Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VUI MỪNG GẶP ÐƯỢC LỜI TRƯỚC THUẬT NÀY

26/04/201313:43(Xem: 4283)
VUI MỪNG GẶP ÐƯỢC LỜI TRƯỚC THUẬT NÀY


BỘMẬT TÔNG
(BỐN TẬP)

Dịch Giả : Thích Viên Đức

---o0o---

A. TẬP MỘT

HIỂN MẬT VIÊN THÔNG
THÀNH PHẬT TÂM YẾU

---o0o---

VUI MỪNG GẶP ÐƯỢC LỜI TRƯỚC THUẬT NÀY

Một đời Thánh Giáo của đức Như Lai không ngoài hai môn Hiển Mật. (Nhơn Vương Kinh Sao nói: Tất cả giáo pháp của Ðức Phật, không vượt ra ngoài hai tôn: Hiển Mật.)

Ở trong Hiển giáo tuy Ngũ giáo không đồng mà một bộ kinh Hoa Nghiêm rất tối tôn, tối diệu; là tủy của chư Phật, là tim của Bồ Tát. Ðầy đủ cả ba tạng, tổng hàm cả Ngũ giáo. (Phạn bổn có mười vạn bài kệ, ở đây đã dịch ra, 80 quyển, 60 quyển, hoặc 40 quyển… Tuy văn nghĩa rộng rãi bao la, trong đó rất cốt yếu, chỉ riêng một quyển kinh văn, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là then chốt của Hoa Nghiêm, bộ máy của việc tu hành, đáng khen ngợi và tôn sùng, các đạo lưu ở Ấn Ðộ đều y theo đây mà tu hành vậy.)

Nơi trong Mật bộ, tuy Ngũ bộ có khác mà một chú Chuẩn Ðề rất linh diệu và thù thắng; chú là mẹ của chư Phật, là mạng của Bồ Tát bao gồm đủ Tam Mật, tổng hàm cả ngũ bộ. (Phạn bản có mười bài kệ, phương này đã phiên dịch có các bản của chư Sư,tuy nghĩa thức khác nhau chút ít, nhưng trong đó có phần rất cương yếu, thì bản dịch của Ngài Thiện Vô Úy Tam Tạng đời Ðường là lãnh tụ của các Ðàn, là thuốc bổ của bảy chúng; có thể truyền thừa và sùng thượng. Các bậc cao đức ở Tây Thiên, Ðông Ðộ đều nương nơi đây mà trì tụng vậy.

Nay hai tôn này chỉ ghi soạn ra đây những pháp linh diệu mà Ngài đã truyền nói. Sau thời kỳ Phật nhập diệt, người đời bây giờ không nghe, không biết (không nghe Hiển viên, không biết Mật viên). Cách 700 năm sau đến khi Ngài Long Thọ ra đời đều hoằng truyền cả hai tông Hiển viên và Mật viên rồi đem lưu hành trong nhơn thế. Nay ở trong đời mạt pháp, được gặp Quốc Vương Thiên Hựu Hoàng Ðế Bồ Tát, trong cả nước như được thuốc bổ lưu thông. (Tức là hai giáo Hiển Mật).

Tôi là một vị Tăng tài mọn, may mắn gặp được lòng cảm động vui mừng; ôm hoài bão trọn đời cũng như người bịnh gặp được linh đơn, diệu dược; kẻ nấu bếp được ngọc Như ý Bảo châu, lòng rất vui mừng hớn hở, bèn sáng tác ra bài thơ ngâm ca tụng rằng:

Bao năm hân hạnh, dứt quên sầu,

Gặp hai Hiển Mật toại lòng mong.

Thần công Ngũ bộ đáng nên nhờ.

Mười huyền diệu quán, quán không thôi.

Âm cao giọng thấp Chơn ngôn chuyển.

Thân được đến đi chơi HOA TẠNG.

Pháp giới chúng sanh việc vui mừng.

Chỉ nghi vì bởi tại lòng tin.

CHUẨN ÐỀ SÁM PHÁP

Kinh dạy:

Trước khi vào Ðạo tràng, nên làm lễ Phật, Sám hối, Tùy hỷ, Khuyến thỉnh, Phát nguyện.

Nên thọ Bồ đề Tâm Giới; năm pháp này là quy tắc sáu thời hành đạo của các vị Bồ Tát.

Ðầu tiên vào Ðạo tràng quỳ gối, chấp tay, niệm chú dâng hương.

Ðọc Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn:Án Lam (7 biến)

Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn ngôn:Tu Rị, Tu Rị, Ma Ha Tu Rị, Tu Tu Rị Ta Bà Ha. (3 lần).

Tịnh Tam Nghiệp Chơn ngôn: Án, Ta Phạ Bà Phạ Thuật Ðà Ta Phạ, Ðạt Ma Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Ðộ Hám (3 lần)

Phổ Cúng Dường Chơn ngôn: Án, Nga Nga Nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hộc. (3 lần)

Ðọc bài nguyện hương:

Nguyện thử hương hoa vân,

Biến mãn Thập phương giới.

Nhứt nhứt chư Phật độ.

Vô lượng hương trang nghiêm.

Cụ túc Bồ Tát đạo,

Thành tựu Như Lai hương.

Phổ lễ Chơn ngôn: Án Phạ Nhựt Ra Vật. (7 lần)

ÐẢNH LỄ:

vNhứt tâm đảnh lễ A Súc Thế Tôn

vNhứt tâm đảnh lễ Bảo Sanh Thế Tôn.

vNhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Vương Thế Tôn.

vNhứt tâm đảnh lễ Cực Lạc thế giới A Di Ðà Thế Tôn.

vNhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới chư Phật Thế Tôn.

vNhứt tâm đảnh lễ Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết, Ðại Chuẩn Ðề, Ðà Ra Ni

vNhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới Tu đa la Tạng Nhứt thế Ðà Ra Ni môn.

vNhứt tâm đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na cung điện trung Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Ðề Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Ðịa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Ðại Thế Chí Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt Thế Bồ Tát Ma ha tát.

vNhứt tâm đảnh lễ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả Chư Ðại Thanh Văn Tăng.

vNhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt thế Tam thừa Hiền Thánh Tăng.

Sám hối:

Ngã đệ tử … chí tâm sám hối.

Ðại Thánh Chuẩn Ðề Tôn.

Nhứt thế Hiền Thánh chúng.

Kim thân nhược tiền thân.

Sở tạo chư ác nghiệp.

Chúng tội giai sám hối. (3 lễ).

Khuyến thỉnh:

Ngã đệ tử … chí tâm khuyến thỉnh

Thập phương nhứt thiết Phật.

Hiện tại thành đạo giả,

Ngã thỉnh chuyển Pháp luân,

An-Lạc chư chúng sanh,

Thập phương nhứt thế Phật,

Nhược dục Bát Niết Bàn.

Ngã kim đầu diện lễ,

Khuyến thỉnh cửu trụ thế (3 lễ).

Tùy hỷ:

Ngã đệ tử … chí tâm tùy hỷ.

Tam thế chư Như Lai,

Bồ Tát Thanh Văn chúng.

Tu tập tam thừa nhơn,

Nãi chí phàm phu loại.

Sở hữu chư phước thiện,

Thí giới thiền định huệ.

Nhẫn nhục tịnh tinh tấn,

Ngã kim giai tùy hỷ (3 lễ)

Phát nguyện:

Ngã đệ tử … chí tâm phát nguyện.

Nguyện chư chúng sanh đẳng,

Tất phát Bồ đề tâm.

Vĩnh đoạn chư phiền não,

Ðương chứng nhứt thế trí.

Phục nguyện ngã kim tu,

Chuẩn Ðề bí mật hạnh.

Sở cầu chư Tất Ðịa,

Tùy tâm tốc thành tựu. (3 lễ)

Hồi hướng:

Ngã đệ tử … chí tâm hồi hướng.

Dĩ ngã sở tu phước,

Cập dữ Chơn ngôn hạnh.

Hồi hướng chư hữu tình,

Cọng thành Vô thượng đạo.

Phục dĩ kim sở tu,

Lễ bái cập sám hối.

Khuyến thỉnh tịnh tùy hỷ,

Phát nguyện hồi hướng thiện.

Tất thí dữ chúng sanh,

Vĩnh đoạn tam đồ khổ.

Ðồng thú đạo Bồ đề,

Pháp giới chơn như hải. (3 lễ)

Thất Phật Diệt Tội Chơn ngôn (3 lễ)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ ni nể đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế ta bà ha.

VÀO ÐẠO TRÀNG TRÌ CHÚ CHUẨN ÐỀ

CÁCH NGỒI KIM CANG TỌA

(Nghĩa là lấy bàn chân mặt gác lên trên vế chân trái, hoặc tùy ý ngồi cũng được.)

HAI TAY KIẾT ẤN TAM MUỘI: (Nghĩa là lấy tay mặt duỗi ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón tay cái giáo móng với nhau). Ðể ngang dưới rún, thân cho tề chỉnh, tâm cho an tịnh. Rồi tưởng trên đỉnh đầu ta có một chữ LAM rất tròn sáng như ngọc Minh Châu hay như mặt trăng rằm. Khi tưởng như vậy rồi thì xả ấn Tam Muội trên Ðảnh, tay trái kiết ấn Kim Cang Quyền (nghĩa là lấy ngón tay cái bấm vào ngón áp út ở giáp bàn tay, rồi 4 ngón tay kia nắm chặt lại hình như tay cầm cú), rồi tay mặt lần chuỗi mà tụng sau đây:

1)Chú Tịnh Pháp Giới: Án Lam (108 biến)

2)Chú Hộ Thân: Án Xỉ Lâm (108 biến)

3)Chú Lục Tự Ðại Minh: Án Ma Ni Bát Di Hồng (108 biến)

Khi tụng xong chú nói trên thì xả ấn Kim Cang Quyền trên đảnh, rồi quỳ xuống tụng bài kệ Chú Chuẩn Ðề:

Chuẩn Ðề công đức tụ.

Tịch tịnh tâm thường tụng,

Nhứt thiết chư đại nạn

Vô năng xâm thị nhơn,

Thiên thượng cập nhơn gian

Thọ phước như Phật đẳng.

Ngộ thử như ý châu

Ðịnh hoạch vô đẳng đẳng.

Nam Mô Thất Cu Chi Phật Mẫu Ðại Chuẩn Ðề Vương Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần rồi lạy)

Lúc lạy xong, ngồi kiết toàn già và kiết ấn Chuẩn Ðề: Lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt; rồi để ấn ấy ngang ngực. Chí tâm tụng 108 lần chú Chuẩn Ðề và chú Ðại Luân Nhứt Tự như vầy: Nam Mô Tát Ða Nẫm Tam Miệu Tam Bồ Ðề Cu Chi Nẫm, Ðát Ðiệt Tha.Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha Bộ Lâm(tụng 108 lần) muốn trì tụng nữa hoặc tùy lòng. Nên tụng từ chữ Án trở xuống Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Tụng ký số làm chừng như trên, hoặc trì nhiều hơn cũng tốt. Khi niệm đủ rồi muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đảnh, kế dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyến mà ấn theo thứ tự năm chỗ sau đây:

1)Trên đảnh.

2)Nơi vai bên trái.

3)Ở vai bên mặt

4)Tại ngang ngực.

5)Nơi yết hầu.

Trong lúc tay ấn vào năm chỗ ấy thì miệng đọc Thần chú HỒNG HỒNG cho liên tục, chừng nào đủ năm chỗ rồi, thôi tụng xả ấn lên trên đảnh đầu và tụng:

Ngã kim trì tụng Ðại Chuẩn Ðề.

Tức phát Bồ đề quảng đại nguyện.

Nguyện ngã định huệ tốc viên minh

Nguyện ngã công đức giai thành tựu,

Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm,

Nguyện cọng chúng sinh thành Phật đạo.

Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,

Giai do vô thỉ tham sân si,

Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,

Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.

A Di Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,

Cám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa bồ tát chúng diệc vô biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.

Nam Mô A Di Ðà Phật (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Chuẩn Ðề Vương Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)

Nguyện ngã lâm dục mạng vong chung thời

Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại.

Diện kiến bỉ Phật A Di Ðà

Tức đắc vãng sanh Cực Lạc Quốc.

Tự Quy Y Phật,

Ðương nguyện chúng sanh

Thể giải đại đạo,

Phát Vô thượng tâm.

Tự Quy Y Pháp,

Ðương nguyện chúng sanh

Thâm nhập kinh tạng,

Trí huệ như hải.

Tự Quy Y Tăng,

Ðương nguyện chúng sanh

Thống lý đại chúng

Nhứt thiết vô ngại.

Nguyện dĩ thử công đức,

Phổ cập ư nhứt thiết

Ngã đẳng dữ chúng sanh,

Giai cọng thành Phật đạo.

HẾT

CÁCH DÙNG KÍNH ÐÀN

(Mua cái kính tròn mới chưa hề dùng soi mặt đường kính độ 7 phân tây)

Ðem kính tròn xông trầm. Ðến 10 giờ đêm tối ngày rằm, trước tượng Chuẩn Ðề, xây mặt về hướng đông, tướng ngó hướng tây. Hành giả ngó hướng đông, cúng dường hương hoa trang nghiêm, xông an tức hương và tịnh thủy, kiết ấn Chuẩn Ðề, trì chú 108 biến vào Kính đàn (tức là thành tựu đàn pháp). Mỗi khi tụng niệm, để kính trước mặt, tụng xong bỏ kính vào cất trong đãy vải, khi đi đâu đem theo để hộ thân.

Phương pháp an bố chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Ðề”

Hành giả trước khi trì chú, hoặc sau khi trì,

An bố khắp thân phần,

Ðược vô lượng phước đức.

Hoặc mỗi khi tọa thiền quán tưởng chín chữ an khắp thân thể, rất là mầu nhiệm: ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ÐỀ TA BÀ HA.

ÁN: An ký trên đỉnh đầu,

Ánh sáng như mặt trăng

Phóng ra vô lượng quang,

Trừ diệt tất cả chướng.

CHIẾT: An ký nơi đôi mắt

Sáng màu như nhật nguyệt

Chiếu phá mọi u ám

Phát sinh trí huệ minh.

LỆ: An ký nơi cổ,

Màu sáng cám lưu ly (xanh &đỏ)

Hiển bày các sắc tướng,

Ðầy đủ Như Lai trí.

CHỦ: An ký tại tim (ngực)

Màu trong trắng như tơ,

Khiến tâm được thanh tịnh

Mau đến đạo Bồ đề.

LỆ: An ký hai vai,

Sắc màu sáng huỳnh kim,

Người Quán tưởng chữ này

Thường mặc giáp tinh tấn

CHUẨN: An ký ở tại rún

Màu sắc vàng trắng đẹp,

Chóng lên diệu đạo tràng

Không thối Bồ đề tâm

ÐỀ: An ở hai bắp vế

Sáng màu vàng hơi lợt,

Mau chứng đạo Bồ đề

Ðược ngồi tòa Kim Cang.

TA BÀ: An ở hai bắp chân

Sắc màu đỏ rực rỡ,

Nếu thường quán chữ này

Mau chuyển được Pháp Luân

HA:An ở hai bàn chân

Ánh sáng như trăng tròn,

Hành giả Quán chữ này

Mau đến đạo Viên tịch.

NHẬP NHÀ MỚI

Khi cất nhà mới, đến ngày nhập trạch thì lấy một cái chén mới (Lâu nay chưa dùng làm gì) đựng nước trong lấy giữa lòng giếng vào lúc nửa đêm, rồi tay trái kiết ấn Bảo Thủ: (Nghĩa là lấy ngón tay giữa và ngón tay áp út, co lại bấm vào lòng bàn tay, mà giơ ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón út thẳng lên) rồi bưng chén nước, còn tay mặt thì kiết ấn Kiết Tường. (nghĩa là lấy ngón tay cái co lại bấm vào đầu ngón áp út và giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón út lên rồi thư chữ LAM vào trong chén nước, rồi tụng 21 biến Chuẩn Ðề có ghi sau đây), rồi đứng giữa nhà, lấy tay nhúng nước đó mà rải về tám phương: trên, dưới. Sau lại dùng son viết chín chữ Phạn của chú Chuẩn Ðề như vầy vào giấy vàng. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ÐỀ TA BÀ HA (Viết bằng chữ Phạn), rồi đem dán đủ trên các cửa và chí tâm cầu nguyện Phật để tụng chú ấy luôn ba đêm, thì nhà ở được yên ổn, không có quỷ quái nhiễu loạn mà lại được sự cát tường. Nhà đương ở mà sanh yêu quái, thì cũng làm như trên.

TRỊ QUỶ MỊ LÀM ÐAU ỐM

Bị quỷ mị làm cho đau ốm, lấy cành dưng liễu hay nhánh thạch lựu, mắt nhìn vào nhánh cây, miệng chăm tụng chú Chuẩn Ðề 108 biến, rồi lấy nhành cây ấy mà đập, phủi trên thân người đau, tức thời lành bịnh.

Nếu người bịnh ở xa, cũng làm phương pháp ấy; gia trì trong nhánh cây 108 biến rồi đêm về phủi trên mình bịnh nhơn.

Trẻ em bị bịnh quan sát(Hay khóc dạ đề)

Mua chỉ ngũ sắc về, bảo một đứa trẻ (gái) nhỏ xe hiệp lại, rồi mình cầm chỉ ấy tụng một biến chú Chuẩn Ðề rồi gút lại một gút, cứ tụng và gút luôn cho đủ 21 gút, rồi lấy chỉ đeo vàơ mình đứa nhỏ, bịnh nó sẽ lành ngay. Nếu trong thân người các chi tiết bị đau nhức, nên gia trì Thần chú vào trong tay 21 biến mà xoa vào chỗ đau cũng được lành bịnh. (Muốn trị bịnh theo pháp này, phải là người trì chú tu hành trong thời gian lâu dài mới có hiệu nghiệm.)

(Còn người mới tụng Phạn âm chưa thuần tâm không chuyên nhất, không hiệu nghiệm mà đắc tội nặng. Khi vào tự chữa cho mình lành bịnh rồi mới trị cho người khác).

Người bịnh trầm trọng:

Niệm chú Chuẩn Ðề trong chỉ ngũ sắc, cứ niệm mỗi câu gút một gút cho đủ số 108 gút đeo trên cổ bịnh nhân thì được lành bịnh. Nếu người ở xa, nên vẽ hình bịnh nhân rồi nhìn vào hình, xưng tên một lần, trì chú một biến, cho đến khi đủ 108 lần rồi mới lấy chỉ đó đeo vào hình nhơn thì bịnh cũng lành được. Lúc đi đừng, vào rừng, đi thuyền, tàu, phải nên nhớ tụng chú Chuẩn Ðề để hộ thân và tránh khỏi tai nạn.

CHÚ TỲ LÔ GIÁ NA

PHẬT ÐẠI QUÁN ÐẢNH QUANG CHƠN NGÔN

Bất Không Quyến Thần Biến kinh nói: Nếu các chúng sanh tạo đủ thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, tội số như vi trần, đầy khắp thế giới. Khi thân hoại mạng chung bị đọa vào ác đạo. Dùng Chơn ngôn này gia trì vào trong đất cát thật sạch cho đủ 108 biến rồi tán rải trên thi hài của vong nhơn hoặc trên mồ mả họ. Vong nhơn kia nếu ở địa ngục, ngạ quỷ, tu la, súc sanh … Nhờ oai lực gia trì của Chơn ngôn, nhờ sức thần thông của chú lực, lúc bấy giờ liền được ánh hào quang của chư Phật rọi vào thân và trừ được các quả báo, xả thân khổ sở, vãng sanh về nước Cực Lạc tây phương Liên hoa hóa sanh, thẳng đến thành Phật không còn bị đọa lạc.

Chơn ngôn: Án A Mộ Già Vĩ Lô Tả Nẵng Ma Hạ Mẫu Nại Ra. Mạ Nỉ Bát Nạp Mạ Nhập Phạ Ra Bát Ra Mạt Ða Dã Hồng.

PHƯƠNG PHÁP TÁN SA

Lấy cát giữa lòng sông đem về phơi khô, trộn vào ít châu sa, thần sa, để trong chén nước sạch. Tay kiết ấn Bảo Thủ bưng chén cát, còn tay mặt kiết ấn Cát Tường. Mắt ngó vào chén cát, miệng tụng Thần chú Tỳ Lô 108 biến làm chừng, gia trì cho được ba đêm rồi đem cát ấy rải lên mồ mả hay thi hài của người chết trùng, hay chết bất đắc kỳ tử mà vong nhơn không siêu được, làm phương pháp này liền được siêu sanh. Hoặc viết Thần chú này trên vải, giấy vàng rồi đắp lên thi hài người chết, vong họ sẽ nhờ chú lực được siêu sanh cõi Phật.

ÐẠI BẢO QUẢNG BÁT LẦU CÁT

THIỆN TRỤ BÍ MẬT ÐÀRANI

Nẵng Mồ Tát Phạ Ðát Tha Nghiệt Ða Nẫm Án Vĩ Bổ Lã Nghiệt Bệ Mạ Nĩ Bát ra Bệ Ðát Tha Ða Nễ Nại Xả Nỉnh Ma Nĩ Ma Nĩ Tô Bát ra Bệ Vĩ Ma Lê Ta Nghiệt Ra Nghiễm Tỷ Lệ Hồng Hồng Nhập phạ Lã Nhập Phạ Lã Một Ðà Vĩ Lô Chỉ Ðế Hủng Hế dạ Ðịa Sắc sỉ Ða Nghiệt Bệ Ta phạ Ha.

Thần chú này viết chữ Phạn trên chuông, trên bảng, trống, trên tràng phan, trên vách tường. Viết trên giấy, vải đeo mang trong thân, viết trên áo mặc vào thân, hoặc đọc hay tụng các chúng hữu tình nghe tiếng, nghe danh liền được tiêu trừ bao tội chướng, ngủ thức được yên ổn thân tâm, không loạn động. Các chúng sanh mắt thấy, tai nghe, thân chạm xúc đều được tiêu tội đắc phước. Ai thường trì, đọc,tụng, thân hiện tại không bị các bịnh khổ, khi lâm chung được sanh về các nước Phật.

PHỤ THÍCH

LINH NGHIỆM HẢO MỘNG

CỦA NGƯỜI TRÌ CHÚ CHUẨN ÐỀ

Tụng 10 vạn biến hay 20 vạn biến trong mộng thấy Phật, Bồ Tát liền thổ ra vật đen. (Vật đen tiêu biểu cho ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh, cho nên tự thấy trong miệng thổ ra vật đen hay cơm đen.) Mộng thấy chư Thiên, Ðường, Tự Xá (Nhà, chùa, tịnh xá rộng lớn) hoặc trên núi cao, hoặc thấy ở trên cây cao (Không bị tội nghiệp hệ lụy, cho nên được thăng lên. Ðây là thiện nhơn được thành tựu nên thấy thiên, đường, tự, xá) Hoặc thấy ở trong ao lớn tắm rửa (là tịch trừ tội cấu được thân thanh tịnh). Hoặc mộng thấy thân bay lên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc cho nên thân khinh cử nhẹ nhàng) hoặc thấy cùng chư Thiên nữ an vui khoái lạc (được sức giữ gìn thiện căn tương ưng nên cùng thấy vui khoái lạc.) Hoặc thấy thuyết pháp (được thị giáo lợi hỉ). Hoặc thấy râu tóc rụng rớt (râu tóc rụng rớt là pháp Tây quốc ngoại đạo, râu tóc rụng rớt đều là tiêu biểu đoạn trừ phiền não căn gốc vậy). Hoặc nói rằng thấy thân mình cạo bỏ râu tóc. Hoặc thấy ăn cơm sữa, uống nước cam lồ (thấy ăn sữa là thành tựu được phước lành của thế gian, uống nước cam lồ là được pháp vị xuất thế). Hoặc vượt qua sông, suối, biển lớn (được khỏi biển khổ). Hoặc leo ngồi trên tòa sư tử (được tòa pháp vương) Hoặc thấy cây Bồ đề (là kiến đạo tướng). Hoặc cỡi thuyền (là nương cỡi thuyền Bát Nhã là được cái tướng đến bờ giải thoát. Tô Ðất Ðịa kinh nói rằng: Hoặc thấy cỡi sư tử, cỡi trâu trắng, nai trắng, ngỗng trắng … đều là cái tướng Tất Ðịa thành tựu). Hoặc thấy bực Sa Môn (được ly thế nhiễm mà ra khỏi tam giới). Hoặc thấy cư sĩ mặc áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu chánh, trắng là tiêu biểu tịnh, tức là thấy bạch tịnh Chánh pháp mà phú hộ). Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng (tiêu biểu phá phiền não vô minh ám). Hoặc thấy người đồng nam đồng nữ (không bị phiền não tham dục làm ô nhiễm). Hoặc thấy trên cây có nhũ quả (nhũ nghĩa là trắng, trắng là thiện nghiệp, nghĩa là được thế, xuất thế gian thiện nghiệp quả báo). Hoặc thấy người hắc trượng phu trong miệng tuôn ra lửa hừng hẫy cùng với họ đấu chiến được thắng (nghĩa là cùng phiền não ma cộng chiến mà đắc thắng). Hoặc thấy ác mã, trâu nước muốn đến húc người trì tụng Thần chú. Người trì chú hoặc đánh, hoặc nạt nộ, sợ mà bỏ chạy (nghĩa là đối với si phiền não ma, mà được thắng vậy). Hoặc ăn sữa cháo, tôn Phạn (là được thượng vị phước thiện thành tựu). Hoặc thấy Tô Ma Na Hoa (hoa đây nói là xứng ý hoa, sắc vàng trắng mà rất thơm, cây cao ba, bốn thước rũ xuống che như tàng lọng. Nghĩa là tiêu biểu sở cầu thiện pháp quyết được xứng ý. Hoặc thấy có mùi hương thơm, bạch hoa hương tiêu biểu cho hương của ngũ phần pháp thân. Nghĩa là được ngũ phần thiện nghiệp). Hoặc thấy quốc vương (nghĩa là được đại nhơn hộ niệm được tôn quý thắng nghiệp).

Nếu không thấy những cảnh giới như vậy, phải biết người đời trước đã tạo ngũ vô gián tội, nên càng phải trì tụng mãn 70 vạn biến, 90 vạn biến, trăm vạn biến liền thấy những cảnh giới như trên, nên biết đó là tội đã diệt liền thành tiên hạnh. Những cảnh giới hảo mộng như trên đây đều là cái tướng chứng nghiệm thành tựu của người hành giả.

CẢM NIỆM

Ai ơi! Xem hết quyển này,

Gắng theo phương pháp trong đây tu hành.

Niệm Phật trì chú Chuẩn Ðề,

Sống đời hạnh phúc chết về Tây phương.

Niệm Phật chẳng khác thuyền trôi,

Thuận theo gió nước vào bờ rất mau.

Chuẩn Ðề kiêm niệm chẳng lơ,

Khác nào phản lực động cơ đời này.

Quyết đi thì đến không sai,

Chuẩn Ðề niệm tụng Thánh thai hiện tiền.

Chuyên cần chí kính lòng thành,

Chuẩn Ðề như ý toại lòng ước mong.

Tỳ Khưu THÍCH VIÊN ÐỨC

---o0o---



Vi tính : Thiền Lâm Đông Phương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 8341)
Quy mệnh Du Già Tự Tại Vương. Khéo trụ nơi Tam Muội Như Huyễn Rộng khắp các Sát hải sâu tịnh Hay hiển mọi thứ tùy loại Thân Ta y Liên Hoa Vương Ứng Môn. Mở bày pháp Đại Bi ĐA LA.
08/04/2013(Xem: 8159)
Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng :” Thế Tôn ! Con muốn ở trong Hội Giáng Tam Thế Pháp Vương nói Tự Tâm Chân Ngôn.
08/04/2013(Xem: 5592)
Đức Phật bảo Kim Cương Mật Bồ Tát Ma Ha Tát nói về Tất Địa, An Khế, Chữ Mật Ngôn của Kim Cương Tôn ( Vajra Nàtha ) .
08/04/2013(Xem: 7844)
Một thời Đức Phật ngự trong cung điện Bảo Gián Thác Phong trên núi lớn Bảo Phong. Nơi ấy có trăm ngàn cái lọng báu, đủ mọi loại cây sắp thành hàng, hương hoa xinh đẹp thích ý rải bày nhiêm sức .
08/04/2013(Xem: 4729)
Một thời Đức Bạc Già Phạm Kim Cương Giới Biến Chiếu Như Lai ( Bhagavate Vajradhàtu Vairocana Tathàgatàya ) dùng năm Trí tạo thành bốn loại Pháp Thân.
08/04/2013(Xem: 9355)
Ta y theo Kinh Du Già Kim Cương Đỉnh nói về Pháp tu hành thuộc Thân, Khẩu, Ý Kim Cương của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát trong Liên Hoa Bộ.
08/04/2013(Xem: 7350)
Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại khu vườn lớn Quảng Bác trong đại thành Phiệt La Nhiếp Tư cùng với chúng Bật Sô gồm năm ngàn người đến dự, đều là bậc Đại A La Hán đã hết các Lậu, đã làm xong các việc cần làm, chờ được lợi của mình để cắt đứt các Hữu Kết .
08/04/2013(Xem: 5009)
Một thời Đức Bạc Già Phạm ngư trong thành Vương Xá . Lúc đó Tôn Giả La Hầu La (Rahula) đi đến vùng đất Dựng Khi Ca Gia Đát Nẵng (Ingikayatana) trong rừng lạnh (hàn lâm) ở giữa các mồ mả lớn
08/04/2013(Xem: 5920)
Kính lễ Thánh Đại Bi Tạng Quán Tự Tại Bồ Tát. - Thắng cảnh Ba Đáp Lạp (Potalaka) Chữ ĐÁP (鄔 _ TÀM) màu lục sinh. Tam Thế Phật Nghiệp Mẫu Vô Lượng Quang (Amitàbha) nghiêm đỉnh. Cầu Ngài, quyến thuộc đến.
08/04/2013(Xem: 6467)
Nhất tâm quy mệnh lễ! Núi Bổ Đa La Ca (Potalaka) Tốt lành đáng yêu mến. Cõi đó dùng mọi thứ Châu báu để nghiêm sức Mọi loại rừng cây báu Rũ cành lá rậm kín Có mọi thứ thành tựu...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567