tâm không nghi hoặc. Nếu lại có người đối pháp môn này đọc tụng thọ trì, cúng dường cung kính, nếu tự mình chép hoặc bảo người viết cho đến được nghe tên kinh điển này, phải biết người đó tức là Bồ Tát nên cần cúng dường. Nếu lại người này do nghiệp ác trước, tài mạng sắc lực trong ngoài tư sanh thảy đều ngắn ít, các việc mong cầu không được toại lòng, thân ái chia lìa, cõi nước hoang tàn, vương giặc nạn suy. Do sức kinh này hiện thân thọ nhẹ, hoặc tạm đau đầu, hoặc được áo xấu, hoặc là cơm dở, hoặc gặp mắng chửi, và các hủy nhục thì nghiệp chướng kia thảy đều tiêu diệt. Này thiện nam tử! Kia người trì kinh nên sanh niệm này: Ta xưa lưu chuyển trong biển sanh tử, đối các hữu tình làm nhiều ác tội, ngày đêm tăng trưởng tạo nghiệp không lành, nay thời rõ biết, không dám che giấu, phát lộ nguồn tội, thành tâm sám hối. Đối Phật Pháp Tăng lòng tin bất hoại.

Nếu lại có người từng ở trong Phật Pháp, Tăng Bảo, Độc Giác, Thanh Văn, cha mẹ, sư trưởng, làm các nghiệp ác, quả báo áo cơm đều phải thiết hụt. Do sức kinh này nghiệp ấy trừ diệt, cơm áo đầy đủ.

Nếu lại người kia, có nghiệp thọ khổ, chốn Nại Lạc Ca (địa ngục) thương khổ xa lìa, sống đời mù đui, không căn hai căn, nghiệp báo chín muồi, cũng đều tiêu diệt.

Lại nữa, người kia do sức nghiệp ác, đời trước tật đố, sân si hờn giận, sẽ đọa vào cõi Diêm Ma Vương giới, súc sanh ngạ quỷ trong các ác thú. Do sức kinh này đã có ác nghiệp đều được trừ diệt, hết thảy phước đức đều được tăng trưởng.

Này thiện nam tử! Nếu nơi chỗ nào có pháp môn này, thì những người kia thường nhờ kinh này mà được ủng hộ, công đức đầy đủ, sở cầu viên mãn, thường thọ giàu vui nghiệp ác tiêu trừ, không có hoạnh tử và các ác mộng, bịnh khổ chẳng có, đấu chiến thường thắng, mạng thọ sống lâu, sắc lực đầy đủ có đại oai thế. Tất cả thế gian người và thiên, long các quỷ thần thảy đều tùy ý chuyển, không gặp ác độc tai hoạn nước lửa, cho đến do nhờ sức trì Thần chú, thường được chư Phật trao tay thọ ký.

Nếu kẻ trai lành và người gái tín được nghe Thần chú như thế mà lại thọ trì đọc tụng hoặc tự viết chép hoặc dạy người chép, cung kính cúng dường, thì kẻ trai lành và người gái tín đều được công đức như trước đã nói.

Bấy giờ Thế Tôn nói lời ấy rồi quả đất lớn này bỗng nhiên rung chuyển sáu lần chấn động. Các đại chúng đây đem diệu hương hoa, hương thoa hoa tràng, tàn lọng, y phục, thù thắng nhiệm mầu dâng lên Thế Tôn, đồng thinh xướng rằng: Lành thay! Lành thay! Chúng con làm sao nghe được Thần chú, Như Lai tuyên nói. Lúc ấy Thế Tôn liền nói chú rằng:

“Nam Mô tát bà đát tha yết đa nẫm, đát điệt tha, bột đệ, tô bột đệ, lô ca Tỳ Lô kế, lô ca phạt để hiết lang đế, tát đỏa a phạt lô hiết nê, tát bà, đát tha yết đa a đề sắt sĩ đế, tát bà a xa bát rị bô rị nê, tu đinh đạt lệ, nại la đề bà bố thị đế, đát tha yết đa thận nhã na đạt đệ, đát tha yết đa a đề sắc trá nê noa, tát bà lô ca tốc xí bà bạt đổ, tát bà hiết ma bát rị xoa tà giả, ma ma a mộc hiết tả. Ngã đệ tử … (xưng tên) tát bà tát đỏa nan giả, hạt lạt xoa bà bạt đổ, đát tha kiết đa a đề sắc trá nê noa, tóa ha.” (108 lần)

Này thiện nam tử! Thần chú này đây ba vạn Như Lai đồng tuyên nói và cùng gia hộ. Ta nay cũng lại nói Thần chú này vì muốn lợi ích tất cả hữu tình khiến được an vui thường làm ủng hộ, trừ dứt bịnh khổ sanh các nước Phật.

Nếu lại có người nghĩ như thế này, như Phật đã nói công đức Thần chú. Ta nay làm sao để mà thành tựu, tức mỗi sáng chiều tắm rửa sạch sẽ, đối với hết thảy hữu tình chúng sanh khởi đại từ bi, phát lòng lân mẫn, trừ bỏ tật đố, kiêu mạn, giận hờn, một lòng cung kính đối trước tượng Phật, hương quý hoa thơm, đồ ăn thức uống rộng bày cúng dường, lễ mười phương Phật, tâm cầu sở nguyện, tụng Thần chú này đủ trăm lẻ tám biến (108) nơi mỗi mỗi biến, chú mỗi cái hoa, lấy mỗi mỗi hoa cúng dường nơi Phật. Người này tức liền tùy sở nguyện cầu thảy đều như ý, cũng ở trong mộng thấy được chư Phật. Khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, sau khi bỏ thân quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới, thọ mạng sắc lực thảy đều đầy đủ. Tất cả oán cừu đều sanh hoan hỷ.

Khi nói chú này, sáu vạn hữu tình hết thảy đều được vô sanh pháp nhẫn, vĩnh trừ các chướng, sở nguyện đầy đủ.

Khi đức Thế Tôn nói kinh này rồi, Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, hết thảy đại chúng nghe Phật Ngài nói hoan hỷ phụng hành.

___________________________

(1) CÁI: Năm món Cái:

1. Tham dục: Lòng tham vô đáy.
2. Sân nhuế: Giận hờn.

3. Thùy miên: Tâm hôn trầm không làm chi được.

4. Trạo hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động.

5. Nghi: Đối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn ngụy, tâm dụ dự không quyết đoán.

(2) TRIỀN: Mười Triền:

1. Vô tàm: Có tội lỗi mà không biết hổ.
2. Vô quý: Có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn.
3. Tật: Thấy người hiền đức, giàu sang sanh lòng ghen ghét.
4. Xan: Keo bẩn không bố thí.
5. Hối: Ăn năn những tội lỗi đã làm.
6. Thùy miên: Hôn mê không tỉnh giác được thân tâm.
7. Điệu cử: Tâm niệm xao động.
8. Hôn trầm: Thần thức hôn mê không rõ biết chi cả.
9. Sân hận: Đối trước nghịch cảnh hay sinh lòng sân hận.
10. Phú: Che giấu tội ác.
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG
VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN NHẤT TỰ ĐÀ RA NI(QUYỂN 2)
Đời Đường, Bắc Ấn Độ nước Ca Thấp Di La
Ngài Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn.

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại cõi Trời Tịnh Cư, nơi đạo tràng Đại Bảo Trang Nghiêm, có các đại Bồ Tát cùng chư Thiên đại chúng đều đến nhóm hội.

Bấy giờ đức Thế Tôn mở lòng đại từ đại bi, ở trong hội ấy nói khắp tất cả chư Thiên, đại chúng rằng:

- Các ngươi lắng nghe! Ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tử có Pháp luân chú, vì muốn cứu độ cho chúng sanh, hết thảy Như Lai đều có tâm bí mật khai thị hiển thuyết. Nếu có người trì tụng ta sẽ thọ ký cho người ấy, lúc trì tất cả các chú khác mới mau hiệu nghiệm viên mãn, tất cả việc làm đều được thành tựu không gì hơn. Các ngươi phải biết Đà Ra Ni này là Đại Thần chú Vương, trong các chú có đại thần lực.

- Nếu có người Thiện nam, Tín nữ nào hay thọ trì, thì Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát sẽ đến ủng hộ, hoặc lúc tỉnh giấc, hoặc ở trong mộng, Ngài hiện thân tướng và hết thảy các điềm lành, có công năng khiến cho chúng sanh đều vui mừng.

Các Thiện nam tử! Chú Vương này còn thu nhiếp được Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát, huống nữa các Bồ Tát khác, ở thế gian và xuất thế gian, cùng tất cả Hiền Thánh v.v…

Lại nữa, Thiện nam tử! Thần chú này có các công năng tiêu trừ tất cả tai chướng, tất cả mộng ác, tất cả oán địch, tất cả tội ngũ nghịch, tội tứ trọng, thập ác và các nghiệp tội nặng, tất cả tà ác, các chú pháp không lành và có công năng diệt trừ hay thành biện tất cả việc lành, được đại tinh tấn. Nên biết các chú tại thế và xuất thế thì chú này thù thắng hơn hết, là tâm của chư Phật, hay khiến tất cả sở nguyện đều được viên mãn.

Nếu có chỉ năm màu, kết Thần chú này thành dây, đeo nơi cổ sẽ ủng hộ được thân mình, diệt trừ tai chướng, khiến các nguyện đều được viên mãn, không gì sánh bằng, liền nói Thần chú rằng:

“ÚM XỈ LÂM”

Này các Phật tử! Chú này có công năng tiêu diệt tất cả tà ác, vọng lượng và các loài quỷ. Là Pháp kiết tường (an lành) của hết thảy chư Phật, có công năng thành tựu tất cả Thần chú. Người tụng chú này hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại từ, hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại bi, hết thảy chướng ngại đều được tiêu diệt, chỗ mong cầu ước nguyện đều được đầy đủ, dù khi chưa làm phép tắc cũng được tự ý thành biện các việc. Nếu phát lòng Vô thượng đại Bồ đề, tụng chú này một biến có năng lực gia hộ tự thân, nếu tụng hai biến có năng lực gia hộ đồng bạn, nếu tụng ba biến có năng lực gia hộ mọi người trong nhà, nếu tụng bốn biến có năng lực gia hộ mọi người trong một thành, nếu tụng năm biến có năng lực gia hộ mọi người trong gia hộ mọi người trong một nước, nếu tụng sáu biến có năng lực gia hộ mọi người trong một thiên hạ, nếu tụng bảy biến có năng lực gia hộ mọi người trong bốn thiên hạ. Nếu mỗi sáng tụng chú này một biến trong nước rửa mặt thì hay khiến người thấy sanh lòng vui mừng, chú nơi hương thơm, thoa nơi áo mặc cũng khiến mọi người thấy đều sanh lòng vui mừng.

- Nếu bị đau răng, chú trong cây Lan mà nhâm nhai đó, thì răng đau liền bớt.

- Nếu có người nữ bị sản nạn (nạn sanh đẻ) lấy rễ cây A Tra Lô Sa Ca hoặc rễ cây Lan Già Lợi Ca (cây Ngưu Tất) chú vào đó bảy biến, lượt trùng lấy nước sạch, hòa vào trong rễ cây ấy, thoa nơi sản nữ hay nơi rún, ấu nhi liền sinh ra dễ dàng.

- Hoặc có người nam bị trúng tên, đầu sắt nhọn của mũi tên đâm vào gân xương, nhổ ra không được, lấy bơ mười năm, ba lượng, tụng chú 108 biến, thoa nơi chỗ bị tên độc và ăn bơ đó, mũi tên có sắt độc kia liền ra.

- Nếu người đàn bà năm năm cho đến hai mươi năm, ba mươi năm mà chẳng có con trai hay con gái, hoặc tự có bịnh, hoặc chồng của người đàn bà ấy bị bịnh quỷ mị hay các thứ bịnh khác, hoặc bị nhằm thuốc độc, lấy bơ để lâu trên mười năm, năm lượng, lấy lông của đuôi con công, một lượng, bỏ vào trong bơ ấy, tụng chú 21 biến, đem nghiền thật nhỏ, rồi bỏ vào chưng nấu chín, lấy một lượng đường phèn và ba trái A Lê Lặc lớn, bỏ hột lấy vỏ, hòa chung với nhau lại tụng chú 108 biến, thường mỗi buổi sáng bụng đói uống thuốc ấy vào, uống bảy ngày như vậy, liền có con trai hay con gái.

- Nếu đau đầu, lấy lông cánh của con chim, tụng chú này bảy biến, phết chỗ đau nơi ấy tức bịnh liền lành.

- Nếu bị bịnh rét, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc bị rét kinh niên, lấy thuần sữa tốt, nấu chung với cháo, trộn vào một lượng bơ, tụng chú 108 biến cho người bị bịnh ăn, tức bịnh liền dứt.

Này các Thiên nam tử! Đây chỉ tóm lược mà nói, nếu muốn bào chế các thứ thuốc để uống thì trước cần phải chí tâm tụng chú 21 biến, sẽ mau được như nguyện.

Lại nữa! Các Thiện nam tử! Nếu có tất cả chúng sanh, bị quỉ Phi đầu bắt giữ thì mình lấy tay thoa nơi mặt họ, tụng chú 108 biến, mình làm tướng oai nộ, liền lấy tay trái kiết ấn Bổn sanh (ngón tay cái co vào trong lòng bàn tay, sau dùng bốn ngón kia nắm chặt ngón cái lại thành một hình cầm cú) liền tự hét nộ mắt chăm nhìn và tụng chú mà xem bịnh thì bịnh liền lành.

- Nếu người bị các loài quỉ hành bịnh, mình tụng chú vào trong tay phải 108 biến, thiêu An tất hương xông nơi tay, tay trái kiết ấn Bổn sanh (ấn như trên) tay phải thoa nơi đầu của người bị quỉ hành bịnh, bịnh liền dứt.

- Nếu có oán địch cùng các ác mộng và các việc sợ hãi, làm thân tâm bất an, lấy chỉ bảy màu hay năm màu, kết Thần chú này thành dây hoặc thành hình hoa sen, hoặc thành hình bánh xe Pháp luân, hoặc thành hình Kim Cang xử, tụng chú 108 biến, thiêu An tất hương, xông dây đó cho đến bảy ngày, đeo vào nơi cổ, tất cả tai chướng đều được tiêu tán. Hoặc lấy ngưu huỳnh nghiền nhỏ làm mực, viết trên giấy sạch, hoặc là lụa trắng, vẽ hình đáng sợ nơi bốn bên, hãy viết chữ “ÚM XỈ LÂM” chung quanh, hoặc vẽ hình hoa sen, hoặc hình bánh xe Pháp luân, hoặc chữ vạn, hình ngư ốc, hình Kim Cang móc câu, bình Cam lồ báu, vẽ chung quanh ấy, tụng chú bảy biến thì chỗ sợ hãi liền tiêu trừ.

- Này các Thiện nam tử! Nếu muốn đi qua các chỗ hiểm nạn sư tử, hổ lang, độc xà, oán tặc tất cả chỗ nạn ấy, nên cần dốc hết thân tâm cho thanh tịnh, không được gần gũi người nữ, không được ăn ngũ tân (rượu, thịt, hành, hẹ, nén, tỏi …) đối với chúng sanh, phát tâm đại từ bi, nhất tâm tụng chú 49 biến thì các oán ác tự nhiên thối tán, dầu có gặp đi nữa cũng đều sanh tâm vui mừng.

Này các Thiện nam tử! Thần chú này đối với tất cả chúng sanh, hoặc ở một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh tự không thể nghe được, huống nữa chuyên tâm tụng niệm, giả sử của bảy báu như: voi, ngựa đầy dẫy cõi Diêm Phù Đề này, cũng là pháp hoại diệt của thế gian.

Đà Ra Ni Thần chú này, khiến chúng sanh hiện tại và tương lai, thường được an ổn, hay làm quyến thuộc với các Như Lai và các chúng đại Bồ Tát. Nếu vì bản thân mình hay bản thân người khác thì các sở nguyện cũng đều được như ý. Vậy cho nên phải ân cần khao khát, rất khó gặp, không được khinh mạn, hoặc sanh tâm nghi ngờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/01/2011(Xem: 3323)
Du già hành tông là một trong hai tông phái Đại thừa Phật giáo Ấn Độ. Sự sáng lập tông phái này được quy cho hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân. Nhưng giáo lý và học thuyết căn bản của tông này đã được lưu hành ít nhất là một thế kỷ trước đó. Du già hành tông chú tâm vào tiến trình tương quan của nhận thức để hàng phục vô minh, để giúp chúng ta thoát khỏi vòng nghiệp báo sinh tử.
30/12/2010(Xem: 3498)
Nếu có một dịp được chứng kiến cảnh các vị sư Tây Tạng thực hiện đồ hình Mạn-đà-la (Anh: mandala, Phạn: maṇḍala, Tây Tạng: dkyil 'khor, Hoa: 曼荼羅) thì chắc hẳn bạn sẽ không bao giờ quên được ấn tượng vô cùng đặc sắc lưu lại trong kí ức. Mạn-đà-la không phải chỉ mang tính hình tượng hóa của một phương tiện tu học thiện xảo mà còn là một nghệ thuật có một không hai. Nghệ thuật này đòi hỏi công phu kết hợp làm việc cùng nhau của một nhóm người thật sự tập trung tinh thần trong một thời gian nhiều ngày sử dụng các công cụ thô sơ đặc trưng.
15/12/2010(Xem: 20275)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
18/11/2010(Xem: 4303)
Bắt đầu bài giảng, Rinpoche nói rằng Singapore là một địa điểm rất linh thiêng đối với Phật Giáo. Con người ở đây hết sức tử tế và nơi đây quả là một địa điểm đặc biệt. Thậm chí nó tốt lành đến nỗi chúng ta đang sử dụng một địa điểm linh thiêng như thế để thực hành.
26/10/2010(Xem: 5090)
Thế kỷ 21 là bước vào thời kỳ phát triển tâm linh của nhân loại trên trái đất. Các tôn giáo sẽ phải làm tròn sứ mạng của mình trong việc dẫn dắt con người tiến hóa vào giai đoạn này. Trong vườn hoa muôn màu của các tôn giáo hiện nay, Phật giáo đã đóng góp một phần không nhỏ.
23/10/2010(Xem: 13539)
Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy.
16/10/2010(Xem: 8386)
Trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng có bốn dòng phái lớn: Nyingma (Cổ Mật - Mũ đỏ), Kagyu (Mũ đen), Gelug (Mũ vàng), Sakya. Các dòng phái lớn này còn chia thành nhiều nhánh nhỏ. Các dòng truyền thừa đều có chung một nguồn gốc là giáo lý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com